Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

Tội tham ô tài sản theo luật hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.13 MB, 139 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các bản án,
số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, có nguồn gốc và
được trích dẫn theo đúng quy định của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình
nghiên cứu khoa học nào.
Nếu có gì khơng đúng sự thật tơi hồn tồn chịu trách nhiệm.
Tác giả

Vương Văn Thuộc


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ luật hình sự

BLHS

Cảnh sát điều tra

CSĐT

Cấu thành tội phạm

CTTP

Hội đồng xét xử

HĐXX

Tòa án nhân dân



TAND

Tòa án nhân dân Tối cao

TANDTC

Thành phố Hồ Chí Minh

TP.HCM

Trách nhiệm hình sự

TNHS

Ủy ban nhân dân

UBND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSND


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN..................................................................................6
CHƯƠNG 1................................................................................................................8
HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI THAM Ô TÀI SẢN....................................8
1.1. Quy định của Luật hình sự Việt Nam về hành vi khách quan của tội tham ô tài

sản............................................................................................................................... 8
1.2. Thực tiễn xác định hành vi tham ô tài sản...................................................... 11
1.3. Kiến nghị hướng dẫn xác định dấu hiệu khách quan của tội tham ô tài sản....23
Kết luận chương 1................................................................................................. 27
CHƯƠNG 2.............................................................................................................. 28
CHỦ THỂ CỦA TỘI THAM Ô TÀI SẢN............................................................. 28
2.1. Quy định của Luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội tham ô tài sản..........28
2.2. Thực tiễn xác định dấu hiệu “người có chức vụ, quyền hạn” trong tội tham ô tài
sản............................................................................................................................. 31
2.3. Kiến nghị sửa đổi Bộ luật Hình sự và ban hành văn bản hướng dẫn xác định
dấu hiệu “người có chức vụ, quyền hạn” trong tội tham ô tài sản..............................41
Kết luận chương 2................................................................................................. 45
KẾT LUẬN.............................................................................................................. 46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 48
PHỤ LỤC................................................................................................................. 50


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tham nhũng đã và đang là vấn nạn của nhiều quốc gia trên thế giới, là
nguyên nhân làm suy yếu bộ máy Nhà nước; là căn bệnh nguy hiểm của xã hội bởi
nó hiện diện ở mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tồn tại và phát triển không
ngừng, hàng ngày hàng giờ len lỏi vào mọi mặt của đời sống, làm phương hại đến
lợi ích của hầu hết cơng dân, cản trở sự phát triển bền vững của Nhà nước. Tham
nhũng vẫn đang diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với
phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt từ đó làm giảm sút
lịng tin của quần chúng nhân dân vào pháp luật và Nhà nước, là một trong nguy cơ
lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.

Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với
1

những năm trước đổi mới . Những kết quả đạt được từ việc đổi mới hệ thống chính
trị, cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ
thống pháp luật và hội nhập quốc tế đã tạo ra tiền đề quan trọng cho việc thực hiện
mục tiêu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nhà
2

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân . Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII đề ra chủ trương về phát huy sức mạnh tổng hợp
của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí, đài truyền
hình, các doanh nghiệp và nhân dân tham gia vào cơng cuộc đấu tranh phịng, chống
tham nhũng. Đảng ta xem đấu tranh phòng, chống tham nhũng là sự nghiệp của toàn
dân. Quan điểm này được thể hiện rất rõ trong Văn kiện: “Nâng cao vai trò phát huy
tính tích cực, chủ động và phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội,
nhân dân, doanh nghiệp, báo chí trong phát hiện, đấu tranh phịng, chống tham
3

nhũng” .
Nhận thức được sự nguy hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều văn bản xác định mục tiêu, quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp
nhằm góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong cơng tác đấu tranh phịng, chống
1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật (2021), tập I, tr.25.

2


Điều 2 Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật (2021), tập II, tr.146.

3


2

tham nhũng, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự
4

lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí ; Văn kiện
Đại hội lần thứ XII, XIII của Đảng; Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07/12/2015 của Bộ
Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ
việc, vụ án tham nhũng; Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018...
Trong thời gian qua nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng,
phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, xét xử nghiêm nhiều vụ
việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, xã hội quan tâm, góp phần củng cố niềm tin
5

trong nhân dân .
Do yêu cầu của công tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng và tình hình tội
phạm tham nhũng nói chung, tội phạm tham ơ tài sản nói riêng; một số quy định của
pháp luật về tội tham ơ tài sản cịn bất cập, dễ áp dụng tùy tiện…; thực tiễn áp dụng
cịn một số khó khăn, vướng mắc, như xác định chủ thể và dấu hiệu khách
quan.Trong nhóm tội phạm tham nhũng, tội tham ơ tài sản là một trong những tội
phạm xảy ra thường xuyên với mức độ nguy hiểm cho xã hội rất cao do hậu quả gây
ra nghiêm trọng với số tiền chiếm đoạt thường rất lớn. Trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, kinh tế là lĩnh vực luôn tiềm ẩn khả năng tham ô tài sản rất lớn. Bởi ở đó

lợi ích vật chất được xác định là động lực thúc đẩy mạnh mẽ hành vi tham ô tài sản.
Thực tiễn cho thấy, tội phạm tham ô tài sản ngày càng gia tăng với quy mô và mức
độ phức tạp hơn. Động cơ vụ lợi đã khiến khơng ít cán bộ, cơng chức cố tạo cho
mình một đặc quyền nào đó để chiếm đoạt tài sản có trách nhiệm quản lý bằng các
thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
Hiện nay, tình hình tội phạm tham ơ tài sản ở nước ta đang diễn ra cả ở chiều
rộng, lẫn chiều sâu và sức cơng phá của nó khơng phải chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh
tế mà cả chính trị, xã hội. Trong khi đó, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) (sau đây viết tắt là BLHS năm 2015) đã có hiệu lực pháp luật gần 04 năm
nhưng một số quy định của pháp luật vẫn chưa được giải thích hướng dẫn cụ thể.
Mặt khác, những năm gần đây xuất hiện ngày càng nhiều vụ án tham ô tài sản có
tính chất nổi cộm, quy mơ ngày càng lớn, thủ đoạn tinh vi, phức tạp và tổ chức chặt
chẽ cho thấy việc điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng nói chung và tham ơ tài sản

4
5

Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21/8/2006 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật (2021), tập II, tr. 85.


3

nói riêng cịn nhiều hạn chế chưa thật sự “khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ”
như chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phịng, chống tham nhũng.

6

Vì lý do đó, tơi quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tội tham ơ tài sản
theo luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình nhằm nghiên cứu một

cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội danh này, từ đó tìm ra những
phương hướng nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong cơng tác đấu tranh phịng
chống tội phạm tham ô tài sản ở nước ta trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài tội tham ơ tài sản, gần đây đã có một số cơng trình
nghiên cứu, trong đó đáng chú ý như: Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thúy
tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019 với đề tài “Tội tham ô
tài sản theo luật hình sự Việt Nam”; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Ngọc Diệp tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2017 với đề tài “Tội tham ô tài sản trong pháp
luật hình sự Việt Nam”. Nội dung của hai luận văn này đã nêu khái niệm, ý nghĩa
của việc quy định tội tham ơ tài sản theo luật hình sự Việt Nam; dấu hiệu định tội,
định khung, hình phạt; phân biệt tội tham ô tài sản với tội lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản và với nhóm tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; thực tiễn áp dụng các dấu hiệu định khung;
thực tiễn áp dụng quy định về hình phạt và quyết định hình phạt; quy định của Công
ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng, pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới quy định về tội tham ô tài sản và đưa ra một số kiến nghị…Như vậy, nội dung
chính của luận văn này chủ yếu tập trung làm rõ khái niệm, ý nghĩa, việc định tội,
định khung hình phạt đánh giá thực trạng đối với tội tham ô tài sản và làm rõ tội
tham ô tài sản ở một số nước trên thế giới.
Ngồi ra, cịn có một số bài viết, chun đề nghiên cứu trên các tạp chí
chuyên ngành liên quan đến tội phạm về tham ô tài sản:
- Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm có hành vi chiếm đoạt tài
sản khác của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 03/2021.
- Phát hiện, xử lý các vụ án tham ô tài sản: thực trạng và giải pháp khắc phục
những hạn chế, bất cập của tác giả Nguyễn Thị Hương đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp số 5, tháng 3/2019.

