Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Thực trạng huy động và sử dụng ODA ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.88 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 2011......................................4
1.1. Một số vấn đề lý luận về nguồn vốn ODA........................................................4
1.2. Quá trình tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA trước năm 2011..................6
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN
ODA TỪ NĂM 2011 ĐẾN NAY VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRONG THỜI GIAN TỚI...................13
2.1. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn ODA từ năm 2011 đến nay....13
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình sử dụng nguồn ODA ở
Việt Nam trong thời gian tới.....................................................................................20
KẾT LUẬN........................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................28


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, vốn có vai trị đặc biệt
quan trọng và cần thiết cho q trình phát triển kinh tế, đồng thời góp phần phát
triển văn hóa, chính trị - xã hội. Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó, quỹ Hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA, Official Development Assistance) ra đời nhằm giúp các
nước nghèo, các nước đang hoặc kém phát triển giải quyết tình trạng thiếu vốn.
Đối với Việt Nam, trong quá trình đổi mới, hội nhập, tình trạng thiếu vốn
cho phát triển đã được giải quyết một phần đáng kể khi Việt Nam bắt đầu nhận
viện trợ ODA từ năm 1993. Nhìn lại q trình thu hút và sử dụng ODA, có thể
thấy rằng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng tự hào: GDP bình quân
hàng năm đạt tốc độ tăng trưởng cao, có một số năm đạt trên 7%, đời sống của
nhân dân ngày càng cải thiện, các mặt của đời sống văn hóa - xã hội, giáo dục, y


tế cũng khơng ngừng được nâng cao rõ rệt, tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc phịng được giữ vững, các mối quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng mở
rộng. Đạt được những thành cơng đó, bên cạnh việc khai thác hiệu quả các
nguồn lực trong nước, thì viện trợ từ bên ngồi cũng đóng góp một phần quan
trọng, trong đó ODA từ các quốc gia và tổ chức quốc tế giữ vai trò chủ đạo.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý và sử dụng ODA trong
thời gian qua cịn bộc lộ khơng ít bất cập, tồn tại và hạn chế. Cụ thể, nhiều dự án
sử dụng vốn ODA có hiệu quả kinh tế thấp, khơng có khả năng thu hồi vốn, dẫn
đến khó khăn trong việc bố trí nguồn để trả nợ nước ngồi, làm tăng gánh nặng
nợ quốc gia. Tình trạng giải ngân chậm, sử dụng khơng đúng mục đích làm thất
thốt, lãng phí nguồn vốn ODA khá phổ biến. Nhiều dự án chậm tiến độ, gây
thiệt hại cho phía Việt Nam... Phần lớn nguồn vốn ODA là tiền vay sẽ phải hồn
lại trong tương lai. Thế nên, nếu ODA khơng được sử dụng hiệu quả, khơng thúc
đẩy q trình phát triển kinh tế, thì việc vay mượn ODA sẽ trở thành bi kịch cho
các thế hệ sau. Tuy nhiên, tại Việt Nam, rất nhiều người lại cho rằng, ODA là
“của cho khơng”. Chính điều này đã dẫn tới hệ lụy đáng tiếc trong quá trình sử
dụng, quản lý nguồn vốn ODA.


2

Do vậy, việc tiếp cận và làm rõ hơn quá trình huy động cũng như sử dụng
nguồn vốn ODA ở Việt Nam từ năm 2011 đến nay vừa góp phần mang lại những
ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Về ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần cung cấp cơ sở lý
luận cho việc đánh giá đúng thực trạng quá trình huy động và sử dụng nguồn
vốn ODA ở Việt Nam từ năm 2011 đến nay.
Về ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần hệ thống hóa lại
q trình huy động và sử dụng nguồn vốn ODA từ năm 2011 đến nay. Từ đó, đề
xuất các giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA vào trong q
trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời gian đến.

Xuất phát từ những ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên, chúng tôi chọn
vấn đề: “Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam từ năm
2011 đến nay và các giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn này trong thời
gian tới”, làm đề tài tiểu luận, bộ môn Kinh tế Phát triển.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm sáng tỏ quá trình huy động và sử
dụng nguồn vốn ODA từ năm 2011 đến nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam trong thời gian đến.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài sẽ tập trung phân
tích và làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, trình bày một số vấn đề lý luận liên quan đến nguồn vốn ODA và
thực trạng huy độn, sử dụng nguồn vốn này ở thời điểm trước năm 2011.
Thứ hai, làm rõ quá trình huy động và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt
Nam từ năm 2011 đến nay.
Thứ ba, đúc kết các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng
nguồn vốn ODA ở Việt Nam trong thời gian đến.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề “Thực trạng huy động và sử
dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam từ năm 2011 đến nay và các giải pháp nhằm
sử dụng hiệu quả nguồn vốn này trong thời gian tới”.


3

- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Từ năm 2011 đến nay.
+ Về không gian: Ở Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đề tài sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic là chủ

yếu. Ngoài ra, đề tài còn vận dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu khác
như: Sưu tầm tài liệu, so sánh, đối chiếu, phân tích...
5. Đóng góp của đề tài
Thứ nhất, đề tài góp phần phục dựng bức tranh tồn cảnh về thực trạng quá
trình huy động và sử dụng nguồn vốn ODA từ năm 2011 đến nay.
Thứ hai, từ việc làm rõ quá trình huy động và sử dụng nguồn vốn ODA, đề
tài sẽ cung cấp một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả q
trình sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam nhằm hỗ trợ cho quá trình phát triển.
Thứ ba, xây dựng hệ thống tư liệu tham khảo liên quan đến vấn đề: “Thực
trạng huy động và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam từ năm 2011 đến nay và
các giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn này trong thời gian tới”
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được cấu thành
bởi hai chương.
Chương 1. Khái quát về quá trình tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA ở
việt nam trước năm 2011.
Chương 2. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn ODA từ năm 2011
đến nay và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong thời
gian tới.


4

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 2011
1.1. Một số vấn đề lý luận về nguồn vốn ODA
* Khái niệm: Cho tới nay, vẫn đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
khi định nghĩa vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Năm 1972, lần đầu tiên Tổ chức
hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đã đưa ra khái niệm về ODA như sau:
ODA là một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy

sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính
của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ khơng hồn lại chiếm
ít nhất là 25%.
Nếu theo Ngân hàng Thế giới thì: Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
là vốn bao gồm các khoản viện trợ khơng hồn lại cộng với các khoản vay ưu
đãi có thời gian dài và lãi suất thấp hơn so với mức lãi suất thị trường tài chính
quốc tế. Mức độ ưu đãi của một khoản vay được đo lường bằng yếu tố cho
không. Một khoản tài trợ không phải hồn trả sẽ có yếu tố cho khơng là 100%
(gọi là khoản viện trợ khơng hồn lại). Một khoản vay ưu đãi được coi là ODA
phải có yếu tố cho khơng, khơng ít hơn là 25%.
Theo Nghị định Số 132/2018/NĐ-CP ngày 01/10/2018, của Chính phủ thì:
Vốn ODA, vốn vay ưu đãi là nguồn vốn của nhà tài trợ nước ngoài cung cấp cho
Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để hỗ trợ phát
triển, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, bao gồm: 1/Vốn ODA viện trợ khơng
hồn lại là loại vốn ODA khơng phải hồn trả lại cho nhà tài trợ nước ngoài;
2/Vốn vay ODA là loại vốn ODA phải hoàn trả lại cho nhà tài trợ nước ngoài
với mức ưu đãi về lãi suất.
Từ các khái niệm nêu trên, có thể thấy rằng, nguồn vốn ODA có thể hiểu ở
bốn khía cạnh chủ yếu sau: Hỗ trợ phát triển chính thức là (i) mối quan hệ hợp
tác phát triển mang tình “hỗ trợ” giữa quốc gia này với quốc gia khác nhằm thúc
đẩy (ii) “phát triển” kinh tế xã hội thông qua con đường (iii) “chính thức” giữa
cấp Nhà nước và Nhà nước, giữa Nhà nước hoặc Chính phủ với các tổ chức liên


