Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của công ty cổ phần may thăng long vào thị trường mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.01 KB, 67 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những bước chuyển mình đi lên của các nền kinh tế hội nhập
và toàn cầu hóa là hướng tất yếu không thể tránh khỏi.
Việt Nam là một nước nhỏ, nền kinh tế còn chậm phát triển. Để đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước không
ngừng tạo điều kiện thuận lợi cho những tổ chức, doanh nghiệp tiến hành
hoạt động ngoại thương với tất cả các nước trên thế giới.
Đặc biệt, từ ngày 13/7/2000, hiệp định thương mại Việt- Mỹ được ký
kết đã mở ra cơ hội rộng mở cho tất cả các doanh nghiệp ở tất cả các ngành
nghề. Từ hiệp định này, quan hệ giữa Việt Nam không những với Mỹ mà
với tất cả các ngày càng mở rộng và phát triển. Cơ hội mở ra cho tất cả các
doanh nghiệp ở các thị trường các nước và thị trường Mỹ là thị trường đầy
hứa hẹn cho những hợp đồng hấp dẫn.
Nhận thức được những tiềm năng đó, công ty cổ phần may Thăng
Long cũng nhanh chóng tìm cách thức thích hợp nhất để xâm nhập thị
trường Mỹ và Mỹ đã trở thành khách hàng chủ lực của công ty.
Công ty cổ phần may Thăng Long (nguyên là Công ty may
Thăng Long) là doanh nghiệp may xuất khẩu được thành lập ngày 8/5/1958
theo quết định của Bộ Ngoại thương. Với gần 50 năm trong hoạt động,
doanh nghiệp đã tạo dựng cho mình một thương hiệu uy tín trong và ngoài
nước. Với các chỉ tiêu không ngừng tăng cao như doanh thu tăng bình quân
20%/năm, mức nộp ngân sách tăng 25%/năm, thu nhập tăng 13%/ năm có
được những thành tích trên là do sự đổi mới kịp thời của doanh nghiệp
trước những thay đổi của thị trường, luôn tìm ra hướng đi đúng đắn cho
từng giai đoạn. Không những đổi mới trong phương thức sản xuất, mẫu mã
sản phẩm, phương thức quản lý mà ngay cả trong hình thức xuất nhập
khẩu, phương thức xâm nhập thị trường cũng luôn thích nghi với từng thời
Bùi Thanh Hà 1 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
kỳ để đạt đến thành công như ngày hôm nay luôn là vấn về đối với mỗi


doanh nghiệp.
Tuy đã đạt đựợc nhiều thành công, có nhiều kinh nghiệm trong hoạt
động xuất nhập khẩu với các bạn hàng nhưng với mỗi thời kỳ, mỗi điều
kiện lạị có những thách thức, khó khăn riêng. Nhằm đánh giá mặt đã đạt
được và những tồn tại, hạn chế để đề xuất những giải pháp thích hợp, lựa
chọn những phương thức tối ưu trong đó góp phần nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh, nâng cao kết quả kinh doanh của công ty. Xuất phát từ lý
do đó em đã lựa chọn đề tài:
“Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của
công ty cổ phần may Thăng Long vào thị trường Mỹ”.
Đề tài được trình bày như sau:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chuyên đề được trình bày gồm 3 phần chính:
Chương I: Đánh giá tiềm năng, nhu cầu thị trường Mỹ đối với hàng
dệt may và cơ hội, thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Chương II: Giới thiệu khái quát công ty cổ phần may Thăng Long.
Thực trạng xuất khẩu và xuất khẩu hàng dệt may của công ty cổ phần may
Thăng Long vào thị trường Mỹ.
Chương III: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của công ty
cổ phần may Thăng Long vào thị trường Mỹ.
Sau một thời gian thực tập tại công ty với sự chỉ dẫn và giúp đỡ
của Thầy giáo Cấn Anh Tuấn và các cán bộ trong toàn công ty đặc biệt các
cán bộ trong phòng kế hoạch thi trường em đã hoàn thành báo cáo thực tập
chuyên đề này. Song khả năng, thời gian còn có hạn báo cáo không tránh
khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, rất mong sự đóng góp ý kiến của
thầy giáo, các cán bộ trong toàn công ty nói chung và cán bộ phòng kế
hoạch thị trường để bản báo cáo hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn!
Bùi Thanh Hà 2 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG I
ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG NHU CẦU THỊ TRƯỜNG MỸ
ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VÀ CƠ HỘI, THÁCH
THỨC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM.
I. Đánh giá tiềm năng thị trường Mỹ.
1. Nhu cầu thị trường Mỹ.
Mỹ là một cường quốc trên thế giới, với trên hơn ba trăm triệu dân,
nền kinh tế đứng đầu thế giới là thị trường hứa hẹn của tất cả các doanh
nghiệp. Hiện nay, tổng thu nhập quốc dân của Hoa Kỳ ước tính khoảng
10.450 tỷ USD, chiếm khoảng 21% tổng thu nhập quốc dân toàn cầu. Thu
nhập bình quân đầu người của Hoa Kỳ khoảng 36.300 USD.
Kể từ thập kỷ 90 trở lại đây, Mỹ đã duy trì được mức tăng trưởng
GDP cao hơn mức tăng trưởng chung của cả khối G7. Mức tăng trưởng
GDP bình quân của Mỹ trong thập kỷ 90 là 3,6% trong khi đó mức tăng
trưởng chung của cả khối G7 trong cùng thời kỳ là 2,6%. Tuy nhiên, tốc
độ tăng trưởng GDP thực tế của Mỹ từ năm 2000 trở lại đây không ổn định
và thấp hơn so với mức bình quân của thập kỷ 90. Cụ thể là mức tăng
trưởng năm 2000 là 5%, 2001 là 0,5%, 2002 là 2,2%, 2003là 3,1% và năm
2004 là 4,3%. Nhu cầu tiêu dùng cá nhân của Mỹ vẫn tiếp tục giữ ở mức
cao. Tỷ lệ tiết kiệm ở Mỹ rất thấp, người dân Mỹ chỉ tiết kiệm 1,3% thu
nhập hàng năm. Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu qua mỗi năm
đều tăng, song kim ngạch nhập khẩu tăng hơn, nên tổng thâm hụt thương
mại hàng và dich vụ của Mỹ năm 2003 tăng 71,3 tỷ USD so với năm 2002,
lên mức 489,4 tỷ USD. Ta có thể nhận thấy qua bảng sau:
Bùi Thanh Hà 3 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
Bảng 1: Tóm tắt ngoại thương Hoa Kỳ
(Đơn vị: Tỷ
USD)
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003

