Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Quan niệm của triết học mác lênin về mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này và liên hệ với một lĩnh vực cụ thể trong đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.07 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA: HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ VÀ TMĐT
----------

BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: Quan niệm của triết học Mác-Lênin về mối quan hệ
biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp
luận của vấn đề này và liên hệ với một lĩnh vực cụ thể trong
đời sống xã hội.
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Đào Thu Hà và Tạ Vân Hà
HỌC PHẦN: Triết học Mác - Lênin
NHÓM THỰC HIỆN: Nhóm 6
MÃ LỚP HP: 2246MLNP0221

HÀ NỘI, 2022

1

download by :


Table of Contents
LỜI CAM ĐOAN..........................................................................................................4
PHẦN 1. MỞ ĐẦU.......................................................................................................5
1.

Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................5

2.

Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu..........................................................................5



PHẦN 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN.........................................................................................6
Chương 1: Tổng quan về nhận thức và thực tiễn trong triết học...............................6
1.

Khái quát chung về nhận thức.........................................................................6
1.2. Các nguyên tắc xây dựng lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện
chứng......................................................................................................................6
1.3. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức.............................................................7
1.4. Phân loại của nhận thức...............................................................................8
1.5. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức.............................................8

2.

Khái quát chung về thực tiễn.........................................................................10
2.1. Khái niệm thực tiễn...................................................................................10
2.2. Đặc trưng của hoạt động thực tiễn.............................................................10
2.3. Các dạng hoạt động thực tiễn cơ bản.........................................................11

Chương 2: Mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn..............................................11
1.

Bản chất của mối quan hệ..............................................................................12

2.

Tính chất của mối quan hệ.............................................................................12

3.


Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn..................................13
3.1. Thực tiễn giữa vai trò quyết định đối với nhận thức..................................13
3.1.1. Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức...............................................14
3.1.2. Thực tiễn là mục đích của nhận thức.........................................................15
3.1.3. Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý...............................................16
3.2. Nhận thức tác động tích cực trở lại thực tiễn.............................................18
3.2.1. Lý luận khái quát kinh nghiệm, chỉ ra quy luật vận động của thực tiễn.....19
3.2.2. Lý luận dự báo, định hướng cho hoạt động thực tiễn................................19
3.2.3. Lý luận giáo dục, liên kết, tập hợp lực lượng, chỉ đạo và cải tạo thực
tiễn………………………………………………………………………………..20
3.3. Kết luận về mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn.............22

Chương 3: Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng vào thực tiễn đời sống xã hội
.................................................................................................................................... 22
1.

Ý nghĩa phương pháp luận.............................................................................22

2.

Liên hệ một lĩnh vực trong đời sống xã hội...................................................23

Phần III. Kết luận......................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................26

2

download by :



LỜI CẢM ƠN
Từ xưa đến nay, ông cha ta luôn căn dặn thế hệ mai sau rằng:
”Qua sơng thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”
Từng bài học, từng con chữ, những lượng kiến thức cũng như hành trang vững
chắc mà chúng em có được ngày hơm nay đều nhờ vào sự yêu thương, chăm sóc của
cha mẹ, sự chỉ bảo tận tâm của thầy cô, sự quan tâm của ban lãnh đạo nhà trường. Trở
thành một thành viên, một mảnh ghép của mái nhà chung trường Đại học Thương Mại
chúng em cảm thấy vô cùng biết ơn những điều tốt đẹp mà nhà trường mang lại. Trong
thời gian học tập năm đầu tiên tại trường, dưới sự giúp đỡ của ban lãnh đạo nhà
trường, sự chỉ dẫn  tận tình của các q thầy cơ, đặc biệt là cô Tạ Vân Hà và cô Đào
Thị Thu Hà đã giúp chúng em trau dồi được thêm nhiều kiến thức bổ ích, nhiều bài
học q báu.
Để hồn thành tốt bài thảo luận này, nhóm 6 chúng em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến giảng viên bộ môn triết học cô Tạ Vân Hà và cô Đào Thị Thu Hà Nhờ
những bài giảng tận tâm, khối kiến thức rộng lớn, cách truyền đạt dễ hiểu của cô đã
giúp chúng em mở mang kiến thức, hiểu hơn về những quy luật vận động, phát triển
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy để hoàn thành tốt đề tài Triết học.
Dưới đây là phần trình bày những kiến thức mà chúng em đã nghiên cứu được
trong xuyên suốt quá trình thực hiện đề tài. Dưới sự hướng dẫn của các cô và sự nỗ lực
không ngừng nghỉ của các thành viên trong nhóm chúng em đã hồn thành đề tài.
Song vẫn còn nhiều hạn chế chưa thể giải quyết, trình bày hết suy nghĩ của các thành
viên trong nhóm. Chúng em mong được lắng nghe ý kiến đóng góp của cô và các bạn
để bài thảo luận được đầy đủ và sâu sắc hơn, qua đó để chúng em rút ra bài học kinh
nghiệm trong những lần thực hiện đề tài tiếp theo.
Cuối cùng chúng em xin kính chúc cô luôn mạnh khỏe và thành công trong sự
nghiệp giảng dạy của mình!
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