5

chính phủ hoặc liên quốc gia và (iv) mối quan hệ “hỗ trợ phát triển chính thức”
này hình thành và phát triển dựa trên nền tảng của một phần cho khơng (phần
khơng hồn lại hay cịn gọi là thành tố hỗ trợ) kết tinh trong tổng nguồn vốn
ODA hàng năm mà nước này cam kết dành cho các nước khác để phục vụ cho

các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã định với giá trị ít nhất là 25% so với
tổng giá trị viện trợ.
* Đặc điểm nguồn vốn ODA
Thứ nhất, phần vốn vay hoàn trả với lãi suất ưu đãi thơng thường dưới
3%/năm, nhưng nói chung thấp hơn mức lãi suất vay thông thường trên thị
trường tài chính quốc tế là từ 7% đến 7,5%/năm và hàng năm phải thỏa thuận lại
lãi suất giữa hai bên.
Thứ hai, thời gian sử dụng vốn dài, thông thường thời gian này là từ 25 đến
40 năm, cá biệt có khoản viện trợ ODA thời gian 50 năm.
Thứ ba, những khoản hoàn lại trong vốn ODA phải tuân thủ các ngun tắc
tín dụng cơ bản: 1/Cho vay có hồn trả vốn và lãi sau một khoản thời gian nhất
định; 2/Cho vay theo kế hoạch thỏa thuận từ trước (Văn bản thỏa thuận cho vay
giữa chính phủ nước nhận vốn ODA và đối tác tài trợ).
Thứ tư, vốn ODA thường đi kèm với một chương trình, dự án đầu tư có chủ
đích nhất định của nhà tài trợ. Danh mục các dự án này phải có sự thỏa thuận
với các nhà tài trợ, thông thường các dự án này đầu tư vào kết cấu hạ tầng: giao
thông vận tải, y tế, cải cách hành chính, cải cách pháp luật.
Thứ năm, các nhà tài trợ không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành các
chương trình, dự án nhưng có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu
hoặc hỗ trợ chuyên gia.
Thứ sáu, các giá trị bằng hiện vật của các khoản viện trợ ODA phần lớn
được cung cấp theo đề nghị của nhà tài trợ, bởi vậy các nước tiếp nhận ODA
đồng thời cũng phải chấp nhận cả các giá trị hiện vật kèm theo này.
Thứ bảy, vốn ODA được các nhà tài trợ sử dụng như một công cụ nhằm mở
rộng thị trường và củng cố vị thế kinh tế chính trị của mình ở các nước và các
khu vực khác nhau trên thế giới.


6


Thứ tám, khác với các nguồn vốn vay khác, nguồn vốn ODA có tính nhạy
cảm: Vì ODA là 1 phần GDP của nước tài trợ nên ODA rất nhạy cảm với dư
luận xã hội ở nước tài trợ. Những nước tài trợ lớn trên thế giới có luật về ODA,
như tại Nhật Bản, Quốc hội kiểm sốt chặt chẽ Chính phủ trong việc cung cấp
tài trợ ODA mang tính nhân đạo.
* Điều kiện tiếp nhận vốn ODA: Có hai điều kiện cơ bản.
Điều kiện 1: Các nước được tiếp nhận vốn ODA phải là những nước có
mức GDP bình qn đầu người thấp. Bao gồm: Các nước chậm phát triển nhất,
chủ yếu tập trung ở Nam Shahara - Châu Phi, một vài nước Nam Á. Có 10 nước
thu nhập thấp được Liên hiệp quốc xếp vào loại dễ bị tổn thương nhất. Các nước
có thu nhập thấp, là những nước có thu nhập bình qn đầu người dưới 1100
USD/1 năm. Các nước này tập trung ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ la tinh.
Các nước có thu nhập trung bình thấp: Các nước này có thu nhập bình qn đầu
người từ 1101 USD đến 3.035 USD trên một năm. Các nước này chủ yếu ở Nam
Mỹ, Trung Đông, Đông Âu.
Điều kiện 2: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của nước tiếp nhận phải phù hợp
với phương hướng ưu tiên, mục đích của bên tài trợ. Chỉ tiêu này được xem xét
trong mối quan hệ giữa bên cấp ODA và bên nhận ODA. Ưu tiên của các nhà tài
trợ được phân thành hai nhóm nước. Các nước đang phát triển có mức thu nhập
thấp, các nước kém phát triển: ưu tiên của nguồn vốn chủ ODA yếu tập trung
vào thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo
dục, thúc đẩy bình đẳng giới, tăng cường chăm sóc y tế, phịng chống bệnh dịch,
bảo vệ môi trường đảm bảo sự phát triển bền vững. Với các nước có thu nhập
trung bình, những ưu tiên thường tập trung vào việc nâng cao năng lực quản lý,
cải cách thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp (nhất là
doanh nghiệp tư nhân), mở cửa nền kinh tế, bảo vệ mơi trường và phịng chống
các đại dịch mang tình tồn cầu... [3, tr. 46-50].
1.2. Q trình tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA trước năm 2011
Trước năm 1993 (tức trước khi lệnh cấm vận kinh được dỡ bỏ), Việt Nam
chỉ nhận được vài nguồn ODA song phương và đa phương chủ yếu sau đây:



7

Viện trợ song phương trong giai đoạn này chủ yếu từ một số nước xã hội
chủ nghĩa và một số nước thành viên Tổ chức OECD. Trong phe xã hội chủ
nghĩa lúc đó, viện trợ của Liên Xơ là chủ yếu, nhất là sau khi Việt Nam trở thành
thành viên Hội đồng Tương trợ Kinh tế (CMEA) vào năm 1978. Viện trợ phát
triển chính thức của Liên Xơ cho Việt Nam tăng từ 800 triệu Rúp chuyển
nhượng năm 1980 lên đến 1,8 tỷ Rup chuyển nhượng năm 1986 [7, tr.55-59].
Khoản viện trợ này bao gồm chủ yếu là vốn vay và một phần viện trợ khơng
hồn lại để bù nhập siêu các loại hàng hóa, vật tư, xăng dầu và hàng tiêu dùng
thiết yếu phục đời sống và sản xuất của Việt Nam. Một số dự án trong lĩnh vực
khai khống, phát điện, nơng nghiệp, thủy lợi, viễn thơng cũng được tài trợ từ
nguồn viện trợ này. Ngoài ra, Việt Nam còn nhận được ODA từ một số nước xã
hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu và Trung Quốc. Trung Quốc chấm dứt viện trợ
cho Việt Nam từ năm 1978. Nguồn ODA từ các nước CMEA giảm sút nhanh
chóng từ những năm cuối của thập kỷ 80 và còn khoảng 300 triệu Rúp chuyển
nhượng năm 1990 và hầu như chấm dứt năm 1991. Nguồn ODA quy mơ lớn và
có hiệu quả của Liên Xô cũ và một số nước xã hội chủ nghĩa khác đã có vai trị
quan trọng hỗ trợ Việt Nam trong những năm chiến tranh cũng như khôi phục và
phát triển kinh tế sau khi đất nước thống nhất.
Viện trợ song phương từ các nước thành viên OECD và một số nước khác
là nguồn ODA thứ hai Việt Nam nhận được trong giai đoạn trước năm 1993.
Thụy Điển cung cấp hơn 50 triệu USD viện trợ không hồn lại mỗi năm trong
giai đoạn 1987-1990, giảm xuống cịn 30 triệu USD năm 1990. Tiếp tục tài trợ
cho Việt Nam, Thụy Điển tăng viện trợ khơng hồn lại từ 31 triệu USD năm
1991 lên 42 triệu USD năm 1992 [7, tr.55-59]. Phần Lan đã cung cấp 12 triệu
USD viện trợ khơng hồn lại mỗi năm, tập trung khơi phục và phát triển hệ
thống cấp nước ở Hà Nội mà cư dân thành phố cho đến nay vẫn quen gọi “nước