Tổng xuất khẩu 1.070,1 1.007,6 974,1 1.018,6
Hàng hóa 772.0 718,7 681,9 713,8
Dich vụ 298,1 288,9 292,2 304,8
Tổng nhập khẩu 1445,4 1365,4 1392,1 1507,9
Hang hóa 1224,4 1145,9 1164,7 1263,2
Dịch vụ 221,0 219,5 227,4 244,8
Tổng cán cân thương mại -75,4 -57,8 -418,0 -489,4
Hang hóa -452,4 -427,2 -482,9 -549,4
Dich vụ 77,0 69,4 64,8 60,0
Nguồn: Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ.
Từ bảng số liệu trên cho ta thấy, nhu cầu của thị trường Mỹ là rất lớn
với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua đã, đang
và sẽ là một điều kiện thuận lợi cho sự thâm nhập của các doanh nghiệp
của Việt Nam và các nước khác.
2. Đánh giá sự cạnh tranh trong lĩnh vực hàng dệt may trên thị
trường Mỹ.
2.1. Đặc trưng của thị trường dệt may tại Mỹ.
Mỹ xuất hiện trên thị trường chậm hơn các nước khác ở Châu Âu và
Châu Á, nhưng đã tạo dựng cho mình một thương hiệu, một vị thế đáng nể
trên thị trường. Bất kỳ ở lĩnh vực nào Mỹ cũng khẳng định ví trí số 1 của
mình trên phạm vi toàn thế giới. Mỹ có những vùng trồng bông nổi tiếng
cho sản lượng, năng suất, chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu cho ngành dệt
may trong toàn nước Mỹ. Để từ đó, dệt may là 1 trong 10 ngành công
nghiệp đứng hàng đầu trong các ngành công nghiệp tai Mỹ, thu hút trên 1,4
triệu lao động trong giai doạn những năm 70. Nhưng sau đó, những thập kỷ
sau, từ những thành tựu của khoa học kỹ thuật đã có sự chuyển dịch của
lao động. Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã giúp giải phóng sức lao động của
con người, làm lực lượng lao động trong ngành may giảm đáng kể. Từ năm
Bùi Thanh Hà 4 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp

1999, đánh dấu sự sụt giảm của ngành may trong toàn nước Mỹ cụ thể đó
là việc giảm sut số lượng các nhà máy dệt, và tiếp đó năm 2000 xuất hiện
sự cạnh tranh của các sản phẩm dệt may từ Châu Á với giá cả cạnh tranh.
Với sự giảm sút của chỉ số giá từ 134,8% năm 1998 xuống còn 122,7%
năm 1999. Chi phí cao, lợi nhuận giảm đã dẫn tới việc số công nhân giảm
theo. Từ đây, ngành công nghiệp may không phát huy đựợc thế mạnh trước
kia nữa bởi chi phí nhân công và đầu vào cao dẫn tới việc phải nhập các
sản phẩm dệt may từ các thị trường khác.
Từ những kết quả trên ta thấy, năng lực xuất khẩu hàng dệt may của
Mỹ ngày càng suy giảm. Với việc giảm của số lựợng đơn hàng và kim
ngạch giảm. Có thể nói, Mỹ không còn khả năng phát huy một cách hiệu
quả các lợi thế của ngành dệt may và chuyển hướng tập trung sang sản xuất
những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao như: điện tử, viễn thông,
công nghệ sinh học…là xu hướng tất yếu.
Mặc dù đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may, nhưng Mỹ vẫn
có những chính sách ưu tiên xuất khẩu hàng dệt may và có những đạo luật
nhằm hạn chế lượng hàng dệt may được nhập khẩu vào. Trong khuôn khổ
ATC, các hạn ngạch và các hạn chế đối với việc buôn bán hàng dệt may
được dỡ bỏ dần dần trong 3 giai đoạn và hết ngày 1/1/2005 . Tất cả các
thành viên của WTO là đối tượng áp dụng của Hiệp định ATC, cho dù họ
có phải là nước ký kết hay không, và chỉ các nước thành viên của WTO
mới đủ tiêu chuẩn được hưởng các lợi ích này.
Mỹ là một nước có mức tiêu dùng cao, khá nhạy bén với những biến
động của thị trường. Sự thay đổi xu hướng tiêu dung hàng may mặc cùng
với sự cạnh tranh trong ngành dệt may đã làm thay đổi cấu trúc ngành này.
Rất nhiều các công ty sản xuất quần áo chuyển sang công ty tiếp thị tiêu
dùng. Hay những công ty này đã chuyển một phần sản xuất của họ ra nước
ngoài hoặc tìm kiếm các nhà thầu nước ngoài, đặc biệt là Mêhicô và các
nước Caribbean Basin Initiative (CBI). Chính việc này cho phép họ có thể
Bùi Thanh Hà 5 Thương Mại 44B

Chuyên đề tốt nghiệp
cung cấp các sản phẩm với giá cạnh tranh và có khả năng phản ứng nhanh
với những thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng.
Ở Mỹ có sự quan tâm rất lớn đến thương hiệu của tầng lớp thanh thiếu
niên Mỹ là một tín hiệu đáng mừng đối với các Công ty tiếp thị thương
hiệu. Ngoài các thương hiệu do các công ty sản xuất quần áo đã tạo dựng từ
trước, những thương hiệu do các Công ty bán lẻ độc quyền đã trở lên ngày
càng quen thuộc, tạo được sự tín nhiệm với khách hàng nhờ những hoạt
động Marketing.
Tại Mỹ, cũng có những sự thay đổi xu hướng, với sự thay đổi của
kết cấu lao động trong các ngành nghề cũng dẫn tứoi sự thay đổi trong
ngành dệt may. Các doanh nghiệp sản xuất cũ có những bước thay đổi để
phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng hơn. Dẫn tới vệc sáp nhập của
các công ty hay tổ chức lại hoặc chuyển sang nhập khẩu. Các công ty tập
trung tìm các nguồn bên ngoài từ các bạn hàng. Các thương nhân tại Mỹ đã
nhanh chóng nắm bắt được nhu cầu này và hàng loạt các hợp đồng với các
bạn hàng từ những nước khác trên thế giới đã hướng về Mỹ.
Bùi Thanh Hà 6 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
Bảng 2: Bạn hàng chính của Mỹ
(Đơn vị: triệu USD)
TT Bạn hàng Nhập khẩu Xuất khẩu Cán cân
1 Canada 224.016,1 148.748,6 -75.267,5
2 Mêhicô 137.199,3 83.108,1 -54.091,2
3 Trung Quôc 151.620,1 26.706,9 -124.913,2
4 Nhật Bản 118.485,1 48.862,2 -69.622,9
5 Đức 66.531,8 26.806,1 -39.725,7
6 Anh 42.455,3 30.556,1 -11.899,2
7 Hàn Quốc 36.929,6 22.524,7 -14.404,9
8 Đài Loan 31.489,7 16.110,6 -15.379,1