6 Tạp chí Nội chính số tháng 8/2020, tr. 3.



4

- Bình luận tội tham ơ tài sản của TS Đỗ Đức Hồng Hà, Ủy viên thường trực
Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa XIV đăng trên Tạp chí kiểm sát số 5/2018.
Nhìn chung, những đề tài, chuyên đề nghiên cứu nêu trên đã tìm hiểu khái
niệm và các yếu tố cấu thành tội phạm của tội tham ô tài sản, đánh giá thực trạng áp
dụng tội tham ô tài sản nói riêng; hoặc làm sáng tỏ quy định của luật hình sự về các
tội phạm về chức vụ và chỉ ra được một vài hạn chế trong quy định của luật về các
tội phạm này nói chung. Trên tinh thần kế thừa các thành công của các công trình
nghiên cứu trên về tội tham ơ tài sản, trong Luận văn này, tác giả tổng hợp kiến thức
về dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản và phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng
tội phạm này ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự về tội tham ơ tài sản, tác giả chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
áp dụng quy định về về tội phạm này, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hồn thiện
các quy định của pháp luật hình sự về tội tham ơ tài sản trong luật hình sự Việt

Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về dấu hiệu khách
quan và dấu hiệu chủ thể của tội tham ô tài sản;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về dấu hiệu khách quan và
dấu hiệu chủ thể của tội tham ô tài sản;
- Kiến nghị hồn thiện pháp luật hình sự liên quan đến dấu hiệu khách quan
và dấu hiệu chủ thể của tội tham ô tài sản.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phương pháp

nghiên cứu của đề tài
4.1. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của pháp
luật và thực tiễn áp dụng hành vi khách quan và dấu hiệu chủ thể của tội tham ô tài
sản.
- Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu các vụ án liên quan đến tội
tham ô tài sản xảy ra chủ yếu từ ngày 01/01/2018 đến tháng 9/2021. Tuy nhiên,


5

Luận văn có bình luận một số vụ án xảy ra trước năm 2018, khi quy định của BLHS
năm 1999 và BLHS năm 2015 về cùng một dấu hiệu pháp lý không thay đổi.
- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng tội tham ô
tài sản trên phạm vi cả nước.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định của pháp luật hình sự và thực
tiễn áp dụng tội tham ô tài sản theo luật hình sự Việt Nam.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra, trên cơ sở phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
xây dựng nhà nước pháp quyền, về đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và
đấu tranh phịng, chống tội phạm tham nhũng nói riêng. Để phục vụ cho việc nghiên
cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân
tích, tổng hợp, phương pháp so sánh và phương pháp nghiên cứu án điển hình.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để tiến hành phân tích và
tổng hợp một cách khái quát các nội dung cần nghiên cứu trong luận văn. Qua đó,
phân tích thành từng vấn đề pháp lý liên quan về tội tham ô tài sản.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm giống nhau và
khác nhau trong quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội tham ơ tài sản với

một số tội phạm khác có liên quan, để từ đó rút ra được những ưu điểm và hạn chế
trong quy định về tội tham ô tài sản.
- Phương pháp nghiên cứu án điển hình được sử dụng để phân tích các bản
án, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng liên quan đến những vụ án tham ơ
tài sản; từ đó nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS sự về
tội tham ô tài sản cũng như những vấn đề bất cập, vướng mắc.
5. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 02 chương:
Chương 1. Hành vi khách quan của tội tham ô tài
sản. Chương 2. Chủ thể của tội tham ô tài sản.


6

NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN
Theo từ điển Tiếng Việt, “tham ô” là “lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách để
7

ăn cắp của cơng” ; theo đó, có thể hiểu tham ô tài sản là hành vi của người có
quyền hạn hoặc chức trách đã lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách của mình để
chiếm đoạt của cơng. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm “tham ơ tài
sản” được hiểu là hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, hoặc cơng dân
8

của người có chức vụ, quyền hạn thành tài sản riêng mình . BLHS năm 2015 quy
định:
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách
nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì phạm tội tham ô tài sản:

a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm.
Như vậy, cấu thành của tội tham ô tài sản bao gồm 04 yếu tố cấu thành như
sau:
Khách thể của tội phạm
Tội tham ô là một trong những tội tham nhũng nên nó đã xâm hại đến hoạt
động đúng đắn, uy tín và hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Ngoài ra, tội tham ô tài sản còn xâm hại đến quyền sở hữu của Nhà nước, tổ chức xã
hội và doanh nghiệp. Đối tượng tác động của tội tham ô tài sản là tài sản của Nhà
nước, của cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và doanh nghiệp trong
9

và ngoài nhà nước . Đây là những hành vi có khả năng gây thiệt hại nhiều nhất cho
quan hệ sở hữu, làm tha hóa, biến chất đội ngũ cán bộ có trách nhiệm quản lý tài
10

sản, gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội .
Mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi khách quan của tội tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản mình có trách nhiệm quản lý - nghĩa là lợi dụng chức
7
8

9

Hoàng Phê (chủ biên) (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bác khoa, Hà Nội, tr.1165.
Ts Trương Hồng Hải, Ts Nguyễn Xuân Trường (2021), thuật ngữ nội chính, PCTN và cải cách tư pháp, tr.249.

Ts Trần Thị Quang Vinh (2018), Ts Vũ Thị Thúy, Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh. Tr 478.


10
Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà - Phạm Thị Thu (2018),
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần các tội phạm, NXB Công an Nhân dân, tr.768.


7

vụ quyền hạn về quản lý tài sản của Nhà nước, của tổ chức xã hội, của doanh
nghiệp mà chuyển biến trái phép tài sản của Nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp thành
tài sản của mình. Lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mình có trách
11

nhiệm quản lý là đặc trưng pháp lý của tội tham ô tài sản .
- Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội tham ơ tài sản có thể được thực hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau như cơng khai, bí mật hoặc bằng thủ đoạn gian dối
12

như sửa đổi số liệu trong sổ sách, tạo chứng từ giả, v.v .
Tội tham ơ tài sản có cấu thành tội phạm vật chất nên tội phạm hoàn thành
khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản.
Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện bằng hình thức lỗi cố ý trực tiếp, động cơ tư lợi là
13

dấu hiệu bắt buộc của tội phạm .
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội tham ô tài sản là chủ thể đặc biệt - là người có chức vụ quyền
14


hạn trong quản lý tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp .
Tội tham ô tài sản được cấu thành bởi 4 yếu tố cấu thành nêu trên. Tuy
nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật thì vấn đề khó khăn, vướng mắc thường gặp nhất
trong thời gian qua đối với tội tham ô tài sản là việc xác định dấu hiệu khách quan
và chủ thể của tội phạm. Vì vậy, trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu hai
dấu hiệu hành vi khách quan và chủ thể của tội tham ô tài sản.

11

Ts Trần Thị Quang Vinh, Ts Vũ Thị Thúy (2018), Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, Tr 478.

12

Ts Trần Thị Quang Vinh, Ts Vũ Thị Thúy (2018), Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, tr 479.

13

Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà - Phạm Thị Thu (2018),
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần các tội phạm, NXB Công an Nhân dân, tr.768.
14
Ts Trần Thị Quang Vinh, Ts Vũ Thị Thúy (2018), Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, tr 478.