Phần Lan” để chỉ nước sạch của thành phố [7, tr.55-59]. Australia cung cấp mỗi
năm 2 đến 5 triệu USD viện trợ khơng hồn lại thơng qua các tổ chức thuộc hệ
thống Liên Hợp quốc. Nguồn viện trợ này được sử dụng cho một số dự án quy
mô nhỏ trong các lĩnh vực như thủy lợi, giáo dục, đào tạo [7, tr.55-59].


8

Sau năm 1991, nhiều nước thành viên tổ chức OECD nối lại hỗ trợ phát
triển chính thức cho Việt Nam. Tháng 11 năm 1992, Chính phủ Nhật Bản mở lại
ODA cho Việt Nam bằng khoản vay ưu đãi 45,5 tỷ Yên (tương đương 360 triệu
USD) để thanh toán một phần vốn vay quá hạn của Nhật Bản và bù đắp thâm
thụt ngân sách. Một loạt các dự án trong các lĩnh vực giao thông vận tải, giáo
dục và đào tạo, y tế,... được chuẩn bị [7, tr.55-59]. Nhật Bản còn giúp khoản tín
dụng bắc cầu để giải tỏa nợ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Trong năm 1992, Pháp
nối lại ODA cho Việt Nam với khoản viện trợ 180 triệu Phơ-răng (tương đương
34 triệu USD). Năm 1993, Chính phủ Pháp công bố tăng mức viện trợ lên 360
triệu Phơ-răng (tương đương 64 triệu USD), nguồn vốn này bao gồm viện trợ
khơng hồn lại, vay ưu đãi nhằm hỗ trợ phát triển công nghiệp, y tế, giáo dục
đào tạo, giao thông vận tải, viễn thơng,... Pháp tham gia hỗ trợ gói tín dụng bắc
cầu giúp Việt Nam giải tỏa nợ IMF [7, tr.55-59].
Năm 1992, Australia nối lại ODA cho Việt Nam với gói viện trợ khơng
hồn lại 100 triệu Đơ Úc (tương đương 70 triệu USD) cho thời kỳ 1991-1995 [7,
tr.55-59]. Viện trợ của Australia được sử dụng cho các chương trình hợp tác
trong các lĩnh vực như giáo dục và đào tạo; y tế; cơ sở hạ tầng; tài nguyên thiên
nhiên,... Australia cũng đóng góp cho khoản tín dụng bắc cầu để giúp Việt Nam
giải tỏa nợ IMF và những dự án ấn tượng trong giai đoạn này như cầu Mỹ
Thuận, cấp nước đơ thị và nhất là chương trình học bổng hàng năm cho 150 sinh
viên Việt Nam du học tại Úc.
Viện trợ đa phương của các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc dành

cho Việt Nam trên 70 triệu USD mỗi năm. Trong thời kỳ này Chương trình phát
triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) hỗ trợ Việt Nam cải cách kinh tế, cải cách
hành chính và pháp luật, quản lý môi trường và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên; các vấn đề xã hội như HIV/AIDS.
Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) tập trung hỗ trợ các dự án trồng
rừng mà ngày nay nhiều cánh rừng xanh bát ngát phủ kìn đồi núi trọc ở một số
tỉnh Trung du và miền núi Bắc Bộ, miền Trung,... xây dựng đê điều và cung cấp
lương thực trợ giúp các vùng bị thiên tai, bão lụt.


9

Quỹ Nhi đồng của Liên Hợp Quốc (UNICEF) viện trợ cho lĩnh vực giáo
dục cơ sở và đào tạo, thực hiện các dự án cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh,
chăm sóc sức khỏe ban đầu và dinh dưỡng cho trẻ em, hỗ trợ hoạt động của các
tổ chức phụ nữ ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc.
Quỹ Phát triển đầu tư của Liên Hợp Quốc (UNCDF) hỗ trợ một số dự án
phát triển hạ tầng quy mô nhỏ ở miền Trung để đào tạo nghề và hỗ trợ tài chính
dành cho những người Việt hồi hương.
Từ cuối năm 1992, Chương tình phịng chống ma túy của Liên Hợp Quốc
(UNDCP) đã hỗ trợ Chính phủ trong việc lập kế hoạch tổng thể phòng chống ma
túy. Quỹ Dân số của Liên Hợp Quốc (UNFPA) cung cấp viện trợ để hỗ trợ sản
xuất và nhập khẩu các dụng cụ tránh thai, huấn luyện về chăm sóc sức khỏe bà
mẹ và trẻ em, giáo dục kế hoạch hóa gia đình, nghiên cứu về dân số.
Cao ủy người tị nạn của Liên Hợp Quốc (UNHCR) đã hỗ trợ một số Trung
tâm người tị nạn và giúp đỡ những người tị nạn Việt Nam từ Campuchia trở về
nước. UNHCR hỗ trợ đào tạo nghề và cung cấp tài chính cho những người Việt
hồi hương để tạo lập sinh kế.
Từ năm 1991, Ủy ban châu Âu (EC) đã cung cấp các khoản viện trợ để hỗ
trợ tái hòa nhập những người Việt hồi hương.

Quỹ quốc tế về phát triển Nông nghiệp (IFAD) cung cấp viện trợ phát triển
đầu tiên vào năm 1992 với một khoản vay trị giá 18 triệu USD để hỗ trợ phát
triển nông nghiệp ở tỉnh miền núi Tuyên Quang ở phía Bắc.
Bảng 1: Nguồn vốn ODA song phương và đa phương thực hiện trong
giai đoạn 1991 - 1992
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
1991
Tài trợ song phương
Nhật Bản
Thủy Điển
Ý
Pháp
Phần Lan