9 Pháp 28.896,9 15.682,6 -13.213,4
10 Malaixia 25.320,8 10.124,2 -15.196,6
11 Italia 25.292,7 9.942,8 -15.349,9
12 Ái Nhĩ Lan 25.765,6 7.225,5 -18.540,0
13 Hà Lan 10.972,9 19.206,7 +8.233,7
14 Singapore 14.291,5 14.889,4 +598,0
15 Brazil 17.716,5 9.948,0 -7.768,0
40 Việt Nam 4.472,5 1.291,1 -3.180,9
Nguồn: Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ.
Từ bảng số liệu ta thấy, so với các nứoc khác thì Việt Nam còn khá
khiêm tốn trong việc tiếp cận thị trường Mỹ. Khối lượng buôn bán giữa hai
chiều còn rất hạn chế, cần có những chính sách thich hợp đẻ thúc đẩy các
doanh nghiệp Việt Nam tiêp xúc sâu hơn với các bạn hàng Mỹ, mở rộng
quan hệ.
2.2. Sự cạnh tranh của hàng dệt may trên thị trường Mỹ.
Mỹ là một thị trường rộng lớn và hấp dẫn cho rất nhiều các doanh
nghiệp, các tổ chức hoạt động trên tất cảc các lĩnh vực. Dệt may cũng
không nằm ngoài trong số đó. Đặc biệt, mô hình sản xuất và thương mại
hàng dệt may toàn cầu sẽ có những thay đổi căn bản sau khi Hiệp định
Vòng Uruguay về Dệt may (ATC) hết hiệu lực ngày 1/1/2005. Đó là nhận
định của ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) trong báo cáo đánh giá
khả năng cạnh tranh của một số nước xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường
Mỹ.
Bùi Thanh Hà 7 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo báo cáo, Trung Quốc sẽ là lựa chọn là nhà cung ứng số một của
hầu hết các nhà nhập khẩu ở Mỹ bởi vì nước này có khả năng sản xuất hầu
hết các loại sản phẩm dệt may ở mọi mức độ chất lượng với giá cạnh tranh.
Tuy nhiên, mức độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc
sau khi ATC hết hiệu lực sẽ bị hạn chế một phần do Mỹ và các nước nhập

khẩu khác được phép sử dụng các điều khoản tự vệ trong lĩnh vực dệt may
được quy định tại nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) của Trung Quốc.
Để giảm rủi ro có thể xảy ra do mua từ một nước duy nhất, các nhà
nhập khẩu của Mỹ cũng có kế hoạch mở rộng quan hệ thương mại với
những quốc gia có giá nhập khẩu thấp khác, đặc biệt là Ấn Độ. Đây cũng là
nước có khả năng sản xuất nhiều loại sản phẩm dệt may với giá cả cạnh
tranh với nguồn lao động dồi dào lành nghề, giá cả tương đối thấp.
Về lâu dài, xuất khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ có thể bí ảnh hưởng do
tăng trưởng mạnh kinh tế ở mỗi nước sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng về nhu
cầu nội địa về dệt may cũng như giá nhân công tăng lên, tiền vốn. Đó là
điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong
những năm tới.
Đó là các đối thủ cạnh tranh chính, nhưng bên cạnh đó cũng có rất
nhiều nước với khả năng và điều kiện thuận lợi cũng là đối thủ của Việt
Nam. Một số nước ở Nam Á như Băngladesh hoặc Pakistan cũng xuất khẩu
hàng dệt may với giá thành thấp nổi tiếng với các mặt hàng truyền thống
như các loại áo dệt kim đơn giản sản xuất hàng loạt và áo sơ mi vải bông
(Băngladesh) hoặc quần áo vải bông nam (Pakistan).
Ngoài ra, một số nước được hưởng lợi từ Luật phục hồi Kinh tế Khu
vực lòng chảo Caribê, đặc biệt các nước trong khu vực Trung Mỹ là nguồn
cung cấp chính nếu hiệp định tự do Thương mại giữa Mỹ với Trung Mỹ
hoặc Hiệp định tự do Thương mại toàn Châu Mỹ đang đàm phán cho phép
sử dụng vải có xuất xứ khu vực.
Bùi Thanh Hà 8 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong số các nước thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), chỉ có Việt Nam và ở chừng mực thấp hơn là Inđônêsia được
coi là có khả năng cạnh tranh với Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, mặc
dầu cả hai nước đều có nguồn lao động giá rẻ, dồi dào, nhưng việc chưa gia

nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là trở ngại rất lớn bởi việc có
những rào cản thương mại như hạn ngạch, thuế quan…
II. Cơ hội và thách thức xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào
thị trường Mỹ.
1. Cơ hội đối với các sản phẩm dệt may vào thị trường Mỹ.
Dệt may là một trong những ngành đưa lại kim ngạch xuất khâu lớn
nhất trong những năm gần đây. Nếu như những năm 90, xuất khẩu hàng dệt
may còn đứng vị trí cuối bảng trong những mặt hàng xuất khẩu thì tới năm
1996 có những bước đột biến khởi sắc. Xuất khẩu dệt may có một ý nghĩa
quan trọng và được chính phủ xếp là một trong những mặt hàng chiến lược.
Đặc biệt, với Mỹ- một thị trường đầy hấp dẫn, lý tưởng cho các doanh
nghiệp Việt Nam hướng tới. Với Mỹ ta luôn có những thuận lợi mà với các
nước khác khó có thể tìm thấy.
1.1 Các thuận lợi từ môi trường tự nhiên đem lai.
Đầu tiên có thể nói là về vị trí địa lý, Việt Nam nằm ở vị trí rất thuận
lợi với bờ biển dài thuận tiện cho việc giao thương buôn bán bằng đường
biển. Việt Nam còn nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, thích hợp trồng
những cây công nghiệp ngắn ngày như: bông, đay…là nguyên liệu cung
cấp chính cho ngành dệt may.
Việt Nam còn được biết đến là một nước với bờ biển dài với nhiều hải
cảng lớn rất thích hợp cho các hoạt động hàng hải. Thích hợp cho các hoạt
động xuất khẩu bằng đường biển đặc biệt thích hợp với các hợp đồng xuất
khẩu của ngành dệt may.
Bùi Thanh Hà 9 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2 Thuận lợi do xã hội mang lại
Ngoài ra, Việt Nam là một nước dân số đứng thứ 13 trên thế giới mà
phần đông ở trong lực lượng lao động. Đây là điều kiện thuận lợi cung cấp
nguồn nhân lực dồi dào cho các nhà máy, xí nghiệp may trên cả nước. Đặc
biệt do đặc thù của ngành may là sử dụng nhiều lao động giản đơn, không

đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Đây là lợi thế mà rất ít nước có
được. Ngoài ra, Việt Nam còn có thuận lợi trong giá nhân công. Trong các
nước Châu Á nước ta được đánh giá là một trong những nước có giá nhân
công htấp nhất. Chính điều này đã tạo lên lợi thế so sánh cơ bản của hàng
dệt may của Việt Nam.
Bảng 4: Giá nhân công ngành dệt may của một số nước.
(Đơn vị tính: USD/giờ )
Nhật Pháp Mỹ Anh Đ.Loan H.Quốc H.Kông Singpore
16,63 12,63 10,33 10,16 5 3,6 3,39 3,16
Malaixia TháiLan Philipin Ấn Độ TrungQuốc Inđônêxia ViệtNam
0,95 0,87 0,67 0,54 0,34 0,23 0,18
Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam.
Ta còn thấy, dệt may là ngành công nghiệp đòi hỏi vốn đầu tư không
lớn, công nghệ không quá phức tạp, suất đầu tư thu hồi vốn nhanh phù hợp
với việc sản xuất quy mô nhỏ ở Việt Nam. Ngành công nghiệp dệt may với
các ngành công nghiệp khác đầu tư thấp hơn nhiều chỉ bằng 1/10 so với
ngành điện, 1/15 so với ngành cơ khí, và bằng 1/20 so với ngành luyện
kim. Công nghiệp dệt chỉ cần đầu tư khoảng 15.000 USD, công nghiệp
may cần khoảng 10.000 USD trong khi đó suất đầu tư của ngành giấy cần
tới 30.000 USD.
Đặc biệt, Việt Nam được coi là một nước còn chậm phát triển từ lý do
đó có sự chuyển dịch cơ cấu từ nước phát triển sang. Đó là nguyên nhân
dẫn tới sự chuyển dịch ngành dệt may từ những nước phát triển sang. Đây
là điều kiện cho Việt Nam phát triển ngành dệt may.
Bùi Thanh Hà 10 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
Viêt Nam còn được biết đến là cái nôi văn hóa, với bề dày lịch sử,
ngành dệt đã gắn bao truyền thống của cha ông ta với các sản phẩm nổi
tiếng như lụa Hà Đông…đã khẳng định được vị thế trên thị trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành dệt may đóng góp cho

ngành kinh tế, Đảng và Nhà nước không ngừng thực hiện nhiều chính sách
ưu đãi, hỗ trợ ngành công nghiệp như miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên
liệu đầu vào cho hàng xuất khẩu, quy định trước thuế 0% để được hoàn
thuế các mặt hàng xuất khẩu. Nhà nước còn cho một số doanh nghiệp vay
lãi tạo điều kiện mở rộng khả năng sản xuất, tăng khối lượng xuất khẩu.
Đồng thời, Cục xúc tiến và các Đại sứ quán tại các nước cung cấp thông tin
đầy đủ giúp cho các doanh nghiệp có các định hướng xuất khẩu phù hợp.
Ta còn thấy có điểm tương đồng, bổ sung giữa hai nền kinh tế đó là sự
bù đắp lẫn nhau. Việt Nam là nước kém phát triển, công nghệ và trang thiết
bị lạc hậu, cũ kỹ… Trong khi đó, Mỹ là một cường quốc lớn nhất thế giới
với trình độ tiên tiến, thiết bị hiện đại. Hai sự trái ngược này bổ sung cho
nhau bằng việc xuất hiện những hợp đồng đối lưu có sự trao đổi hàng hóa
phù hợp.
Đó là những thuận lợi mà ngành dệt may của Việt Nam có được
nhưng bên cạnh đó cũng có rất nhiều khó khăn thách thức ảnh hưởng tới
hoạt động xuất nhập khẩu của hàng dệt may qua thị trường Mỹ.
2. Những thách thức của hàng dệt may của Việt Nam khi xâm nhập
thị trường Mỹ.
2.1. Các rào cản từ phía Mỹ.
Hiệp định song phương Việt Nam – Hoa Kỳ ký tháng 4 năm 2003 và
bắt đầu có hiệu lực từ 1/5/2003 là một trở ngại lớn đối với toàn ngành dệt
may của Việt Nam. Theo hiệp định này, 38 cát dệt may từ Việt Nam phải
chịu hạn chế về số lượng nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Hiện tại, Việt Nam vẫn
chưa phải là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế Giới (WTO) nên việc
Bùi Thanh Hà 11 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
xuất khẩu hàng dệt may vẫn bị hạn ngạch. Đó là hạn chế lớn đối với với
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may.
Ngoài ra, cũng còn có rất nhiều bất lợi khác từ trong nước Thị trường
Mỹ là một thị trường rộng lớn, có thể tiêu thụ hàng hóa của hầu hết các thị

trường với tất cả các nhu cầu về mặt giá cả, chất lượng, mẫu mốt… Nhưng
đây cũng là thị trường mà nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng về nhóm
hàng dệt may có độ nhạy cảm cao. Nói cách khác, sự biến động của nhu
cầu, thị hiếu, sở thích của khách hàng là khó khăn đối với việc tìm hiểu nhu
cầu thị trường, và đáp ứng nhu cầu của họ.
Mặt khác, luật pháp của nước Mỹ ở mỗi bang đều có những điểm
không đồng nhất. Khi xuất khẩu cần có những thông tin cụ thể về luật của
các bang, cử các cán bộ nắm bắt thay đổi các luật định, sự biến đổi của luật
tại các thị trường này.
2.2 Các khó khăn từ trong nước.
Ngoài ra, dệt may Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế trong công việc
Marketing giới thiệu sản phẩm. Do thiếu vốn mà vấn đề quảng cáo giới
thiệu sản phẩm còn yếu, nghiên cứu thiết kế mẫu còn sơ sài, tìm kiếm
khách hàng còn mang tính thụ động, chủ yếu là các khách hàng tự tìm đến
với các công ty. Các công ty còn chưa chú trọng đầu tư cho hệ thống thu
thập thông tin để nắm bắt thông tin kịp thời về vấn đề giá cả, cung cầu trên
thị trường gây khó khăn trong quá trình đàm phán và xây dựng giá cả.
Trong bối cảnh của ngành dệt may Việt Nam hiện nay đã có từng
bước khẳng định của mình trên thương trường quốc tế. Bằng các kết quả
đạt được dệt may Việt Nam đang dần củng cố được vị thế của mình trên
thương trường quốc tế. Chúng ta chưa được phép thỏa mãn với những kết
quả đó vì đó chưa thực sự đảm bảo một vị thế vững chắc trên thị trường và
vượt trội so với đối thủ khác. Bài toán thị trường đầu ra luôn là một vấn đề
lớn cần giải đáp cho toàn ngành dệt may nói chung và công ty cổ phần may
Bùi Thanh Hà 12 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
Thăng Long nói riêng. Trước mắt, thị trường Mỹ là một thị trường giàu
tiềm năng và hấp dẫn. Một con đường xuất khẩu đối với công ty đã đang
dần được khai thông. Tuy nhiên, đó không phải là một con đường bằng
phẳng. Để sản phẩm của dệt may Việt Nam nói chung và sản phẩm của