8

CHƯƠNG 1
HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI THAM Ô TÀI SẢN
1.1. Quy định của Luật hình sự Việt Nam về hành vi khách quan của tội
tham ô tài sản
Tội tham ô tài sản có cấu thành tội phạm vật chất nên mặt khách quan của tội

tham ô tài sản gồm hành vi khách quan, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi và hậu quả của tội phạm. Trong nhóm tội phạm về chức vụ, dấu hiệu hành vi
khách quan là cơ sở rất quan trọng để phân biệt tội tham ô tài sản với các tội phạm
khác. Hành vi khách quan của tội tham ô tài sản là hành vi “chiếm đoạt tài sản” mà
15

người có chức vụ, quyền hạn có trách nhiệm quản lý . Như vậy, đặc trưng mặt
khách quan của tội tham ô tài sản là hành vi “chiếm đoạt tài sản” bằng thủ đoạn lợi
dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có trách nhiệm quản lý. Hành vi khách quan của
tội tham ô tài sản được biểu hiện ở những dấu hiệu sau:
- Về dấu hiệu của hành vi: Trước hết, người phạm tội tham ơ tài sản phải là
người có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản. Lợi
dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản là do người có chức vụ, quyền hạn
thực hiện và hành vi chiếm đoạt đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn
của họ, nếu họ khơng có chức vụ, quyền hạn đó thì họ không thể thực hiện việc
chiếm đoạt tài sản; chức vụ, quyền hạn là điều kiện để người phạm tội thực hiện
việc chiếm đoạt tài sản. Nếu người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản mà việc thực hiện hành vi này không liên quan đến chức vụ, quyền hạn
của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn cũng không bị coi là tham ô tài sản.
Ví dụ: Nguyễn Văn A là thủ quỹ của công ty X. Do chơi hụi nên A nợ nhiều
người và mất khả năng thanh toán. A đã bàn với vợ là Đào Thị T dùng giấy tờ nhà
thế chấp cho cơng ty để vay 800.000.000 đồng với mục đích đầu tư nuôi tôm. Sau
khi vay được tiền, vợ chồng A đã trả cho các chủ nợ. Đến hạn không thấy vợ chồng
A trả tiền, công ty mới phát hiện bộ hồ sơ do vợ chồng A thế chấp cho cơng ty là
giả. Mặc dù A là người có chức vụ, quyền hạn và cũng có trách nhiệm quản lý tài
sản nhưng A đã không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do mình
trực tiếp quản lý mà chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giám đốc công ty tin và cho
vợ chồng A vay tiền. Chức vụ, quyền hạn của A chỉ là phương tiện để thực hiện thủ
đoạn gian dối khi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công ty.
15


Ts Trần Thị Quang Vinh, Ts Vũ Thị Thúy (2018), Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, tr 478 .


9

Hành vi đặc trưng trong tội phạm này là hành vi “chiếm đoạt tài sản” mà
người có chức vụ, quyền hạn có trách nhiệm quản lý. Đây là hành vi chuyển dịch
bất hợp pháp tài sản từ chủ sở hữu thành tài sản của mình hoặc của cơ quan, tổ chức
16

hoặc người khác . Hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản được thực hiện thông
qua thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn với những điều kiện khác nhau như:
+ Người phạm tội lợi dụng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do mình đảm
nhiệm trong cơng tác để làm sai chức trách, làm trái nguyên tắc, vi phạm chế độ,
chính sách quản lý tài sản mà mình phụ trách như: chế độ thu, chi quản lý tài sản,
chứng từ, sổ sách, kế toán, tiền mặt… để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm
quản lý. Ví dụ: thủ quỹ tự lấy tiền do mình quản lý để chi tiêu cá nhân; thủ kho tự
lấy tài sản trong kho do mình quản lý đem bán…
+ Người phạm tội có hành vi làm trái với chức trách, nhiệm vụ của mình để
chiếm đoạt tài sản.
+ Người phạm tội lợi dụng quyền quyết định của mình đối với người khác để
tác động gây ảnh hưởng đến người khác, buộc họ đưa tài sản và chiếm đoạt tài sản
đó. Ví dụ: Chủ tịch UBND xã lệnh cho thủ quỹ đơn vị đưa tiền cho mình. Đây có
thể là hành vi của người thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cũng có thể
là người được giao nhiệm vụ, cơng vụ có quyền tự quyết trong q trình thực hiện
cơng vụ, nhiệm vụ đó.
- Về thủ đoạn: Để chiếm đoạt tài sản người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn của mình, biến cơng cụ, nhiệm vụ được giao như công cụ,
phương tiện, điều kiện để biến tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc của công dân thành

tài sản của mình một cách trái pháp luật. Thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
chiếm đoạt tài sản có biểu hiện tương tự như thủ đoạn của người phạm tội trộm cắp
tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản như: lén lút, bí mật cơng khai, gian dối…Chính vì đặc
điểm này mà tội tham ô tài sản được coi là trộm cắp tài sản, công nhiên chiếm đoạt
tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài tài sản của
người có chức vụ, quyền hạn đối với tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý.

16

Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà - Phạm Thị

Thu (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần các tội phạm, NXB Công
an Nhân dân, tr.769.


10

- Về dấu hiệu hậu quả: Hậu quả của tội tham ô tài sản là những thiệt hại về
17

vật chất hoặc phi vật chất cho cơ quan, tổ chức và cho xã hội . Đối với tội tham ô
tài sản, thiệt hại trước hết là thiệt hại về tài sản, ngồi ra cịn có những thiệt hại khác
phi vật chất như gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động bình thường, đúng đắn và uy tín
của cơ quân, tổ chức.
- Thời điểm tội phạm hồn thành: Tội tham ơ tài sản là tội có cấu thành vật
18

chất, tội phạm hồn thành từ thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản .
Tuy nhiên, trên thực tế, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà cơ quan, tổ

chức giao cho người có chức vụ, quyền hạn mà có nhiều loại cán bộ có chức năng,
trách nhiệm quản lý tài sản ở mức độ khác nhau, như: thủ kho, thủ quỹ chịu trách
nhiệm quản lý trực tiếp tài sản; thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm quản lý chung, gián tiếp đối với tài sản…Do đó, thời điểm tội phạm
hồn thành cịn căn cứ vào tính chất mối quan hệ giữa người phạm tội và tài sản bị
chiếm đoạt. Tội phạm có thể hồn thành từ thời điểm tài sản đó bị đưa ra khỏi kho,
nơi cất giữ, hoặc từ khi người phạm tội nhận được tài sản do người khác chuyển
giao cho mình trái pháp luật…
- Phân biệt hành vi tham ô tài sản với hành vi lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản: Hành vi tham ô tài sản: Sử dụng chức vụ như một phương
tiện để biến tài sản mình quản lý thành tài sản cá nhân, như: Sử dụng quyền hạn
thực hiện không đúng chức trách hoặc làm trái chế độ quản lý tài sản; sử dụng
quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép nhưng có liên quan đến cương vị công tác để
chiếm đoạt tài sản; tài sản chiếm đoạt là tài sản mà người phạm tội quản lý, là tài
sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Đối với hành vi lạm dụng chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản: Sử dụng chức vụ, quyền hạn như một phương tiện
để làm một việc vượt ngoài trách nhiệm được giao nhằm chiếm đoạt tài sản. Có thể
là uy hiếp, lừa dối… chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản; tài sản chiếm đoạt là tài sản
của người khác, dưới sự quản lý của người khác, có thể là tài sản của Nhà nước.
Tóm lại, hành vi khách quan của tội tham ô tài sản khá phức tạp, cần có sự
kết hợp của nhiều dấu hiệu và bị coi là hành vi tham ô tài sản nếu người có chức
17

Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà - Phạm Thị

Thu (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần các tội phạm, NXB Công
an Nhân dân, tr.769.