1
30
9
16
13

1992

36
42
22
21
12

1991

1992
Tài trợ đa phương và các tổ
chức quốc
UNDP
WFP
UNICEF
UNHCR
UNCDF

tế
26
15
12
10
1

19
16
13
12
7


10
Hà Lan
Úc
Hàn Quốc
Singapore
Đức


8
3

11
9
1
1
1

UNFPA
EC

5
2

5
2

Nguồn: [5, tr.21-24]
Tóm lại, trong thời kỳ trước 1993, các khoản Hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) mà các tổ chức quốc tế đa phương, Chính phủ các nước song phương,
các Tổ chức phi chính phủ (NGOs) hỗ trợ cho Chính phủ Việt Nam chủ yếu
mang tình nhân đạo và tập trung vào các lĩnh vực xã hội và được thực hiện chủ
yếu dưới hình thức viện trợ khơng hồn lại hoặc cho vay với tỷ lệ qui đổi ra
thành tố cho không chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng vốn vay, nhằm giúp nhân dân
Việt Nam khôi phục lại đất nước sau chiến tranh, phát triển kinh tế, xố đói giảm
nghèo và hỗ trợ các chương trình cải cách kinh tế của Chính phủ Việt Nam trong
giai đoạn đổi mới bắt đầu vào năm 1986.
Trong giai đoạn này, do luồng vốn viện trợ ODA không cao, chủ yếu là hỗ
trợ kỹ thuật nên Cơ chế quản lý và tiếp nhận viện trợ ODA được điều tiết bởi

từng Quyết định riêng rẽ của Chủ Tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng
Chính phủ đối với từng chương trính hay dự án ODA. Hoặc chỉ mới thực hiện
thơng qua các Hiệp định hợp tác song phương riêng lẻ được ký kết giữa Chính
phủ Việt Nam với các Tổ chức hay chính phủ các nước nói trên. Cịn hệ thống
văn bản pháp quy liên quan đến quá trình điều phối chung các hoạt động từ khâu
thu hút, đến ký kết hiệp định vay, sử dụng vốn vay, quản lý nguồn ODA trong
giai đoạn này vẫn chưa được nghiên cứu và ban hành. Đây là một trong những
thực trạng yếu kém do cơ chế quản lý kinh tế cũ (cơ chế quản lý hành chính
quan liêu bao cấp) để lại, do đó việc quản lý nợ nước ngồi nói chung và ODA
nói riêng trong giai đoạn này đã dẫn đến một thực trạng là "cha chung khơng ai
khóc", sử dụng vốn kém hiệu quả, xem nhẹ nghĩa vụ trả nợ nước ngồi, tách rời
người đi vay (Chính phủ) và người sử dụng vốn (chủ yếu là các doanh nghiệp
nhà nước yếu kém làm ăn thua lỗ).... Ví vậy, các số liệu về nợ nước ngồi nói
chung và ODA nói riêng trong những năm gần đây về cơ bản phản ánh nợ mà


11

Việt Nam vay từ trước giai đoạn 1993, và trong tổng số nợ vay thì nợ quá hạn
chiếm tỷ trọng cao đã làm cho chỉ số nợ nước ngoài so với GDP luôn ở mức độ
báo động (trên 90% GDP), và đã được cộng đồng quốc tế xếp vào diện 1 trong
40 nước nghèo mắc nợ trầm trọng (HIDP).
Tuy nhiên, sau giai đoạn 1993, trước xu hướng hội nhập, luồng vốn ODA
đổ vào Việt Nam ngày một gia tăng, bên cạnh đó là việc thực hiện các cam kết
(đi kèm các khoản vay) cũng ngày một gia tăng nên đã buộc Chính phủ Việt
Nam có những cải cách cơ bản trong công tác vận động, sử dụng và quản lý
nguồn vốn này.
Ngay sau khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận kinh
tế đối với Việt Nam vào tháng 10/1993, lập tức quan hệ hợp tác phát triển giữa
Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ ODA được khai thông. Mở đầu cho các

hoạt động thu hút, vận động ODA đó là thơng qua “Hội nghị quốc tế các nhà tài
trợ dành cho Việt Nam” khai mạc tại Thủ đơ Paris - Cộng hịa Pháp vào ngày
9/11/1993. Đây là điểm mốc lịch sử đầu tiên đánh dấu sự hội nhập của Việt Nam
với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế, tạo ra những cơ hội quan trọng để Việt
Nam tiếp cận với nguồn vốn ODA nhằm phục vụ mạnh mẽ hơn cho nhu cầu
phát triển kinh tế toàn diện của Việt Nam vào những thập kỷ tới.
Các năm tiếp theo “Hội nghị quốc tế các nhà tài trợ dành cho Việt Nam”
được đổi tên thành “Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam”
(Consultative Group Meeting For VietNam) gọi tắt là Hội nghị CG. Từ năm
1993 đến 2018, Việt Nam đã tổ chức thành cơng 26 Hội nghị nhóm tư vấn, trong
đó 3 lần họp tại Paris, 1 lần họp tại Thủ đơ Tokyo, Nhật Bản, cịn lại đều họp tại
Việt Nam. Ngoài Hội nghị CG thường kỳ tổ chức vào tháng 12 hàng năm, bắt
đầu từ năm 1998 còn có thêm các “Hội nghị CG giữa kỳ” được tổ chức vào
tháng 6 hàng năm tại một số địa phương của Việt Nam. Bên cạnh đó, trước thềm
các hội nghị thường niên, Việt Nam còn chủ động tổ chức “Diễn đàn doanh
nghiệp”. Diễn đàn doanh nghiệp là cuộc đối thoại về môi trường đầu tư, kinh
doanh ở Việt Nam giữa đại diện Chính phủ Việt Nam với đại diện các nhà tài
trợ, đại diện các hiệp hội doanh nghiệp trong và ngồi nước, qua đó đẩy mạnh


12

hơn nữa việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nước ngoài đưa vào
Việt nam trong những năm tiếp theo.
Bảng 2: Tình hình ký kết ODA cho Việt Nam giai đoạn 1993 - 2010
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
1993
1994
1995

1996
1997
1998
1999
2000
2001

Tổng

Viện

ODA
816.68
2693.86
1443.53
1598.91
1686.01
2444.3
1504.75
1772.66
2435.18

trợ
238.09
261.83
310.49
417.54
426.71
335
263.58

475.9
345.99

Vay
ODA
578.59
2432.03
1133.04
1181.37
1259.3
2109.3
1241.17
1296.76
2089.19

Năm

Tổng

Viện

2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010


ODA
1888.56
1790.99
2621.25
2758.64
2890.69
3842.78
4560.43
6434.01
3607.18

trợ
340.66
459.26
434.24
517.35
452.76
200.12
344.62
324.59
172.06

Vay
ODA
1547.9
1331.73
2187.01
2241.29
2437.93

3642.66
4215.81
6109.42
3225.12

Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2010, thông qua các Hội
nghị CG, cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết cung cấp nguồn vốn
ODA cho nước ta với tổng giá trị lên đến 46.790 triệu USD. Mức cam kết tăng
dần qua các năm và đạt đỉnh điểm vào năm 2009 là hơn 8 tỷ USD và sau đó
giảm dần nhưng vẫn khá cao, điều này thể hiện sự tin tưởng của các nước và
cộng đồng quốc tế trước những nỗ lực lớn lao và thành tựu rõ ràng của Việt Nam
trong thu hút nguồn vốn này.


13

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN
ODA TỪ NĂM 2011 ĐẾN NAY VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn ODA từ năm 2011 đến nay
* Về huy động nguồn vốn ODA
Cho đến nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác phát triển với 28 nhà tài trợ
song phương, ngoài các nước là thành viên của Tổ chức OECD - DAC cịn có
các nhà tài trợ mới nổi như Trung Quốc, Ấn độ, Hunggari, Séc,... các nước này
bao gồm: Aixơlen, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Canađa, Côoét, Đan Mạch, Đức, Hà
Lan, Hàn Quốc, Hungari, Italia, Lúcxembua, Mỹ, Nauy, Nhật Bản, Niudilân,
Ôtxtrâylia, Phần Lan, Pháp, Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ,
Trung Quốc, Singapore. Hầu hết các nhà tài trợ cung cấp ODA cho Việt Nam
đều dựa trên các chiến lược hoặc các chương trình trung hạn về hợp tác phát
triển với nước ta.