công ty cổ phần may Thăng Long nói riêng có mặt và tạo lập được uy tín
trên thị trườngMỹ là một quá trình gian lao vất vả. Để đạt được kết quả như
mong muốn cần có sự chung vai gánh vác của các doanh nghiệp và các cơ
quan Nhà nước.
III. Các hình thức xuất khẩu hàng dệt may.
Cũng như những ngành khác, dệt may cũng có thể áp dụng rất nhiều
các biện phương thức xuất khẩu để đưa sản phẩm của mình tới khách hàng
ở các nước khác nhau. Nhưng tùy điều kiện, hoàn cảnh mà mỗi công ty,
doanh nghiệp lựa chọn cho mình những phương pháp xuất khẩu phù hợp.
Hiện nay, đối với ngành dệt may của Việt Nam nói chung và của công ty
cổ phần may Thăng Long nói riêng chủ yếu áp dụng hai phương thức chính
đó là xuất khẩu trực tiếp (với biện pháp xuất khẩu FOB) và hình thức gia
công.
1. Hình thức xuất khẩu trực tiếp.
Theo tài liệu Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu của GS.TS. Võ
Thanh Thu có viết: Giao dich trực tiếp (xuất nhập khẩu trực tiếp) là hình
thức giao dịch trực tiếp, trong đó người bán (người sản xuất, người cung
cấp) và người mua có quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua
thư từ, điện tín) để bàn bạc thỏa thuận về hàng hóa, giá cả và các điều kiện
giao dịch khác.
Từ đó ta thấy, xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của
một công ty cho khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài.
Để thâm nhập thị trường nước ngoài thông qua xuất khẩu trực tiếp, các
công ty thường sử dụng các phương thức sau:
Bùi Thanh Hà 13 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
• Đại diện bán hàng: đây là phương thức bán hàng không mang
danh nghĩa của người ủy thác nhằm nhận lương và một phần
hoa hồng trên cơ sở giá trị hàng hóa bán được. Trên thực tế, đại
diện bán hàng hoạt động như một như là nhân viên bán hàng

của công ty ở thị trường nước ngoài, công ty sẽ ký hợp đồng
trực tiếp với khách hàng ở thị trường đó.
• Đại lý phân phối: đây là phương thức xuất khẩu trong đó người
mua hàng hóa của công ty để bán theo kênh tiêu thụ ở khu vực
mà công ty phân định. Công ty khống chế phạm vi phân phối ở
thị trường nước ngoài. Đại lý phân phối chấp nhận rủi ro liên
quan đến việc bán hàng hóa ở thị trường đã định sẵn và thu lợi
nhuận qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
Từ những định nghĩa trên ta thấy, hình thức xuất khẩu trực tiếp có
những ưu điểm. Đó là việc cho phép người xuất khẩu trực tiếp nắm bắt
được nhu cấu của thị trường về số lượng, chất lượng, giá cả để người bán
thỏa tôt nhất mãn nhu cầu của thị trường, của khách hàng. Từ việc xuất
khẩu trực tiếp, sẽ giúp nhà xuất khẩu tiết kiệm được rất nhiều chi phí qua
các khâu trung gian, người bán sẽ không bị chia nhỏ lợi nhuận. Đồng nghĩa
với việc đó là người tiêu dùng cũng được tiếp xúc gần hơn với giá cả thực
tế của sản phẩm. Ngoài ra, việc xuất khẩu trực tiếp giúp cho doanh nghiệp
gây dựng chiến lược tiếp thị quốc tế phù hợp.
Nhưng bên cạnh đó, việc áp dụng phương pháp xuất khẩu trực tiếp
cũng gặp rất nhiều khó khăn. Đầu tiên có thể xét tới việc chi phí bỏ ra để
tiếp cận thị trường nước ngoài là rất lớn cho nên những doanh nghiệp vừa
và nhỏ vốn ít khó có khả năng theo đuổi. Đặc biệt những doanh nghiệp của
Việt Nam phần đông đều là những doanh nghiệp nhỏ và vừa nên việc theo
đuổi việc xuất khẩu trực tiếp này gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài ra, kinh
doanh xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi có các cán bộ có ngiệp vụ kinh doanh
Bùi Thanh Hà 14 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
xuất nhập khẩu giỏi: giỏi về giao dịch đàm phán, am hiểu và có kinh
nghiệm buôn bán quốc tế đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông
thạo, có như vậy mới đảm bảo kinh doanh xuất khẩu trực tiếp có hiệu quả.
Đây vừa là yêu cầu để đảm bảo hoạt động kinh doanh xuất trực tiếp, vừa

thể hiện điểm yếu của đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam khi
tiếp cận thị trường thế giới. Chính vì các điểm yếu trên mà sự lựa chon hiện
nay của các doanh nghiệp dệt may ở Việt Nam là xuất khẩu theo phương
thức thứ hai đó là hình thức gia công.
2. Hình thức gia công
Gia công là một hoạt động kinh doanh thương mại trong đó gia công
hàng xuất khẩu là phương thức sản xuất hàng xuất khẩu. Trong đó, người
đặt gia công ở nước ngoài cung cấp: máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu
hoặc bán thành phẩm theo mẫu định trước. Người nhận gia công trong
nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách. Toàn bộ
sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để
nhận tiền công.
Hoạt động gia công ngày nay khá phổ biến trong hoat động ngoại
thương của nhiều nước. Hoạt động gia công mang đến thuận lợi cho các hai
bên với các lợi thế của mình. Với bên đặt gia công, phương thức này giúp
cho lợi dụng được giá rẻ về nguyên phụ liệu và nhân công của nước nhận
gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ yên tâm với
sản phẩm làm ra bởi có sẵn thị trường tiêu thụ, không phải bỏ ra bất cứ chi
phí cho họat động bán sản phẩm xuất khẩu. Việc thực hiện các hợp đồng
gia công thích hợp cho những công ty có quy mô vừa và nhỏ bởi vốn đầu
tư ít cho sản xuất do không phải lo về nguyên liệu đầu vào. Ngoài ra, nó
còn giúp tận dụng được lực lượng nhân công rẻ trong nước. Từ hoạt đọng
này, cũng giúp các doanh nghiệp học hỏi được kinh nghiệm xuất khẩu, tạo
mẫu bao bì…
Bùi Thanh Hà 15 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong điều kiện kinh nghiệm kinh nghiệm kinh doanh quốc tế của các
doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt trong ngành may thấp, chưa có mẫu mã,
nhãn hiệu, có uy tín riêng thì hình thức gia công xuất khẩu giúp cho ngành
may mặc của Việt Nam đưa ngay ra thị trường thế giới, mang lại ngoại tệ