18


Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà - Phạm Thị

Thu (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần các tội phạm, NXB Công
an Nhân dân, tr.770.


11

vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản mà
mình có trách nhiệm quản lý.
1.2. Thực tiễn xác định hành vi tham ô tài sản
Trên thực tiễn, hiện nay vẫn còn không ít trường hợp các cơ quan tiến hành
tố tụng xác định sai về bản chất của hành vi tham ô tài sản, như: thế nào là “chiếm
đoạt tài sản”, thời điểm cấu thành tội phạm? Thực tế đã xảy ra một số vụ án như
sau:
19

Vụ án thứ nhất :
Nguyễn Thanh Đ là giáo viên của Trường tiểu học LK. Ngày 16/01/2008, bị
cáo Nguyễn Thanh Đ được giao nhiệm vụ là thủ quỹ của Trường Tiểu học LK theo
quyết định số 05, với nhiệm vụ là quản lý, theo dõi các vấn đề thu, chi quỹ của Nhà
trường. Ngày 20/01/2011, do cận tết Nguyên đán năm 2011, Trường tiểu học LK
chưa có tiền lương, phụ cấp ưu đãi và kinh phí hoạt động của tháng 01 và tháng 02
năm 2011 nên Trường tiểu học LK xin tạm ứng trước tiền lương, phụ cấp ưu đãi và
kinh phí hoạt động. Hiệu trưởng của trường thời điểm này là ông Nguyễn Văn H đã
ký giấy rút dự toán ngân sách số 01/01, nội dung thanh toán “chi khác tháng 01 và
02/2011” với số tiền 281.348.000đ. Trong đó gồm: tiền lương tháng 01 và 02 của
cán bộ, giáo viên nhà trường là 163.257.948đ; tiền phụ cấp ưu đãi là 54.390.840đ và
kinh phí hoạt động tháng 01 và 02 năm 2011 của trường là 63.699.212đ. Số tiền trên
bị cáo Nguyễn Thanh Đ trực tiếp đi rút tại Kho bạc Nhà nước huyện Đ.

Sau khi rút tiền bị cáo Nguyễn Thanh Đ đã đến Ngân hàng Chính sách xã hội
huyện Đ nộp hộ cho ơng Nguyễn Văn H tiền gốc và lãi vay tại Ngân hàng Chính
sách xã hội huyện Đ tháng 01/2011 với số tiền là 1.041.000đ; Nộp lại số tiền
78.686.525đ cho Kho bạc Nhà nước huyện Đ, đây là số tiền gốc và lãi vay Ngân
hàng tháng 01 và 02 năm 2011 của cán bộ, giáo viên nhà trường đã vay của Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Chi nhánh huyện Đ (Kho bạc Nhà nước
huyện Đ thu hộ cho Ngân hàng theo hợp đồng ủy nhiệm thu nợ); cho ông Trương
Văn K là Phó Hiệu trưởng Trường tiểu học LK mượn số tiền 5.000.000đ từ số tiền
nhận tại Kho bạc.
Số tiền cịn lại 196.620.475đ (trong đó có tiền lương, tiền phụ cấp ưu đãi
tháng 01 và 02 của bị cáo đương nhiên được nhận là 5.323.890đ) bị cáo Nguyễn

19 Bản án số 36/2021/HS-PT ngày 25/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu.


12

Thanh Đ không đem về trường mà bỏ trốn với số tiền Ngân sách bị chiếm đoạt là
191.296.585đ.
Ngoài ra, trong quá trình bỏ trốn thì bị cáo Nguyễn Thanh Đ còn chiếm đoạt
của Nhà trường số tiền mà bị cáo đang được giao quản lý gồm 45.500.000đ tiền
kinh phí học sinh nghèo theo chương trình 135 của Chính phủ năm 2010 và số tiền
Bảo hiểm xã hội trích lại 02% trong tổng số tiền của cán bộ, giáo viên nhà trường
đóng bảo hiểm xã hội của tháng 10, 11 và tháng 12/2010 với số tiền 5.012.910đ.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2021/HS-ST ngày 04/3/2021 của Tòa án nhân
dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh Đ
phạm tội “Tham ô tài sản”. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/3/2021 bị cáo Nguyễn
Thanh Đ kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và xin giảm nhẹ trách nhiệm dân
sự.
Theo quan điểm của tác giả:

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh Đ đã đủ yếu tố cấu thành của tội tham ô
tài sản. Bởi vì, theo hồ sơ vụ án, sau khi đi rút 281.348.000 đồng tại Kho bạc Nhà
nước huyện Đ và nộp trả các khoản: nộp hộ lãi vay cho ông Nguyễn Văn H với số
tiền 1.041.000 đồng; Nộp lại số tiền 78.686.525đ cho Kho bạc Nhà nước huyện Đ,
đây là số tiền gốc và lãi vay Ngân hàng tháng 01 và 02 năm 2011 của cán bộ, giáo
viên nhà trường đã vay của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Chi
nhánh huyện Đ; cho ông Trương Văn K là Phó Hiệu trưởng Trường tiểu học LK
mượn số tiền 5.000.000đ từ số tiền nhận tại Kho bạc, thì số tiền còn lại Nguyễn
Thanh Đ phải mang về Trường Tiểu học LK để theo dõi trên hệ thống sổ sách và
phát lương tháng 01 và 02 cho cán bộ, giáo viên nhà trường nhưng Đ bỏ trốn và
chiếm đoạt số tiền trên để tiêu xài cá nhân, tội phạm đã hoàn thành từ lúc này.
Ngồi ra trong q trình bỏ trốn thì bị cáo Nguyễn Thanh Đ cịn chiếm đoạt của Nhà
trường số tiền mà bị cáo đang được giao quản lý gồm 45.500.000đ tiền kinh phí học
sinh nghèo theo chương trình 135 của Chính phủ năm 2010 và số tiền Bảo hiểm xã
hội trích lại 02% trong tổng số tiền của cán bộ, giáo viên nhà trường đóng bảo hiểm
xã hội của tháng 10, 11 và tháng 12/2010 với số tiền 5.012.910đ.
20

Vụ án thứ hai :
Đinh Thị L được giao nhiệm vụ làm thủ kho vật tư hành chính văn phịng
phẩm của Cơng ty T. Ngày 18/12/2019, Cơng ty T ký hợp đồng Công ty P về việc
20 Bản án số 13/2021/HS-PT ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam.


13

cung ứng máy tính, máy văn phịng. Ngày 11/3/2020, Cơng ty T có đơn đặt hàng
mua của Cơng ty P 60 hộp mực máy phô tô loại MP3055 với đơn giá 1.620.000đ/01
hộp; ngày 13/3/2020, tiếp tục đặt mua 30 hộp mực máy phô tô Fuji V4070 với đơn
giá 1.680.000đ/01 hộp.

Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên Đinh Thị L nảy sinh ý định chiếm đoạt một
số hộp mực trong đơn đặt hàng để hưởng lợi. Sau khi có đơn đặt hàng của Cơng ty
T, trong q trình trao đổi thỏa thuận với P qua điện thoại, L nói với P “cho chị gửi
lại 20 hộp, có gì nói chuyện sau”. Hiểu ý L bảo P bớt lại 20 hộp mực khi giao hàng,
song trong phiếu giao hàng vẫn ghi đủ số lượng như trong đơn đặt hàng, do nể L là
người đại diện của khách hàng nên P đồng ý.
Ngày 11/3/2020, P mang 05 hộp mực loại MP3055 đến Công ty T giao cho L
để làm mẫu cho Công ty T dùng thử. Đến ngày 19/3/2020, tiếp tục chuyển 20 hộp
mực máy phô tô loại Fuji nhưng lập phiếu giao hàng trong đó có nội dung
HMV4070, số lượng 30 hộp. Khi kiểm đếm đến thùng carton chứa các hộp mực loại
Fuji V4070, do đã bàn bạc với P từ trước, biết trong thùng carton khơng có đủ số
lượng hộp mực như trong phiếu giao hàng, để tránh bị phát hiện, L nói với chị
Nguyễn Thị H: “Hàng này chị mang xuống Tổng, em đừng bóc ra” thì chị H đồng ý,
đóng dấu “Đã vào cổng”, đồng thời ký tên vào 02 phiếu giao hàng của Công ty P rồi
đưa cho L. L ký tên xác nhận vào 02 phiếu giao hàng ở mục người mua hàng, đưa
lại cho P một phiếu, cịn L giữ một phiếu. Sau đó, L lập biên bản giao nhận, nghiệm
thu hàng hóa với số lượng 30 hộp mực loại Fuji V4070 đủ theo phiếu giao hàng của
Công ty P, rồi lập phiếu nhập kho làm thủ tục nhập hàng vào kho vật tư hành chính
của cơng ty Cơng ty T. Cịn 10 hộp mực bớt lại, theo P khai bán cho một số người, P
không nhớ tên tuổi địa chỉ. Tương tự như trên, ngày 30/3/2020, P giao cho công ty T
45 hộp mực nhưng lập phiếu giao hàng trong đó có nội dung 50 hộp mực loại
MP3055 có dán tem của Cơng ty T&D. Sau khi giao hàng cho L xong, đến ngày
06/4/2020, P gửi trả lại 5 hộp mực loại MP3055 cho Công ty T&D.
Đến ngày 09/5/2020, sau khi biết được thông tin Công ty T sẽ kiểm tra, thống
kê vật tư văn phòng phẩm, lo sợ bị phát hiện và thấy việc làm của mình là sai trái
nên L gọi điện thoại bảo P mang vào Công ty T 10 hộp mực loại Fuji V4070 và 10
hộp mực loại MP3055 giao cho L để bù vào kho vật tư văn phòng phẩm nhằm khắc
phục hậu quả. Ngày 10/5/2020, P liên hệ với Công ty T&D đặt mua 10 hộp mực
Fuji V4070 và 10 hộp mực MP3055. Do P yêu cầu cung cấp hàng ngay, nên chiều
ngày 10/5/2020, sau khi nhận hàng từ Công ty Đông Á, Công ty T&D chuyển



14

20 hộp mực các loại cho P mà chưa dán tem của Cơng ty T&D, trong đó 10 hộp
mực loại V4070 khơng có dán tem nhãn hiệu của nhà cung cấp, 10 hộp mực
MP3055 dán tem của Công ty Đông Á đề ngày 10/5/2020. Khoảng 08 giờ 45 phút
ngày 11/5/2020, Công ty T tiến hành kiểm tra vật tư kho văn phịng hành chính và
kho nhà 8 tầng, phát hiện: tại kho văn phịng hành chính có 18 hộp mực loại V4070
dán tem “BOE” (do nhà phân phối là Công ty T&D cung cấp), 10 hộp mực loại
V4070 không dán tem nhãn hiệu của nhà cung cấp, 44 hộp mực loại MP3055 có dán
tem của nhà cung cấp là Cơng ty T&D, cịn tại kho nhà 8 tầng có 10 hộp mực loại
MP3055 có dán tem “Đơng Á, 10/5/2020”. Do phát hiện có 10 hộp mực loại V4070
và 10 hộp mực loại MP3055 không đúng với thông số kỹ thuật khi đặt hàng và số
lượng nhập, xuất kho, hàng tồn khơng phù hợp, nên Cơng ty T đã trình báo Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an huyện T.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 của Tòa án
nhân dân huyện T đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Đinh Thị L và Trịnh Thế P
phạm tội “Tham ô tài sản”.
Tại Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKSTL ngày 28/01/2021 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã quyết định: Kháng nghị phần tội danh
của Bản án số 03/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh
Hà Nam. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng
tuyên bố các bị cáo Đinh Thị L, Trịnh Thế P phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.
Quan điểm tác giả
Tại phiên tịa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam giữ
nguyên quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T sửa
phần tội danh của Bản án số 03/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 của Tòa án nhân dân
huyện T, tỉnh Hà Nam.Trên cơ sở nội dung vụ án, tôi khơng đồng tình với quan

điểm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T kháng nghị đề nghị Tòa án nhân
dân tỉnh Hà Nam xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng tuyên bố các bị cáo Đinh Thị
L, Trịnh Thế P phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại
khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự, vì:
- Tại phiên tồ phúc thẩm, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội
của mình đúng như bản án sơ thẩm đã xác định. Lời khai của các bị cáo là phù hợp
với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
người làm chứng và phù hợp với vật chứng, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ


15

sơ vụ án. Trên cơ sở Hợp đồng giữa Công ty T với Công ty P, ngày 11/3/2020 và
ngày 13/3/2020, Cơng ty T có đơn đặt hàng đặt mua 60 hộp mực máy phô tô loại
MP3055 và 30 hộp mực máy phô tô loại Fuji V4070 của Công ty P. Tại thời điểm
này, Đinh Thị L giữ chức vụ Phó Trưởng phịng - Phịng Hành chính Nhân sự; được
phân cơng nhiệm vụ quản lý vật tư văn phòng phẩm, phụ trách mua, cấp phát vật tư
hành chính và là thủ kho vật tư hành chính văn phịng phẩm của Cơng ty T. Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn được giao, Đinh Thị L đã bàn bạc, câu kết với Trịnh Thế P
chiếm đoạt 10 hộp mực máy phô tô loại V4070 và 10 hộp mực máy phơ tơ loại
MP3055, có tổng giá trị là 33.000.000 đồng của Công ty T mà L có trách nhiệm
quản lý là đủ yếu cấu thành tội tham ô tài sản.
- Tác giả cho rằng hành vi trên của chị L là hành vi tham ô tài sản; khơng
phải hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, vì:
+ Đối với tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” thì về mặt khách quan
của tội phạm thể hiện ở điểm mấu chốt: Hành vi gian dối được thể hiện, thực hiện
sau khi chủ thể của tội phạm đã nhận được tài sản thông qua các hình thức hợp
đồng… một cách ngay tình, hợp pháp; sau khi nhận được tài sản vì mục đích chiếm
đoạt không trả, không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, theo thỏa thuận thì chủ thể
của tội phạm mới nảy sinh dùng thủ đoạn gian dối để không trả, không thực hiện

thỏa thuận, không thực hiện hợp đồng. Tức là thủ đoạn gian dối xuất hiện sau khi đã
nhận được tài sản. Trong vụ này, chị L đã có ý định chiếm đoạt tài sản ngay từ khi
đặt hàng mua các hộp mực cho công ty, ý định chiếm đoạt tài sản đã có trước khi
nhận được tài sản nên hành vi này không thể cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
+ Hành vi khách quan của tội “Tham ô tài sản” được thể hiện ở hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà
mình có trách nhiệm quản lý. Đó là hành vi chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, cơ
quan, tổ chức mà mình đang trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý bằng cách lợi dụng
chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản đó. Đinh Thị L giữ chức vụ Phó
Trưởng phịng - Phịng Hành chính Nhân sự; được phân cơng nhiệm vụ quản lý vật
tư văn phòng phẩm, phụ trách mua, cấp phát vật tư hành chính và là thủ kho vật tư
hành chính văn phịng phẩm của Cơng ty T. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn được
giao, L đã bàn bạc, câu kết với P chiếm đoạt tài sản do mình trực tiếp quản lý. Hành
vi của chị L thỏa mãn các dấu hiệu của hành vi khách quan của tội tham ô tài sản.