Trong số 28 nhà tài trợ song phương, 23 nhà tài trợ đa phương, 600 NGOs
thì có 3 nhà tài trợ có qui mô cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam từ năm 2011
đến nay, đó là Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển
Châu Á. Số lượng ODA do 3 nhà tài trợ nói trên cung cấp cho Việt Nam kể từ
khi Việt Nam nối lại quan hệ hợp tác phát triển với cộng đồng các nhà tài trợ từ
2011 đến nay chiếm bình quân trên 75% tổng giá trị các điều ước quốc tế về
ODA, trong đó riêng Nhật Bản (tài trợ song phương) chiếm hơn 33% tổng vốn
ODA hàng năm [1]. Đặc biệt trong 2 năm 2016 và 2017, thứ hạng các nhà tài trợ
ODA cho Việt Nam được thống kê như sau:
Bảng 3: Các nhà tài trợ ODA cho Việt Nam giai đoạn 2016-2017
Đơn vị tính: Triệu USD
Đơn vị

Tổng

Vay

WB
JICA
ADB

ODA
3.218,10
3.067,91
1.300,40

ODA
2.195,57
3.060,51
580,44


Viện trợ
10,49
7,40
10,65

Đơn vị

Tổng

Vay

IFAD
Bỉ
Áo

ODA
53,00
31,40
27,04

ODA
52,50
27,80
27,04

Viện trợ
0,50
3,60
27,04



14
KfW
491,43
T. Quốc 281,38
AFD
232,26
KEXIM 224,63
Hungary 57,00

256,07
231,26
224,63
57,00

7,36
30,76
1,00

OFID
KUWAIT
Đ. Mạch
EU
Khác

21,80
20,88
19,35
137,16

14,28

21,80
20,88
16,20
9,56

3,15
137,16
4,72

Nguồn: [1]
Về tình hình đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế về ODA, công tác huy
động vốn ODA giai đoạn 2011 đến nay đã bám sát các mục tiêu, nguyên tắc và
các lĩnh vực ưu tiên đề ra trong các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ qua
từng thời kì, cơ bản đảm bảo các chỉ số nợ cơng, nợ chính phủ và mức bội chi
ngân sách nhà nước trong giới hạn cho phép.
Bảng 4: Tình hình ký kết ODA cho Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
2011

Tổng ODA
6910.42

Viện trợ
194.85

Vay ưu đãi


Vay ODA
6715.57

2012

5938.27

437.17

100

5401.1

2013
2014

6843.83
4450.78

390.88
224.99

410

6042.95
4225.79

2015

3972.15


58.07

367

3547.08

2016

5555.574

40.374

536.31

4978.89

2017

3640.09

0.09

2018

2001.1

Tổng

86096.1


3640
2001.1

7667.214

1623.31

76805.576

Như vậy nếu tính cả Bảng 1 trên đây thì tổng vốn ODA ký kết trong giai
đoạn 1993-2018 đạt 86.096,1 triệu USD, trong đó vay ODA là 76.805,576 triệu
USD, vay ưu đãi là 1.623,31 triệu USD, viện trợ khơng hồn lại là 7.667,214
triệu USD). Với sự nỗ lực và chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Việt Nam đã thu hút
được hết số vốn IDA của Ngân hàng thế giới phân bổ cho Việt Nam trước khi tốt
nghiệp nguồn vốn này vào ngày 1/7/2017.
Để sử dụng nguồn vốn ODA đã cam kết nói trên, Chính phủ Việt Nam đã
tiến hành đàm phán với các nhà tài trợ đa phương và song phương để ký kết các
Điều ước quốc tế về ODA gồm: Nghị định thư, Bản ghi nhớ, Văn kiện dự án,
Hiệp định vay vốn... dành cho các chương trình/dự án ODA cụ thể theo từng


15

lĩnh vực từng ngành đã được 2 bên thoả thuận ký kết. Từ năm 2011 đến năm
2018, Việt Nam đã ký kết tổng cộng 437 Hiệp định, với tổng mức vốn là
39,877.23 triệu USD. Trung bình mỗi dự án đạt 91,59 triệu USD.
Theo danh mục tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ năm 1993 đến hết
năm 2018, cả nước có 2.609 chương trình, dự án vay vốn ODA, vay vốn ưu đãi.
Trong đó, các Bộ, Ngành có khoảng 1.279 dự án, chương trình; các địa phương

có khoảng 1.197 dự án, còn lại là của các ngân hàng, Đài truyền hình Việt
Nam... Trong đó, Bộ Giao thơng Vận tải dẫn đầu với khoảng 288 dự án với các
dự án tiêu biểu như: Năm 2017 vay vốn ưu đãi từ Trung Quốc 250 triệu USD bổ
sung cho dự án đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông. Trước đó, năm 2008, đã
ký kết vay Trung Quốc 175 triệu USD nguồn vốn ODA để làm đường sắt này.
Ký kết vay ADB 1,1 tỷ USD vốn ODA xây dựng đường cao tốc Nội Bài - Lào
Cai; Năm 2013, vay Nhật Bản 168 triệu USD bằng nguồn vốn ODA để làm cầu
Nhật Tân... [1].
Đặc biệt, trong giai đoạn 2011-2018, khi Việt Nam đã trở thành nước MIC
thì vốn ODA kí kết được tuân thủ theo Quyết định 251/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ với 4 lĩnh vực ưu tiên là: 1/Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện
đại; 2/ghiên cứu, xây dựng chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tăng
cường năng lực quản lý nhà nước; 3/Phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa
học và phát triển cơng nghệ; 4/Hỗ trợ bảo vệ mơi trường, ứng phó biến đổi khí
hậu và thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh.
Cơ cấu vốn vay ODA theo lãnh thổ, vùng được xác định với khu vực ưu
tiên là Trung du và miền núi phìa Bắc, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung,
Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long. Như đã thấy trong bảng 5 dưới đây,
tổng vốn ODA và vay ưu đãi ký kết dành cho các khu vực này đều tăng lên, đặc
biệt trong giai đoạn 2016-2018. Nhiều dự án liên kết, thúc đẩy phát triển vùng
được ký kết. Các dự án liên vùng tăng đáng kể, tổng ODA và vốn vay ưu đãi cho
các chương trính, dự án liên vùng thời kỳ 2016-2018 là 54,81%, tăng hơn 7% so
với tỷ lệ 47% của giai đoạn 2011-2015.
Bảng 5: Vốn nước ngoài phân bổ theo khu vực


16
Khu vực

2011-2015


2016-2018

Tổng ODA

% so

Tổng ODA

% so

(TriệuUSD)

với cả

(TriệuUSD)

với cả

Đồng bằng sông Hồng:

4.557,57

nước
16,6

1059,27

nước
9,46


Trung du và miền núi phìa Bắc

723,92

2,63

497,48

4,44

Bắc TB và duyên hải miền Trung

3.312,22

12,05

1456,41

13,00

Tây Nguyên

416,04

1,51

288,15

2,57


Đông Nam Bộ:

3.312,78

12,06

825,17

7,37

Đồng bằng sông Cửu Long

2.238,54

8,15

934,69

8,35

Liên vùng

12.915,93

47,00

6.137,96

54,81


Nguồn: [1]
* Về thực trạng sử dụng nguồn vốn ODA theo lĩnh vực:
Trong hỗ trợ tăng trưởng kinh tế: Đối với tăng trưởng kinh tế, nguồn vốn
ODA được đánh giá đã góp phần tác động tìch cực vào sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội đất nước. Tốc độ tăng trưởng GDP cơ bản tăng trong giai đoạn này, đặc
biệt liên tục tăng trong 3 năm (2016-2018). Trong giai đoạn 1993-2018, GDP Việt
Nam tăng từ 12,9 tỷ USD năm 1993 lên 240 tỷ năm 2018. Tỷ trọng ODA giải
ngân trong GDP trung bình 2,68% trong giai đoạn 1993-2018. Tuy nhiên, giai
đoạn 2011-2018, tỷ lệ vốn ODA trong GDP bình quân có xu hướng giảm dần (từ
2,68% giai đoạn 1993-2018 xuống còn 2,29% giai đoạn 2010-2018).
Bảng 6: Tỉ lệ giải ngân ODA trên GDP của Việt Nam
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
2011
2012
2013
2014