3


download by :


LỜI CAM ĐOAN
Trong học tập, nếu có lý luận mà khơng có thực tiễn thì sẽ có hậu quả gì
Nhóm 6 của chúng em xin cam đoan rằng:
Những nội dung trong đề tài này là do chúng em thực hiện dưới sự hướng dẫn
của giảng viên Đào Thu Hà và giảng viên Tạ Thị Vân Hà, những kiến thức thu được là
do chúng em trực tiếp nghiên cứu, học tập và tích lũy với một thái độ hồn tồn khách
quan, trung thực.
Những nội dung trình bày trong tiểu luận: “Quan niệm của triết học Mác-Lênin
về mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp luận của
vấn đề này và liên hệ với một lĩnh vực cụ thể trong đời sống xã hội” không phải là bản
sao chép bất cứ bài báo cáo thảo luận nào có trước đó, bất kỳ bài nghiên cứu nào tương
tự.
Toàn bộ nội dung của bài thảo luận, những điều được trình bày hoặc là của cá
nhân thành viên trong nhóm hoặc là được tổng hợp từ các nguồn tài liệu xuất xứ rõ
ràng và hợp pháp.
đoan!

Chúng em xin hoàn tồn chịu trách nhiệm và hình thức kỷ luật cho lời cam

4

download by :


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Quán triệt sâu sắc lý luận với Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thành công trong việc
tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ đó
đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của Chủ
nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn ko có lý luận hướng dẫn là thực tiễn mù quáng, lý luận
mà ko liên hệ với thực tiễn là lý luận sng”. Việc phân tích tìm hiểu mối liên hệ biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra quan điểm thực tiễn và vận dụng đúng đắn
quan điểm đó trong hành động thực tiễn là rất cần thiết cũng như tránh được những sai
lầm của bệnh kinh nghiệm, giáo điều chủ nghĩa.
Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn ln là một địi hỏi
cấp bách và là một cách để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của
tổ chức và của một chính đảng. Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện
chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt
động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực
của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý... luôn là chìa khóa để giải quyết mọi vướng
mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định. Ngược lại, nhận thức không đúng và giải
quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều,
kinh viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hay chủ quan duy ý chí, tất nhiên sẽ dẫn đến
những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn đến những hậu
quả nghiêm trọng.
Chính vì lẽ đó mà việc nghiên cứu, chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn đồng thời hiểu rõ ý nghĩa của phương pháp luận này là một điều vô cùng cần
thiết và cấp bách.
2. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Về lý luận: Đề tài hệ thống hoá những vấn đề lý luận về nhận thức, thực tiễn, mối
quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn, ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề
này.
Về thực tiễn: Nghiên cứu đề tài này làm cơ sở khoa học do các cá nhân, tổ chức
ứng dụng nhằm nâng cao hiệu quả suy nghĩ, hành động của mỗi người, hiểu được tầm
quan trọng của vấn đề, từ đó vận dụng trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống hàng

ngày.
PHẦN 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Chương 1: Tổng quan về nhận thức và thực tiễn trong triết học
5

download by :