cho đất nước.
Nhưng hiện tại, trong quan hệ gia công hiện nay, phần lớn đối tác gia
công là các trung gian mua bán nên lợi nhuận thu được từ hoạt động này
không cao. Ngoài ra, như ta biết hoạt động gia công của doanh nghiệp nhận
gia công phụ thuộc vào bên phía đặt gia công: phụ thuộc về thị trường, giá
bán sản phẩm, giá đặt gia công, nguyên vật liệu, mẫu mã, nhãn hiệu sản
phẩm…cho nên những doanh nghiệp sản xuất lớn, chất lượng sản phẩm tốt
với hình thức gia công doanh nghiệp khó có điều kiện phát triển mạnh ra
thị trường thế giới. Gia công nhiều khi còn là trường hợp bên phía nước
ngoài lợi dụng hình thức gia công để bán máy móc cho phía bên Việt Nam,
sau một thời gian không có thị trường đặt gia công nữa máy móc phải “đắp
chiếu” gây lãng phí. Nhiều trường hợp bên đặt gia công đưa máy móc trang
thiết bị cũ, lạc hậu về công nghệ sang Việt Nam dẫn tới công nhân làm việc
kém hiệu quả, nặng nhọc, gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, với năng lực
tiếp thị kém nhiều doanh nghiệp bị phía bên đặt gia công lợi dụng quota
phân bổ đưa hàng kém chất lượng vào Việt Nam.Với trình độ còn hạn chế,
phương thức gia công còn dẫn tới việc quản lý định mức gia công và thanh
lý các hợp đồng gia công không tốt sẽ là chỗ hở để đưa hàng hóa trốn thuế
vào Việt Nam, gây khó khăn cho sản xuất, và kinh doanh trong thị trường
nội địa. Hiện nay, tình hình gia công ở khu vực và trong nước ngày càng
gay gắt làm cho giá gia công sụt giảm dẫn tới tình trạng hiệu quả kinh
doanh kém do hiệu quả kinh doanh gia công thấp, thu nhập của công nhân
gia công ngày càng giảm sút.
Bùi Thanh Hà 16 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
Trên đây là hai hình thức xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may xuất
khẩu của nước ta trong thời gian qua. Phần nào đã đưa lại kết quả đóng góp
lớn vào kim ngạch xuất khẩu nói riêng và đóng góp vào tổng thu nhập quốc
dân nói chung. Đồng thời với lượng xuất khẩu không ngừng tăng cao, chất
lượng luôn được cải tiến để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của các bạn hàng, của

khách hàng dệt may đã tự khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong
cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế.
Với kết quả đã đạt dược trong thời gian qua cùng với kinh nghiệm thu
được các doanh nghiệp nói riêng và Tổng công ty dệt may nói chung sẽ lựa
chọn cho mình được cách xuất khẩu thích hợp nhất phù hợp với khả năng
và điều kiện của mình.
CHƯƠNG II. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
MAY THĂNG LONG. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU VÀ XUẤT
KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY
THĂNG LONG VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ.
I. Giới thiệu khái quát về công ty cổ phần may Thăng Long
1. Giới thiệu về công ty
Tên đầy đủ: Công ty cổ phần may Thăng Long.
Tên giao dịch: Thanglong Garment Joint Stock Company.
Địa chỉ: 250 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Tên viết tắt: THALOGA
Tel: (84.4) 8623372, 8623375, 6240592, 8639265, 8623054.
Fax: (84.4) 8623374
Bùi Thanh Hà 17 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
E-mail: - TGĐ
Website: /> /> Ngoài trụ sở chính tại 250 Minh Khai, Hà Nội Công ty cổ phần may
Thăng Long còn có các xí nghiệp may:
Xí nghiệp may Thăng Long G&A: Thanh Châu, Phủ Lý, Hà Nam
Tel/Fax: (84.351) 850004* Mobile: 0903435952
Xí nghiệp may Nam Hải: 189 Nguyễn Văn Trỗi, Năng Tinh, Nam
Định
Tel/Fax: (84.0350) 843597, 864435* Mobile: 0912065444
Công ty còn có các trung tâm giao dich và giới thiệu sản phẩm
tại các địa điểm:

250 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Tel: (84.4) 8623054, 8623372, 8623375, 8639265, 6240592
Fax: (84.4) 8623374
37 – 39 Ngô Quyền, 02 Hàng Đậu, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Tel: (84.4) 8251262* Mobile: 0913207615
Fax: (84.4) 8268304
Ngoài ra công ty được chia thành những xí nghiệp nhỏ chuyên sản
xuất từng mặt hàng riêng theo chuyên môn hoá.
2. Quá trình phát triển
Công ty cổ phần may Thăng Long tiền thân là công ty may Thăng
Long trực thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam, được thành lập ngày
8/5/1958 theo quyết định của bộ ngoại thương. Và đến năm 2004 theo quết
định số 165/2003/QB-BCN ngày 14/10/ 2003 công ty chuyển thành cổ
phần mang tên công ty cổ phần may Thăng Long tên tiếng Anh là
THANGLONG GARMENT JOINT STOCK COMPANY (THALOGA)
với số vốn điều lệ là 23 tỷ đồng trong đó vốn Nhà nước chiếm 51%. Hiện
tại, THALOGA CÓ 05 xí nghiệp tại Hà Nội, Hoà Lạc (Hà Tây), Nam Định
Bùi Thanh Hà 18 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
và 01 Công ty liên doanh tại Hà Nam với 75 dây chuyền sản xuất và trên
3000 cán bộ công nhân viên. Có được kết quả trên công ty phải trải qua quá
trình hình thành và phát triển thành các giai đoạn như sau:
Giai đoạn đầu thành lập từ 1958- 1988. Đây là giai đoạn công ty gặp
nhiều khó khăn do mới thành lập và có chiến tranh.
Sau một thời gian chuẩn bị ngày 8/5/1958 Bộ Ngoại thương đã chính
thức ra quyết định thành lập Công ty may mặc xuất khẩu, thuộc tổng công
ty xuất nhập khẩu tạp phẩm. Công ty có trụ sở đóng tại số nhà 15 phố Cao
Bá Quát- Hà Nội. Ban đầu thành lập công ty chỉ có 20 công nhân tay nghề
cao và 8 cán bộ là bộ đội chuyển ngành. Với tổng số 28 cán bộ ban đầu,
nhưng con số không ngừng tăng lên đến nhưng tháng cuối năm 1958 tông