ODA giải ngân

Năm ODA giải ngân
Tổng GDP
4.600
191.542
2015
3.700
203.947
2016
3.600

223.059
2017
3.000
240.000
2018
Nhìn vào bảng 6 sẽ thấy, trong giai đoạn 2011 - 2018, GDP tăng trưởng
3.650
4.183
5.137
5.655

Tổng GDP

133.629
155.820
170.387
185.305

đáng kể so với giai đoạn trước, mối tương quan giữa GDP và ODA vẫn có tương
quan thuận. Tuy nhiên, xét về tổng thể, ODA chỉ là một trong những nguồn vốn
hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội, để ODA có thể đóng góp vào tăng trưởng kinh tế


17

xã hội, quan trọng là môi trường thể chế ODA phải thuận lợi để những thế mạnh
của nguồn vốn này có thể phát huy, như phải thực hiện dự án đúng tiến độ, giải
ngân nhanh để đưa cơng trình vào khai thác, tạo nguồn thu để trả nợ và phòng
tránh những rủi ro, nhất là rủi ro tỷ giá của đồng tiền vay.
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nơng thơn, các chương trình và

dự án ODA ký kết từ năm 1993 đến 2018 đạt tổng giá trị 10946,78 triệu USD,
chiếm tỉ trọng 12,71% tổng vốn vay ODA, nhìn chung nguồn vốn này đã được
sử dụng khá hiệu quả trong thời gian qua. Về cơ cấu vốn theo ngành, lĩnh vực
trong thời kỳ này, ngành thuỷ lợi chiếm tỷ lệ cao nhất (45%), tiếp đến là ngành
nông nghiệp (21%), phát triển nông thôn (15%), lâm nghiệp (15%) và cuối cùng
là thuỷ sản chiếm 4%. Tuy nhiên trong thời gian gần đây cơ cấu này đang
chuyển dịch theo hướng tăng mạnh tỷ trọng trong lĩnh vực phát triển nông thôn
hiện đang chiếm gần 40%.
Trong lĩnh vực thủy lợi, nguồn vốn ODA hỗ trợ phát triển hệ thống thủy lợi
vùng đồng bằng sông Hồng, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long thơng
qua các dự án của WB, ADB, JICA, Ơxtrâylia và một số nhà tài trợ khác. Trong
thời gian qua, vốn ODA đã hỗ trợ xây dựng nhiều hệ thống thủy lợi quy mô lớn
như hệ thống tưới tiêu Phan Rí - Phan Thiết, hệ thống thủy lợi Phước Hịa,... góp
phần điều hịa nguồn nước, phục vụ tưới tiêu, phịng chống lũ lụt.
Trong lĩnh vực phát triển năng lượng: Tổng số vốn ODA ký kết trong lĩnh
vực năng lượng và công nghiệp giai đoạn 1993 - 2018 đạt 15207,51 triệu USD,
chiếm tỉ trọng 17,66% trong tổng nguồn vốn ODA. Nguồn vốn ODA đã được sử
dụng khá hiệu quả, thể hiện qua sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống điện về
nguồn điện, lưới điện truyền tải, lưới điện phân phối, nâng cao độ tin cậy, an
toàn vận hành hệ thống... Các chương trình, dự án thực sự mang lại hiệu quả
thiết thực cho đầu tư phát triển ngành điện, góp phần quan trọng tăng trưởng
kinh tế và cải thiện đời sống người dân, cũng như đóng góp đáng kể vào sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiều nhà máy điện công suất
lớn đã và đang được xây dựng bằng nguồn vốn ODA như nhà máy nhiệt điện
Phú Mỹ 2.1 (288 MW), nhà máy nhiệt điện Phả lại 2 (600 MW). Nhà máy thủy


18

điện Hàm Thuận - Đa Mi (475 MW), nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 1 (1090 MW),

nhà máy nhiệt điện Ô-Môn (600 MW), nhà máy thủy điện Đại Ninh (360
MW)... Nguồn vốn ODA được sử dụng để phát triển hệ thống đường dây truyền
tải điện và các trạm phân phối điện, nhất là tăng cường năng lực cho đường dây
500 KV theo hướng Bắc - Nam, góp phần ổn định cung cấp điện cho các tỉnh
phía Nam. Bên cạnh đó, nguồn vốn ODA hỗ trợ thực hiện các dự án cải tạo và
nâng cấp hệ thống lưới điện của nhiều thành phố, nhất là lưới điện nơng thơn
góp phần giảm tổn thất điện, nâng cao sự an tồn và tình ổn định cho lưới điện
nơng thơn, bảo đảm bình đẳng trong chi trả tiền điện giữa người dân nông thôn
và thành phố.
Trong lĩnh vực công nghiệp, giai đoạn 2011-2018, nguồn vốn ODA hỗ trợ
lĩnh vực này thông qua hai kênh chính: Thứ nhất, một số nhà tài trợ có các kênh
vốn ODA riêng để hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế tư
nhân. Ví dụ, WB, ADB, JICA (Nhật Bản), AFD (Pháp) và một số nhà tài trợ
khác có kênh vốn riêng đáp ứng nhu cầu vốn của khu vực tư nhân theo thỏa
thuận riêng giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các nhà tài trợ mà khơng cần có
sự bảo lãnh của Chính phủ. Một số dự án phát triển xi măng của các công ty sản
xuất xi măng Việt Nam tiếp cận được kênh vốn này. Cơng ty Tài chính quốc tế
(IFC) trong Nhóm Ngân hàng Thế giới tham gia tài trợ cho Liên doanh các công
ty Việt Nam, Kuwait và Nhật Bản trong việc xây dựng nhà máy lọc dầu thứ hai
của Việt Nam tại Nghi Sơn, Thanh Hoá trị giá 9 tỷ USD,... Thứ hai, các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh Việt Nam có thể tiếp cận đến nguồn vốn ODA của
nhà tài trợ trong khn khổ hạn mức tín dụng ký kết giữa Chính phủ và nhà tài
trợ. Ví dụ, hạn mức tìn dụng của Đan Mạch hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ (SME) hoặc dự án tín dụng hai bước của JICA (Nhật Bản) để hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn II và III (SMEFP II & III), theo đó, Bộ Tài
chính ký kết với nhà tài trợ hạn mức tín dụng, xác định những nguyên tắc, tiêu
chí và lĩnh vực ưu tiên cho SME vay vốn phát triển. Thơng qua đấu thầu, Bộ Tài
chính phối hợp với Ngân hàng nhà nước lựa chọn Ngân hàng thương mại để bán