16

21

Vụ án thứ ba :
Ngày 27/7/1998, UBND tỉnh Y có văn bản số 64/PD-TKA thiết kế, dự toán
trồng cây cao su tại xã E, huyện S, tỉnh Y; ngày 22/12/1998, Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh Y tổ chức nghiệm thu trồng được 24,46 ha giao Ban Quản
lý rừng phòng hộ huyện S tiếp tục quản lý, chăm sóc, bảo vệ. Tính đến năm 2009 đã
chi số tiền trồng và chăm sóc rừng cao su 538.099.000 đồng.
Ngày 27/10/2010 Ban Quản lý rừng phịng hộ huyện S có tờ trình số 35 gửi
Sở Nơng nghiệp và Phát triển nơng thôn tỉnh Y xin chủ trương lập phương án khai
thác rừng cao su; ngày 14/9/2011, Trung tâm quy hoạch thiết kế thuộc Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn tỉnh Y có báo cáo số 22 về kết quả đo đạc, kiểm tra hiện
trạng rừng cao su, xác định tổng diện tích rừng cao su trồng thực nghiệm hiện cịn
24,46 ha.
Tháng 5/2011 khi chưa được cho phép của UBND tỉnh Y nhưng ơng Võ
Trọng B - Phó giám đốc phụ trách Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện S đã tự ý thuê
mướn công nhân tổ chức khai thác mủ một phần diện tích trong tổng số 24,46 ha
cây cao su tại khu vực 3/2 xã E, huyện S. Thời điểm này Ban Quản rừng phịng hộ S
chưa có phương án, tờ trình và chưa được phê duyệt. Tồn bộ chi phí khai thác, tiền
bán mủ cao su thu hoạch được ông Võ Trọng B không báo Ban Quản lý rừng phịng
hộ, khơng lập sổ sách kế tốn của Ban Quản lý theo dõi, đã chiếm đoạt sử dụng cá
nhân.
Năm 2012 ông Võ Trọng B không trực tiếp tổ chức khai thác mà giao khoán
việc khai thác mủ cao su cho anh ruột là Võ Trọng H theo hợp đồng miệng giữa ơng
B và ơng H là: Ơng H tổ chức khai thác mủ cao su trên diện tích khoảng 13 ha tại
khu vực rừng trồng dự án, tự bỏ kinh phí khai thác và đưa cho ơng Bình 4.700.000
đồng/01 ha cao su khai thác/01 năm. Ông H đã tổ chức khai thác mủ cao su trên
diện tích cao su nói trên và đã đưa cho ông B 60.000.000 đồng vào khoảng cuối
2012.
Ngày 08/5/2014, Cơ quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh Y đã ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự số 18 khởi tố vụ án tham ô tài sản xảy ra năm 2011-2012 tại
Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện S, ngày 17/7/2014 ơ quan CSĐT Công an huyện
S ra quyết định trưng cầu bổ sung số 01, trưng cầu giám định viên Sở Nghiệp và

21 Vụ án trong giai đoạn điều tra, tác giả xin phép được bảo mật thông tin. Họ tên những người liên quan và địa danh nêu trong
vụ việc đã được thay đổi.


17

Phát triển nông thôn tỉnh Y giám định bổ sung: Xác định sản phẩm, sản lượng mủ

sao su thu hoạch được trên diện tích cao su đã thu hoạch theo biên bản khám
nghiệm hiện trường và bản tổng hợp số liệu kiểm đếm do Cơ quan CSĐT Công an
huyện S lập ngày 29 và 30/5/2014. Chi phí cần thiết trong thu hoạch mủ cao su trên
diện tích đã thu hoạch.
- Ngày 07/8/2014 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Y có kết luận
giám định tư pháp số 10/KL-SNN kết luận: Sản lượng sản phẩm mủ cao su là
6.999,3 kg trên diện tích 11,079ha. Thiệt hại về kinh tế: Tổng thu: 429.818.000
đồng, tổng chi: 401.132.000 đồng; còn lại 28.868.000 đồng.
- Ngày 26/11/2014, Cơ quan CSĐT công an huyện S có quyết định trưng cầu
định giá tài sản số 08 trưng cầu Hội đồng định giá tài sản huyện S định giá 03 nhà ở
và 01 nhà kho do Võ Trọng B xây dựng trong quá trình khai thác mủ cao su. Ngày
22/12/2014, Hội đồng định giá tài sản huyện S có kết luận: 03 nhà ở và 01 nhà kho
có giá là 54.000.000 đồng.
- Ngày 08/3/2015, Cơ quan CSĐT Cơng an huyện S có kết luận điều tra số
07 đình chỉ vụ án số 03 với lý do: Hành vi của Võ Trọng B không cấu thành tội
phạm. Được VKSND huyện S thống nhất tại công văn số 03/VKS-HS ngày
10/3/2015.
Ngày 03/11/2015, VKSND tỉnh Y ra quyết định số 1006/QĐ-VKS hủy bỏ
văn bản kết luận kiểm sát về việc đình chỉ điều tra vụ án; ngày 06/11/2015, VKSND
huyện S ra quyết định phục hồi điều tra; ngày 16/11/2015, Cơ quan CSĐT Công an
huyện S ra quyết định số 01 quyết định hủy bỏ quyết định bỏ quyết định đình chỉ
điều tra vụ án và ra quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự số 01 phục hồi điều
tra vụ án tham ô tài sản xảy ra từ năm 2011 - 2012 tại Ban Quản lý rừng phòng hộ
huyện S.
Ngày 27/11/2015, VKSND huyện S ra quyết định số 01/QĐ-VKS về việc
chuyển vụ án để điều tra; ngày 30/11/2015, Cơ quan CSĐT Công an huyện S
chuyển hồ sơ vụ án trên cho Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Y thụ lý điều tra.
Ngày 01/3/2016, Cơ quan CSĐT tỉnh Y có quyết định trưng cầu giám định
lại số 03/CSĐT-PC44 trưng cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trên cơ
sở kết quả kết luận giám định lại của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và kết

luận giám định tài chính của Sở Tài chính tỉnh Y đã xác định được thiệt hại trong
việc khai thác rừng từ năm 2011 - 2012 tại Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện S với
số tiền 146.000.000 đồng.


18

Liên ngành tư pháp tỉnh đã họp rất nhiều lần để thống nhất hướng giải quyết
vụ án nhưng vẫn chưa có sự đồng thuận cao; tại cuộc họp liên ngành tư pháp tỉnh Y
vào ngày 10/12/2020 các cơ quan tố tụng tỉnh đã có nhiều quan điểm khác nhau:
Kiểm sát viên và lãnh đạo VKSND tỉnh Y cho rằng hành vi của ông Võ Trọng B đủ
yếu tố cấu thành của “Tội sử dụng tài sản trái phép” theo Điều 177 BLHS năm
2015; Chánh Tịa hình sự Tịa án nhân nhân dân tỉnh Y cho rằng hành vi của ông Võ
Trọng B đủ yếu tố cấu thành của “Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản” theo Điều 355 BLHS năm 2015; Điều tra viên và Thủ trưởng Cơ quan CSĐT
Cơng an tỉnh Y thì cho rằng hành vi của ông Võ Trọng B đủ yếu tố cấu thành “Tội
tham ô tài sản” theo điều 353 BLHS năm 2015. Liên ngành tư pháp tỉnh Y đã thống
nhất cần xin ý kiến thỉnh thị liên ngành tư pháp Trung ương để hướng dẫn, chỉ đạo
giải quyết vụ án.
Ngày 31/12/2020, Cơ quan CSĐT Cơng an tỉnh Y đã có báo cáo số
523/VPCQCSĐT báo cáo thỉnh thị, xin ý kiến liên ngành tư pháp Trung ương
hướng dẫn, chỉ đạo giải quyết vụ án Tham ô tài sản, xảy ra năm 2011-2012 tại Ban
Quản lý rừng phòng hộ huyện S. Liên ngành tư pháp Trung ương thống nhất hướng
dẫn