số cán bộ cà công nhân không ngừng tăng lên tới 550 người. Đồng thời
công ty hoàn thành xuất sắc kế hoạch năm với tổng sản lượng là 392.129
sản phẩm đã đạt 112,8% kế hoạch đề ra. Sau đó căn cứ vào nhu cầu sản
xuất công ty đã có những thay đổi về địa điểm. Từ những ngày đầu, công ty
đã chuyển về 40 Phùng Hưng, bộ phận đóng gói, đóng hòm phải phân tán
về 17 Chả Cá và phố Cửa Đông. Với quy mô sản xuất ngày càng mở rộng,
tới năm 1959 công ty chuyển về 139 Lò Đúc nhưng một số bộ phận vẫn
phân tán ở một số nơi như sản xuất áo sơ mi, pizama đặt ở Hàng Ngang,
măng tô đặt ở Hàng Trống, Hàng Bồ, áo mưa đặt ở Trại Găng và đóng gói,
đóng hòm ở Chả Cá, Cửa Đông, Hàng Bột Nhờ sự tăng quy mô về máy
móc, thiết bị, số lượng lao động, hệ thống quản lý kế hoạch công ty đã
tăng gấp 3 lần năm 1958 nhưng công ty vẫn vượt 102% chỉ tiêu. Trong
những năm này công ty đã mở rộng quan hệ với các khách hàng nước ngoài
như: Liên Xô, Đức, Mông Cổ, Tiệp Khắc.
Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại
thủ đô Hà Nội, đề ra đường lối đưa miền Bắc quá độ lên CNXH và tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Để
hưởng ứng phong trào đó của Đảng và Nhà nước công ty bước vào thực
Bùi Thanh Hà 19 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) với những thay đổi lớn.
Tháng 7/1961, công chuyển về địa điểm 250 Mịnh Khai thuộc khu phố Hai
Bà Trưng nay là quận Hai Bà Trưng – là trụ sở chính như ngày nay. Với
địa điểm mới đã tạo nhiều thuận lợi cho mọi hoat động của công ty. Với
mặt bằng rộng rãi, tổ chức sản xuất ổn định, các bộ phận không còn phân
tán nay đã thống nhất tạo thành một dây chuyền khép kín khá hoàn chỉnh
ngay từ nhưng khâu ban đầu như nguyên vật liệu cắt, may, giặt, mài, là đến
khâu cuối cùng là đóng gói, đóng hòm.
Ngày 31/8/1965 theo Quyết định của Bộ Ngoại Thương tách bộ phận
gia công thành đơn vị độc lập với tên gọi là Công ty gia công may mặc.

Công ty may mặc xuất khẩu đỏi tên thành Xí nghiệp may mặc xuất khẩu và
từ đây đánh dấu một giai đoạn mới của xí nghiệp với những điều kiện thuận
lợi đã tạo điều kiện cho xí nghiệp đi vào chuyên sâu vào các mặt hàng xuất
khẩu nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao uy tín của xí nghiệp nói
riêng và của toàn ngành dệt may Việt Nam nói chung. Để thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm xí nghiệp đã có những đầu tư tích cực
vào máy móc (cụ thể đã được cấp 178 máy chạy điện của Công hoà dân
chủ Đức thay cho máy móc cũ, chuyển từ thủ công sang máy móc ) và
trong 5 năm xí nghiệp luôn hoàn thành kế hoạch và đã đóng góp vào việc
thực hiện kế hoạch 5 năm thành công trong cả nước.
Vào những năm kháng chiến chống Mỹ, cùng với cả nước xí nghiệp
cũng gặp rất nhiều khó khăn, đã trải qua 4 lần đổi tên, 4 lần đổi địa điểm, 5
lần thay đổi cán bộ chủ chốt với lượng nguyên vật liệu thiếu đã dãn tới năm
1972 xí nghiệp chỉ hoàn thành 67,7% kế hoạch với 2 084 643 sản phẩm.
Nhưng con số không ngừng tăng lên theo sự nỗ lực của các cán bộ, công
nhân trong xí nghiệp. Năm 1973 xí nghiệp đã đạt tổng giá trị sản lượng là 5
696 900 đồng tức đạt 101,77%. Những năm tiếp theo trong điều kiện khó
khăn sản lượng có tăng nhưng không nhiều như năm 1975 xí nghiệp đã đạt
tổng giá trị sản lượng là 5 984 900 đồng tức đạt 104,36%. Trong các năm
Bùi Thanh Hà 20 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
1976- 1980, xí nghiệp đã tập trung vào một số hoạt động chính như: triển
khai thực hiện là đơn vị thí điểm của toàn ngành may, trang bị thêm máy
móc, nghiên cứu và cải tiến dây truyền công nghệ Năm 1979, xí nghiệp
được Bộ quyết định đổi thành xí nghiệp may Thăng Long.
Giai đoạn từ 1980- 1988, đây là thời kỳ phát triển vượt bậc của xí
nghiệp. Mỗi năm trung bình xuất khẩu 5 000 000 áo sơ mi, thị trường được
mở rộng ở hầu hết các nước XHCN như: Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc
Giai đoạn từ 1989- 2003, những thị trường truyền thống của xí nghiệp
dần thay đổi do vào đầu những năm 90 có sự sụp đổ của một loạt các nước

XHCN, những hợp đồng đã ký ở các thị trường như Đức, Liên Xô, Đông
Âu không còn hiệu lực, hàng không có thị trường tiêu thụ. Ngành dệt may
nói chung và xí nghiệp may Thăng Long nói riêng lâm vào tình trạng khó
khăn.
Đứng trước khó khăn đó lãnh đạo của xí nghiệp may Thăng Long đã
quyết định tổ chức lại sản xuất. Xí nghiệp quyết định đầu tư hơn 20 tỷ dồng
để thay thế toàn bộ hệ thống thiết bị cũ trước đây của Công hoà dân chủ
Đức bằng dây truyền thiết bị mới của Cộng hoà liên bang Đức, Nhật Bản.
Đồng thời xí nghiệp hết sức chú trọng đến việc tìm kiếm và mở rộng thị
trường xuất khẩu. Xí nghiệp đã ký nhiều hợp đồng với các doanh nghiệp ở
Pháp, Đức, Thụy Điển, Hàn Quốc, Nhật Bản.
Với những thay đổi hiệu quả trên, năm 1991 xí nghiệp may Thăng
Long là đơn vị đầu tiên của ngành may được Nhà nước cấp giấy phép xuất
nhập khẩu trực tiếp. Với sự ưu đãi này đã giúp cho xí nghiệp tiếp cận trực
tiếp với khách hàng ở các thị trường đã giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Thực hiện việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà
nước và địa phương trong thời kỳ đổi mới, tháng 6/1992 xí nghiệp được Bộ
Công Nghiệp Nhẹ (nay là Bộ Công Nghiệp) cho phép chuyển đổi tổ chức
từ xí nghiệp sang thành công ty và giữ nguyên tên Thăng Long theo quyết
định số 218 TC/LĐ- CNN. Công ty may Thăng Long ra đời- đánh đấu một
Bùi Thanh Hà 21 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
giai đoạn phát triển mới. Công ty may Thăng Long là mô hình công ty đầu
tiên trong các xí nghiệp may mắc phía Bắc được tổ chức theo cơ chế đổi
mới. Công ty đã thiết lập quan hệ với nhiều bạn hàng ở các thị trường mới
như Châu Âu, Nhật Bản, Mỹ Ngoài thị trường xuất khẩu doanh nghiệp
còn chú trọng thị trường nội địa, năm 1993, công ty đã thành lập Trung tâm
thương mại và giới thiệu sản phẩm tại 39 Ngô Quyền, Hà Nội với diện tích
trên 300m2 từ đó mở rộng sự hiểu biết của khách hàng về sản phẩm của
công ty cũng như giúp cho công ty hiểu biết thêm về khách hàng của mình.