19

bn hạn mức tín dụng này, chẳng hạn Ngân hàng Việt Nam Thịnh vượng
(VPB) được lựa chọn sẽ kinh doanh số vốn ODA do JICA (Nhật Bản) cung cấp.
Trong lĩnh vực khoa học, cơng nghệ, văn hóa, thơng tin,... Trong lĩnh này,
tổng vốn ODA huy động trong thời gian qua đạt 13.797 triệu USD, chiếm tỉ
trọng 16,03% tổng vốn ODA kí kết. Một số dự án điển hình như: Dự án hồn
thiện khn khổ pháp lý và tăng cường năng lực quản lý, Dự án hỗ trợ chính
sách thương mại và đầu tư của châu Âu, Dự án nâng cao năng lực cho ngành
công nghiệp và thương mại Việt Nam nhằm kiểm sốt hiệu ứng nhà kính và tăng
cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, Dự án đẩy mạnh sáng tạo thông
qua nghiên cứu khoa học và công nghệ...
Nhờ nguồn vốn ODA hỗ trợ phát triển khoa học, nhiều công nghệ cao trong
các lĩnh vực công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu, xây dựng... nhiều kỹ năng
và kinh nghiệm quản lý tiên tiến được chuyển giao cho các cơ quan và trung tâm
nghiên cứu, cũng như các Bộ, ngành và địa phương Việt Nam. Chẳng hạn như
Dự án phát triển hạ tầng khu công nghệ cao và Trung tâm vũ trụ Việt Nam tại
khu Công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội do Nhật Bản tài trợ. Trong tương lai gần
khu này sẽ là “nhà máy công nghệ Việt Nam” ở phía Bắc. Thơng qua các dự án
hỗ trợ kỹ thuật (TA), chủ yếu bằng viện trợ khơng hồn lại, hàng vạn cán bộ Việt
Nam ở Trung ương và các địa phương đã được đào tạo và đào tạo lại ngắn hạn ở
trong và ngoài nước về nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, quản lý
kinh tế, tài chính ngân hàng, quản trị cơng,...
Trong giai đoạn 1993-2018, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã thu hút
được gần 200 triệu USD để thực hiện các chương trình và dự án ưu tiên trong
các lĩnh vực như phát triển văn hoá (Hỗ trợ Viện Phim Việt Nam; Quỹ giao lưu
văn hoá; Phát triển và bảo tồn văn hố; Xây dựng chính sách văn hố,...); gia
đình (Xây dựng chính sách gia đính, truyền thơng thúc đẩy thực hiện Luật
Phịng chống bạo lực gia đình,...), và du lịch (Tăng cường năng lực cho ngành
du lịch; Phát triển du lịch bền vững tiểu vùng Mê- kông,...) [1].

Tuy nguồn vốn ODA hỗ trợ cho phát triển văn hoá, thể thao và thơng tin
khơng lớn song đã có tác dụng quan trọng góp phần khơng nhỏ vào sự nghiệp


20

phát triển và quá trình hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực văn hoá, thể thao, du
lịch và gia đình. Trong lĩnh vực văn hố, ODA là một trong những cầu nối nền
văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc với nền văn hóa giàu truyền thống,
phong phú và đa dạng của các nước tài trợ. Một thí dụ sinh động là trong năm
2013, nhiều nước tài trợ cùng với Việt Nam kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ
ngoại giao. Nhân sự kiện quan trọng này, ODA góp phần tài trợ cho nhiều sự
kiện giao lưu văn hóa và giao lưu nhân dân, góp phần chia sẻ giá trị văn hóa,
tăng cường tính hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam và nhân
dân các nước bè bạn.
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình sử dụng nguồn
ODA ở Việt Nam trong thời gian tới
Thứ nhất, cần chú trọng định mức an tồn về nợ cơng trong huy động và sử
dụng nguồn vốn ODA. Trong những năm qua, nợ công của Việt Nam tăng nhanh
và đang tiệm cận đến trần nợ công cho phép. Tuy nhiên, quan điểm cho rằng nên
có biện pháp cắt giảm quy mơ nguồn vốn vay ODA không phải là cách tiếp cận
hợp lý. Vấn đề quan trọng hơn là việc lựa chọn và thực hiện các dự án cần thực
sự hiệu quả, phát huy tối đa tác dụng của nguồn vốn, nâng cao khả năng trả nợ
của quốc gia trong tương lai. Do vậy, để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục huy động nguồn vốn ODA của
các nhà tài trợ. Trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đã trở thành nước có thu
nhập trung bình thấp, các nhà tài trợ đang giảm dần các khoản viện trợ ODA cao
cho Việt Nam, chúng ta càng phải tận dụng các nguồn vốn này để được áp dụng
các điều kiện ưu đãi nhất và gối đầu cho giai đoạn phát triển tiếp theo của đất
nước. Căn cứ nhu cầu vay nước ngoài của Việt Nam và kinh nghiệm rút ra từ
việc quản lý và sử dụng vốn ODA của cộng đồng các nhà tài trợ và yêu cầu của

Chiến lược quản lý nợ cơng giai đoạn 2015-2020, để bảo đảm an tồn nợ cơng,
cần có những định hướng về mặt chính sách trong quản lý và sử dụng nguồn vốn
ODA, đó là:
- Tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn đầu tư
công và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch phát triển


21

kinh tế - xã hội 05 năm của đất nước, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và
quy hoạch phát triển ngành trong việc sử dụng vốn ODA.
- Rà sốt, phân kỳ đầu tư đối với chương trình, dự án đang triển khai và dự
kiến sử dụng vốn vay ODA của các nhà tài trợ để đảm bảo trong giới hạn trần nợ
cơng, nợ Chính phủ đã được Quốc hội phê chuẩn.
- Xác định hướng ưu tiên, các chỉ tiêu đầu tư sử dụng ODA là nhiệm vụ
quan trọng nhất. Thực hiện tốt công tác định hướng này giúp cho vốn ODA được
sử dụng đúng mục đìch, đến đúng nơi có nhu cầu, nhằm phát huy hiệu quả và
tiết kiệm ODA.
- Quản lý việc sử dụng vốn đầu tư công theo đúng quy định đối với từng
nguồn vốn ODA; bảo đảm đầu tư tập trung, đồng bộ, chất lượng, tiết kiệm, hiệu
quả và khả năng cân đối nguồn lực, khơng để thất thốt, lãng phí.
- Để đảm bảo nợ cơng an tồn, phải bảo đảm ngun tắc sử dụng vốn ODA
là vừa duy trí động lực phát triển vừa tạo ra nguồn thu cho Ngân sách nhà nước
căn cứ vào kế hoạch trung và dài hạn để đảm bảo khả năng trả nợ.
- Lựa chọn nguồn vốn vay phù hợp với cơ chế tài chính của dự án chương
trình sử dụng vốn ODA, tiến tới việc quản lý tổng mức vốn vay khi Việt Nam
chỉ còn được vay từ nguồn kém ưu đãi.
- Thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước,
tổ chức, cá nhân liên quan đến quản lý và sử dụng vốn ODA.
- Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn cho đầu tư phát triển mà có sự

tận dụng nguồn vốn từ ngoài ngân sách, nghĩa là huy động nguồn tư nhân tham
gia vào các dự án dưới hính thức Hợp tác cơng tư (PPP) như BT, BOT, BTO.
Bằng cách này gánh nặng ngân sách sẽ giảm và quản lý hiệu quả hơn là sử dụng
toàn bộ bằng ODA. Bởi ví tâm lý chung của người Việt Nam vẫn coi ODA là
cho khơng, dẫn đến tình lãng phì, tham nhũng ODA dễ xảy ra như một số đã xảy
ra tính trạng này.
- Cần gắn kết giữa huy động và phân bổ sử dụng ODA với chỉ tiêu giám sát
an toàn nợ.