22

giải quyết vụ án trên xác định: Hành vi của ông Võ Trọng B - ngun Phó

Giám đốc Ban Quản lý rừng phịng hộ huyện S, tỉnh Y có dấu hiệu của tội Tham ô

tài sản, quy định tại Điều 353 BLHS năm 2015. Ngày 24/5/2021, Cơ quan CSĐT
Công an tỉnh Y đã ra quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự; ngày 09/6/202, ra
quyết định khởi tố bị can Võ Trọng B về tội Tham ô tài sản, theo quy định tại điểm
d, khoản 2 Điều 353 BLHS năm 2015 để điều tra theo quy định.
Quan điểm của tác giả:
Võ Trọng B, với chức trách là Phó giám đốc phụ trách Ban Quản lý rừng
phòng hộ huyện S, tháng 5/2011 khi chưa được cho phép của UBND tỉnh Y nhưng
ông B đã tự ý thuê mướn công nhân tổ chức khai thác mủ một phần diện tích trong
tổng số 24,46 ha cây cao su tại khu vực 3/2 xã E, huyện S. Toàn bộ số tiền bán mủ
cao su sau khi thu hoạch ông đã chiếm đoạt sử dụng cá nhân khơng báo cáo việc
thu, chi trong q trình khai thác mủ cao su để kế toán Ban Quản lý rừng phòng hộ
huyện S lập sổ theo dõi. Hơn nữa đến năm 2012 ơng Võ Trọng B có ý thức chiếm
đoạt số tiền khai thác mủ cao su nên đã có hành vi hợp đồng miệng với ơng H là:
Ơng H tổ chức khai thác mủ cao su trên diện tích khoảng 13 ha tại khu vực rừng
22 Công văn số 2080/C01-P4, ngày 20/5/2021 của Văn phòng Cơ quan CSĐT Bộ Công an.


19

trồng dự án, tự bỏ kinh phí khai thác và đưa cho ơng Bình 4.700.000 đồng/01 ha cao
su khai thác/01 năm. Ông H đã tổ chức khai thác mủ cao su trên diện tích cao su nói
trên và đã đưa cho ông B 60.000.000 đồng vào khoảng cuối 2012, ông B đã chiếm
đoạt toàn bộ số tiền này để tiêu xài cá nhân. Hành vi chiếm đoạt số tiền 146.000.000
đồng của ông Võ Trọng B qua hai năm 2011-2012 tự ý khai thác rừng trồng cao su
thuộc Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện S, tỉnh Y đủ yếu tố cấu thành tội Tham ơ
tài sản
23

Vụ án thứ tư
Đồn Đức Tr giữ chức vụ Trưởng Phịng Nơng nghiệp và Phát triển Nông

thôn huyện VT kiêm nhiệm chức vụ Giám đốc trại giống Nông nghiệp huyện. Phạm
Thị Thúy  giữ chức vụ Phó Giám đốc. Cao Hồng T phụ trách kế toán từ khoảng
năm 2010 đến khoảng tháng 04/2012. Phạm Ngọc Tm phụ trách kế toán từ tháng
11/2012 đến tháng 09/2013. Võ Kim Th làm kế toán từ tháng 10/2013 đến tháng
12/2015. Nguyễn Thị Lam Vn phụ trách thủ quỹ từ khoảng năm 2012 đến hết tháng
8/2013. Lê Văn Lc làm cán bộ kỹ thuật kiêm thủ kho từ năm 2010 đến khoảng
tháng 5/2014 thì nghỉ việc.
- Hành vi lập khống chứng từ: Từ ngày 13/12/2013 đến 31/12/2013, theo chỉ
đạo của  thì Th lập khống 8 chứng từ, Tr duyệt chi 07 chứng từ,  duyệt chi 01
chứng từ, Thu ký người chi tổng số tiền 58.370.967 đồng. Số tiền trên được thủ quỹ
T rút ra từ quỹ tiền mặt của Trại Giống, có ghi chép trong sổ quỹ tiền mặt năm 2013
dùng để chi mua 06 tấn gạo của bà Phan Thị Nguyệt N làm quà tặng cho các hộ cận
nghèo và chi phí bao bì, vận chuyển với tổng số tiền 55.400.000 đồng, nên số tiền
lập khống chứng từ được khấu trừ còn lại là 2.970.697 đồng. Qua Tết Nguyên Đán,
Th lập khống thêm 03 chứng từ, Tr duyệt chi 02 chứng từ, Â duyệt chi 01 chứng từ
với tổng số tiền 26.500.000 đồng rút ra từ quỹ tiền mặt của Trại giống, có ghi chép
trong sổ quỹ tiền mặt năm 2014 dùng để chi mua cao su, bạt nhựa và trấu.
Tổng số tiền của 11 chứng từ khống là 84.870.967 đồng, cấn trừ chi phí mua
06 tấn gạo là 55.400.000 đồng, còn lại thiệt hại 29.470.967 đồng. Số tiền thiệt hại
29.470.967 đồng đến nay không chứng minh được dùng để chi vào việc gì.
- Hành vi mua bán khống gạo với Công ty Trách nhiệm hữu hạn NT: Thực
hiện kế hoạch tặng quà cho hộ cận nghèo dịp Tết Nguyên Đán, Phạm Thị Thúy Â
cùng Võ Kim Th liên hệ mua 6 tấn gạo của bà Phan Thị Nguyệt Nga với số tiền
23 Bản án số 43/2020/HS-GĐT ngày 21/10/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.


20

51.000.000 đồng (đã nêu ở mục trên). Để quyết toán tiền mua gạo, Â liên hệ với
ông Trần Văn Hng - Giám đốc Cơng ty TNHH NT để mua hóa đơn giá trị gia tăng

trị giá 83.997.900 đồng, thể hiện nội dung bán cho Trại giống 6 tấn gạo nhưng thực
tế khơng mua bán gạo. Căn cứ vào hóa đơn, Th lập ủy nhiệm chi cho Đoàn Đức Tr
duyệt chi chuyển khoản cho ông Hng, Hng rút tiền mặt và đưa cho  số tiền
76.631.728 đồng, giữ lại 7.636.172 đồng để nộp thuế. Số tiền này đến nay không
xác định chi vào việc gì, Tr và Â đã nộp khắc phục xong. Hành vi của Đoàn Đức Tr
, Phạm Thị Thúy  và Võ Kim Th gây thiệt hại số tiền 83.997.900 đồng.
- Lập khống chứng từ, quyết toán nhận và sử dụng sai mục đích số tiền
118.412.750 đồng từ 02 dự án “Sản xuất thử giống lúa mới”: Thực hiện dự án sản
xuất thử giống lúa mới với tổng số tiền Viện Lúa hỗ trợ kinh phí là 118.412.750
đồng; để nhận số tiền hỗ trợ, Tr chỉ đạo lập khống các chứng từ quyết toán với Viện
Lúa do Tr duyệt chi, Th lập phiếu chi nhưng Phạm Ngọc Tm ký khống vào nơi
người lập phiếu - kế toán trưởng, Nguyễn Thị Lan V ký khống vào thủ quỹ, Lê Văn
Lc ký khống vào nơi người nhận tiền. Tổng cộng các phiếu chi khống có giá trị
325.047.653 đồng để quyết toán với Viện Lúa và được nhận số tiền hỗ trợ là
118.412.750 đồng. Sau khi nhận được số tiền trên, Tr chỉ đạo chuyển hết cho cửa
hàng Vật tư Nông nghiệp TD với tổng số tiền 199.387.575 đồng. Sau đó, bà Lê Thị
D chuyển khoản lại cho Trại giống 80.451.000 đồng, còn 118.936.575 đồng bà D rút
tiền mặt và đưa cho Phạm Thị Thúy Â.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2019/HSST ngày 31/7/2019, Tòa án nhân
dân huyện VT, thành phố CT quyết định: Tuyên bố Bị cáo Đoàn Đức Tr, Phạm Thị
Thúy Â, Phạm Ngọc Tm, Nguyễn Thị Lam Vn và Lê Văn Lc và bị cáo Võ Kim Th
phạm tội “Tham ơ tài sản”. Bản án hình sự phúc thẩm số 148/2019/HSPT ngày
30/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố CT quyết định: Không chấp nhận kháng cáo
của các bị cáo Đoàn Đức Tr , Phạm Thị Thúy  và Võ Kim Th.
Ngày 31/8/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh cói Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 201/QĐ-VC3-V1 kháng
nghị tồn bộ Bản án hình sự phúc thẩm số 148/2019/HSPT ngày 30/11/2019 của
Toà án nhân dân thành phố CT; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy tồn bộ bản án
hình sự phúc thẩm nêu trên và Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2019/HSST ngày