Từ năm 1994, công ty đã thực hiện việc cải tiến quản lý sản xuất. Bộ máy
quản lý tinh giảm, giám đốc trực tiếp quản lý và điều hành quản lý hoạt
động của công ty. Đồng thời công ty đã thực hiện việc cải tiến quản lý sản
xuất chuyển từ chế độ 2ca/ngày sang chế độ 1ca/ngày. Việc cải tiến đã giúp
người lao động không phải đi quá sớm về quá muộn đảm bảo sức khỏe. Và
hiệu quả của việc đổi mới này đã làm tăng 20% năng suất lao động. Từ đây
công ty đã bắt đầu sáng tạo những mẫu mốt đế triển khai các đơn đặt hàng
FOB và nội địa, với một số mặt hàng như áo khoác dài, thảm treo tường…
Công ty cũng thay đổi hàng loạt máy móc mới và hiện đại đã đưa
năng suất 1.200.000/năm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đến
năm 1996 công ty lại tiếp tục đầu tư 6 tỷ đồng để cải tạo nhà xưởng, mua
sắm thiết bị, thành lập xí nghiệp may tại Nam Hải tại TP.Nam Định thu hút
250 lao động và năm 2001 công ty đã đầu tư xây dựng công trình nhà máy
liên doanh với Trung Quốc G&A tại Hà Nam với số vốn đầu tư trên 30 tỷ
đồng giai đoạn 1, bắt đầu tháng 1 năm 2003 nhà máy chính thức đi vào
hoạt động đã xuất khẩu 45.000 sản phẩm vào các thị trường EU, Mỹ,
Isael Nhờ sự phát triển đó công ty là một trong những đơn vị đầu tiên ở
phía Bắc chuyển sang hoạt động sản xuất với kinh doanh nâng cao hiệu
quả.
Từ năm 2004 đến nay, công ty may Thăng Long được cổ phần hoá
theo quyết định số 165/2003/QĐ-BCN ngày 14/10/2003 của Bộ Công
Bùi Thanh Hà 22 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
Nghiệp về việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Công ty may Thăng
Long trực thuộc Tổng công ty Dệt may Việt Nam. Công ty may Thăng
Long chuyển sang hình thức cổ phần với Nhà nước nắm giữ 51% vốn điều
lệ và 49% được bán cho các cán bộ công nhân viên trong công ty. Trong
quá trình hoạt động, khi có nhu cầu và đủ điều kiện công ty sẽ phát hành
thêm cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn đầu tư để phát triển sản xuất
kinh doanh. Theo phương án cổ phần hoá:

Vốn điều lệ của công ty
Vốn điều lệ được chia thành
Mệnh giá thống nhất của mỗi cổ phần
23.306.700.000 đồng
233.067 cổ phần
100.000 đồng
Với gần 50 năm hoạt động công ty may Thăng Long đã đạt nhiều
thành tích đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước.
Ghi nhận những đóng góp công ty Nhà nước đã trao tăng cho đơn vị nhiều
huân chương cao quý như 1 Huân chương Độc lập hạng nhì (năm 2002),
Huân chương Độc lập hạng 3 (năm 1997) và nhiều huân chương cao quý
khác. Đặc biệt công ty là đơn vị đầu tiên được cấp phép xuất khẩu trực tiếp,
tạo thế chủ động, giảm phiền hà tiết kiệm chi phí,…Công ty đã nhận gia
công, may, thêu, mài…80% sản phẩm của công ty xuất khẩu ra nước ngoài
và thị trường đã mở rộng ra trên 30 quốc gia.
3. Chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực kinh doanh.
3.1. Chức năng.
Từ khi thành lập, sau gần 50 năm hoạt động công ty đã vượt lên là một
công ty đứng đầu ngành dệt may. Có được thành quả đó là do công ty đã
hoạt động tốt chức năng của mình. Đó là khai thác, sử dụng có hiệu quả tài
sản và nguồn vốn, lao động để phát triển sản xuất, tìm hiểu mặt hàng mới.
Đồng thời, công ty còn phải tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ
thuật để phát triển sản xuất, mở rộng thị trường.
Bùi Thanh Hà 23 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
3.2. Nhiệm vụ.
Công ty cổ phần may Thăng Long là công ty thuộc ngành dệt may đầu
tiên được quyền xuất, nhập khẩu trực tiếp, công ty chuyên sản xuất các mặt
hàng chất lượng cao theo đơn đặt hàng của khách hàng trong và ngoài
nước. Ngoài ra, công ty còn sản xuất các sản phẩm nhựa và kinh doanh khu

ngoại quan. Vì vậy, nhiệm vụ của công ty đó là xây dựng và thực hiện đầy
đủ các kế hoạch kinh doanh, đáp ứng nhu cầu may mặc của các tầng lớp
nhân dân, thực hiện đầy đủ các hợp đồng xuất nhập khẩu. Đồng thời, công
ty cần hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Tổ chức tốt đời sống cho
cán bộ, công nhân viên trong toàn công ty.
3.3 Lĩnh vực kinh doanh.
Mỗi năm công ty sản xuất khoảng 10.000.000 sản phẩm, trong đó
xuất khẩu khoảng 80%. Sản phẩm của công ty có mặt trên 30 quốc gia trên
thế giới trong đó có cả những thị trường khó tính như Mỹ, EU,…Những
mặt hàng công ty đang sản xuất và kinh doanh chủ yếu:
- Quần áo bò.
- Quần áo sơ mi nam, nữ, bộ comple.
- Bộ đồng phục người lớn, trẻ em.
- Áo jacket các loại.
- Quần áo thể thao và quần áo dệt kim.
Hiện nay, lĩnh vực kinh doanh của công ty bao gồm: sản xuất kinh
doanh xuất nhập khẩu trên các lĩnh vực hàng may mặc, nhựa, kho ngoại
quan. Trong đó, hoạt động chính vẫn là ở lĩnh vực may mặc với các loại
sản phẩm cơ bản: quần, áo sơmi, áo jacket, áo khoác các loại, quần áo trẻ
em…Việc sản xuất của công ty chủ yếu là hàng gia công may mặc theo các
hợp đồng gia công.
4. Bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh
4.1 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị.
Từ năm 2004, công ty may Thăng Long được cổ phần hoá theo quyết
định số 165/2003/QĐ-BCN ngày 14/10/2003 của Bộ Công Nghiệp về việc
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Công ty may Thăng Long trực thuộc
Tổng công ty Dệt may Việt Nam. Công ty may Thăng Long chuyển sang
Bùi Thanh Hà 24 Thương Mại 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
hình thức cổ phần với Nhà nước nắm giữ 51% vốn điều lệ và 49% được

bán cho các cán bộ công nhân viên trong công ty.
Bộ máy tổ chức quản lý của công ty đựơc tổ chức như sơ đồ sau:
Bùi Thanh Hà 25 Thương Mại 44B

×