22

- Cần công khai minh bạch thông tin về các dự án, chương trình ODA để
tăng cường tình giám sát của dư luận trong nước và quốc tế.
Thứ hai, cần bám sát tiêu chí phát triển bền vững về xã hội trong trong huy
động và sử dụng nguồn vốn ODA. Những năm qua ở Việt Nam, nguồn vốn ODA
đã giúp thay đổi mặt bằng đời sống xã hội của nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực.
Tuy nhiên, công tác quản lý nguồn vốn vay nước ngồi vẫn có thất thốt, lãng
phì. Vì vậy, cần đẩy mạnh việc giám sát của người dân và các tổ chức xã hội tại
các địa phương. Thời gian tới, cần triển khai các nguồn vốn ODA hiệu quả hơn;
tăng cường thanh tra, kiểm tra các đơn vị địa phương triển khai nguồn vốn ODA
hiệu quả. Với nguồn ODA viện trợ khơng hồn lại, cần ưu tiên hỗ trợ giảm
nghèo bền vững, các lĩnh vực xã hội (y tế, giáo dục...), phát triển thể chế, nguồn
nhân lực, khoa học, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ...
Đối với vốn vay ODA, cần tập trung cho những dự án có quy mơ lớn, mang
tình lan tỏa cao, có tính chất liên vùng, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng, miền, bảo đảm tình đồng bộ, phù
hợp quy hoạch, phát huy tối đa hiệu quả dự án theo các các mục tiêu đã đề ra.
Đối với vốn vay ưu đãi, cần tập trung lựa chọn các dự án có khả năng thu hồi
vốn đã trả nợ trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Cần thực hiện

nghiêm quy định không vay để chi thường xuyên. Các dự án sử dụng nguồn vốn
ODA và vay ưu đãi nước ngồi cần tình tốn, cân nhắc, so sánh hiệu quả, chi phí
so với vay trong nước, tránh lệ thuộc vào các nhà đầu tư... Cần nêu rõ trách
nhiệm của các cơ quan chức năng của một số địa phương để có biện pháp nhắc
nhở trước việc sử dụng vốn ODA nhằm cảnh tỉnh các bộ ngành, địa phương khi
thực hiện các dự án vốn ODA phải có trách nhiệm cao.
Việc sử dụng các nguồn vốn ODA cho các chương trình xóa đói, giảm
nghèo và phát triển y tế, giáo dục cần phải chú trọng đến các vấn đề như:
Tiếp tục dành sự quan tâm hàng đầu đối với chương trình xóa đói, giảm
nghèo. Cần rà sốt lại tồn bộ Chương trình mục tiêu Quốc gia và các chương
trình hỗ trợ có mục tiêu khác. Trên cơ sở đó, xác định thứ tự ưu tiên các chương


23

trình, dự án đầu tư và các mục tiêu khả thi, đối tượng cần phải quan tâm đặc biệt
để tập trung bố trì nguồn lực thực hiện dứt điểm.
Tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu tạo khả năng thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội: Điện, đường, trường, trạm, thủy lợi,... và hạ tầng phục vụ
sản xuất kinh doanh như: Cảng, bến bãi, chợ... thông tin thị trường nhằm giảm
giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của hàng nông sản, phát triển thị trường tiêu
thụ hàng nông sản giúp nông dân tăng thu nhập và thoát nghèo bền vững.
Tiếp tục tăng cường đầu tư cho giáo dục, đào tạo nghề và giải quyết việc
làm cho người nghèo; hồn thiện thể chế chính sách cơng bằng trong tiếp cận
giáo dục, đặc biệt trong việc tiếp cận giáo dục tiểu học và trung học cơ sở cho
con em các hộ gia đính sống trong các vùng nơng thơn, các vùng nghèo, đồng
bào các dân tộc ìt người.
Thứ ba, cần chú trọng đến tiêu chí phát triển bền vững về mơi trường trong
q trình sử dụng nguồn vốn ODA. Mặc dù hiện nay nguồn vốn nói chung cho
đầu tư phát triển cho bảo vệ mội trường (BVMT) cũng đã được quan tâm trong

tổng chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, tuy nhiên đầu tư trong giai
đoạn 2016 - 2020 chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt một số đề
án lớn có yêu cầu vốn đầu tư lớn mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu
đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương. Vì vậy, trong thời gian tới để cho
nguồn vốn ODA đầu tư cho bảo vệ môi trường được giải ngân và sử dụng hiệu
quả hơn cần phải:
- Tập trung hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư cho
bảo vệ mơi trường.
- Hồn thiện công tác quy hoạch ngành như quy hoạch các bãi chôn lấp, bãi
xử lý rác thải.
- Ưu tiên vốn ODA cho đầu tư phát triển để thực hiện các quy hoạch đã
được phê duyệt; cải thiện cơ sở vật chất, hạ tầng, trang thiết bị hiện đại phục vụ
cho công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, xử lý triệt để
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo các Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, các văn bản chỉ đạo của Đảng, Quốc hội.


24

- Tăng cường công tác giám sát đầu tư, sử dụng vốn ODA đảm bảo sử dụng
đúng mục đích và hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường.
- Xây dựng các chế tài và hình thức xử phạt đủ mạnh để đảm bảo các doanh
nghiệp thực hiện nguyên tắc đã ghi trong Luật bảo vệ môi trường. Tăng cường
đa dạng hóa đầu tư cho bảo vệ mơi trường, thực hiện phương châm xã hội hóa;
tiếp tục có chính sách huy động nguồn vốn ODA cho bảo vệ mơi trường.
Thứ tư, hồn thiện đồng bộ hành lang và khuôn khổ pháp lý về quản lý,
huy động và sử dụng nguồn vốn ODA. Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành
nước có mức thu nhập trung bình, đồng thời để quản lý và sử dụng vốn ODA có
hiệu quả cao, bảo đảm hài hịa hịa quy trình và thủ tục quản lý với nhà tài trợ,
duy trì sự quản lý và điều phối thống nhất các nguồn tài trợ phát triển, hướng tới

tối ưu hoá sử dụng nguồn vốn này thì cần phải:
- Thay thế Nghị định 132/2018/NĐ-CP (sau khi Quốc hội thông qua Luật
Đầu tư công sửa đổi) bằng Nghị định mới phù hợp với tình hính hiện nay. Có thể
thấy, vốn ODA chủ yếu được điều chỉnh bởi Nghị định 132CP/2018 của Chính
phủ, quyết định của Thủ tướng, hướng dẫn của các Bộ, ngành địa phương và
quy định của nhà tài trợ. Các quy định này còn phức tạp, phân tán, hiệu lực pháp
lý thấp. Việc đảm bảo cơng khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong Nghị
định 132/CP cịn mang tính ngun tắc mà chưa cụ thể hóa vào nghị quyết, vào
chương trình ODA dẫn đến chưa ngăn chặn triệt để được tính trạng xin cho, cò
dự án, tiêu cực tham nhũng. Một tồn tại khác là Nghị định 132/CP đã có phạm vi
ưu tiên sử dụng vốn ODA quá rộng ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế xã hội và cịn
có quy định quét là “một số lĩnh vực khác”. Điều này dẫn đến thực tế phân bổ
ODA dàn trải, thiếu trọng tâm trọng điểm, khơng tập trung được cho lĩnh vực
mang tình đầu tàu và dẫn đường, cũng khơng kìch thìch được nội lực mà tạo tâm
lý ỷ lại. Do đó, cần bổ sung quy định về các lĩnh vực ưu tiên tiếp nhận vốn ODA
một cách chi tiết, cụ thể.
- Cập nhật, ban hành kịp thời các văn bản chính sách và thể chế dưới luật
về quản lý chi tiêu công, bao gồm cả hệ thống theo dõi, giám sát và đánh giá đầu
tư công.


×