31/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện VT, thành phố CT để điều tra lại.
Quan điểm của tác giả:


21

Theo hồ sơ vụ án, các bị cáo cho rằng tiền thu được từ việc lập khống 11 hóa
đơn và mua bán khống gạo với Công ty TNHH NT sử dụng vào việc tặng quà Tết,
mua gạo tặng hộ cận nghèo. Các Cơ quan tố tụng huyện VT xác định số tiền lập
khống hóa đơn để mua gạo, mua hóa đơn khống của Công ty TNHH NT là để chiếm
đoạt nhưng không xác định được số tiền thiệt hại 113.467.967 đồng của Trại giống
là do ai chiếm đoạt, chiếm đoạt bao nhiêu, xác định ý thức phạm tội và vai trị, trách
nhiệm hình sự của từng cá nhân. Trong suốt q trình tố tụng, cả Tr, Th, Â đều
khơng thừa nhận đã chiếm đoạt số tiền này. Tr, Â cho rằng việc lập hóa đơn khống
nhằm bù vào khoản tặng quà của cơ quan, hợp thức hóa việc mua gạo tặng hộ cận
nghèo, không tư lợi cá nhân. Các cơ quan tiến hành tố tụng chưa xác định được cụ
thể cá nhân nào đã chiếm đoạt và ý thức giúp sức nhằm mục đích chiếm đoạt số tiền
113.467.967 đồng nên việc kết luận các bị cáo Đoàn Đức Tr , Võ Kim Th, Phạm Thị
Thúy  phạm tội “Tham ô tài sản” đối với số tiền này là chưa có cơ sở vững chắc.
24

Vụ án thứ năm
Ngày 25/01/2017, Uỷ ban nhân dân huyện Bến Cầu ban hành Quyết định
224/QĐ-UBND giao dự toán bổ sung chi ngân sách huyện năm 2017, trong đó
Phịng N được giao kinh phí thực hiện việc bảo vệ và phát triển trồng rừng
220.000.000 đồng, trong đó kinh phí cày chống cháy 57 ha rừng là 39.900.000 đồng
để thực hiện việc cày chống cháy rừng trồng tại khu rừng Nhum thuộc ấp Phước
Đông, xã L, huyện Bến Cầu. Nguyễn Thành L - Trưởng phòng, chỉ đạo, giao nhiệm
vụ cho Lê Hồng C - Phó trưởng phịng và Huỳnh Đơng T- Kế tốn Phịng N liên hệ
với đơn vị cày thuê và chịu trách nhiệm kiểm tra, theo dõi tiến độ việc cày chống

cháy 57 ha rừng trồng.
Ngày 01/6/2017, L ký hợp đồng số 12/HĐ-NN&PTNT ngày 01 tháng 6 năm
2017 với ông Trương Quốc T6, sinh năm 1979, hộ khẩu thường trú tại ấp Phước
Đông, xã L, huyện Bến Cầu hợp đồng cày chăm sóc phịng chống cháy rừng trồng
diện tích 57 ha với đơn giá 700.000 đồng/1ha, giá trị hợp đồng cày chống cháy 57
ha rừng là 39.900.000 đồng, thời gian thực hiện hợp đồng từ ngày 01/6/2017 đến
ngày 30/6/2017. Quá trình thực hiện hợp đồng cày chống cháy, do dây leo chằng
chịt khơng cày được tồn bộ diện tích nên ơng T6 chỉ cày được 25 ha. Ngày
05/7/2017 L, C, T cùng với ông T6 đến hiện trường nghiệm thu, tại đây ông T6 báo
24 Bản án số 37/2021/HS-PT ngày 26/02/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.


22

cho L, C, T cùng nghe chỉ cày chống cháy được 25 ha nhưng L chỉ đạo T lập biên
bản nghiệm thu việc cày và thanh lý hợp đồng đã cày chống cháy 57 ha rừng. Biên
bản nghiệm thu do T viết và ký tên vào mục người ghi biên bản, L ký tên mục
Phịng Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn, ông T6 ký tên vào mục đại diện bên
nhận khoán. Ngày 04/8/2017, L chỉ đạo T lập hồ sơ rút và quyết tốn nguồn kinh
phí cày chống cháy 57 ha rừng với số tiền 39.900.000 đồng, chỉ đạo C gặp Bùi Văn
B (Thủ quỹ) tạm ứng 39.900.000 đồng. Sau khi tạm ứng tiền, C trả 17.500.000 đồng
tiền công cho ông T6 nhưng giấy biên nhận ghi chi trả số tiền 39.900.000 đồng, ông
T6 không đọc lại biên bản, ký tên nhầm vào mục bên giao tiền và nhận đúng số tiền
công đã cày 25 ha rừng là 17.500.000 đồng. Bằng thủ đoạn trên, L, C, T kê khống
diện tích đã cày chống cháy 32 ha rừng trồng tại khu rừng Nhum thuộc ấp Phước
Đông, xã L chiếm đoạt số tiền 22.400.000 đồng từ nguồn kinh phí cày chống cháy
rừng năm 2017. Sau khi trả tiền cho ông T6, còn lại 22.400.000 đồng L chỉ đạo giao
C cất giữ.
Bản án Hình sự sơ thẩm số: 52/2020/HS-ST ngày 12/10/2020 của Tòa án
nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L 02 năm

tù về tội “Tham ô tài sản”; Huỳnh Đông T 01 năm tù về tội “Tham ơ tài sản”; Lê
Hồng C 01 năm tù về tội “Tham ơ tài sản”.
Tại phiên tịa phúc thẩm, các luật sư bào chữa cho các bị cáo L, bị cáo T cho
rằng các bị cáo không ý thức chiếm đoạt, khơng dùng số tiền cịn dư dùng vào tiêu
xài cá nhân, nên chưa đủ cơ sở xác định các bị cáo phạm tội tham ô tài sản.
Quan điểm tác giả:
Tác giả khơng đồng tình với việc các luật sư bào chữa cho các bị cáo L, bị
cáo T cho rằng các bị cáo không ý thức chiếm đoạt vì: Ngày 05/7/2017 L, C, T cùng
với ơng T6 đến hiện trường nghiệm thu, tại đây ông T6 báo cho L, C, T cùng nghe
chỉ cày chống cháy được 25 ha nhưng L chỉ đạo T lập biên bản nghiệm thu việc cày
và thanh lý hợp đồng đã cày chống cháy 57 ha rừng, L, T đã có chủ ý chiếm đoạt số
tiền không cày ngay từ lúc này. Lời khai của ông T6 cũng thể hiện rất rõ là báo cáo
kịp thời với các bị cáo chỉ cày được 25 ha, số diện tích cịn lại do nhiều dây chằn
chịt không cày được. Nhưng các bị cáo vẫn lập hồ sơ thanh lý hợp đồng hết diện
tích 57 ha rừng, trên cơ sở đó bị cáo T lập thủ tục rút hết số tiền 39.900.000 đồng từ
kho bạc về chi trả cho ơng T6 17.500.000 đồng, số cịn lại cất giữ riêng không trả lại
cho thủ quỹ, không lập sổ sách theo dõi kinh phí của đơn vị. Hành vi L hồ sơ


×