Biện chứng: Là phương pháp “xem xét những sự vật và những phản ánh của
chúng trong tư tưởng trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau của chúng trong sự ràng
buộc, sự vận động, sự phát sinh và tiêu vong của chúng”
- Biện chứng khách quan: là biện chứng của thế giới vật chất
- Biện chứng chủ quan: là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đầu óc con
người.
1. Khái quát chung về nhận thức
1.1. Quan niệm về nhận thức trong lịch sử triết học
-

Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm

Chủ nghĩa duy tâm khách quan: Không phủ nhận khả năng nhận thức của con
người nhưng giải thích 1 cách duy tâm, thần bí (Platon, Hegel).
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Phủ nhận khả năng nhận thức thế giới con người;
nhận thức là sự phản ánh trạng thái chủ quan của con người (Berkeley, Makhơ).
-

Quan điểm của chủ nghĩa hoài nghi

Nghi ngờ khả năng nhận thức của con người, tuy cịn hạn chế nhưng yếu tố tích
cực đối với nhận thức khoa học.

-

Quan điểm của thuyết không thể biết
Con người không thể nhận thức được bản chất thế giới.

-

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác

Đều công nhận khả năng nhận thức của con người, coi thế giới khách quan là đối
tượng của nhận thức con người. Họ bảo vệ nguyên tắc nhận thức là phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ óc con người. Tuy nhiên, cịn nhiều hạn chế.
1.2.

Các nguyên tắc xây dựng lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện
chứng

- Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với
ý thức con người. Đây là nguyên tắc nền tảng của lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, thế giới vật chất tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức, với cảm giác của con người và lồi người nói chung,
mặc dù người ta có thể chưa biết đến chúng. Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I. Lênin viết: “Chủ nghĩa duy vật nói chung thừa nhận
rằng tồn tại thực tại khách quan(vật chất) là không phụ thuộc vào ý thức, cảm giác,
kinh nghiệm, v.v., của loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận rằng tồn tại xã
hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của lồi người. Trong hai trường hợp đó, ý
thức chỉ là phản ánh của tồn tại, nhiều lắm cũng chỉ là một phản ánh gần đúng(ăn
khớp, chính xác một cách lý tưởng)”.
6


download by :


- Hai là, công nhận cảm giác, tri giác, ý thức nói chung là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, các cảm giác của chúng ta(và
mọi tri thức) đều là sự phản ánh, đều là hình ảnh chủ quan của hiện thực khách quan:
“Cảm giác là một hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Nhưng không phải sự
phản ánh thụ động, cứng đờ của hiện thực khách quan giống như sự phản ánh vật lý
của cái gương trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Đó chính là quan
niệm trực quan của chủ nghĩa duy vật siêu hình, khơng đánh giá đúng mức vai trị tích
cực của chủ thể, của nhận cách và hoạt động thực tiễn của con người trong phản ánh.
- Ba là, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai của
cảm giác, ý thức nói chung. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là tiêu chuẩn
để kiểm tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai của cảm giác, ý thức nói chung; là tiêu chuẩn
để kiểm tra chân lý. Tất nhiên, “… thực tiễn mà chúng ta dùng làm tiêu chuẩn trong lý
luận về nhận thức, phải bao gồm cả thực tiễn của những sự quan sát, những sự phát
hiện về thiên văn học…”. Do vậy,”Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
1.3.

Nguồn gốc, bản chất của nhận thức

Triết học Mác - Lênin thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và cho rằng
thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức. Không phải ý thức của con người sản
sinh ra thế giới mà thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người là
nguồn gốc “duy nhất và cuối cùng” của nhận thức. Triết học Mác - Lênin khẳng định
khả năng nhận thức thế giới của con người. V.I. Lênin đã chỉ rõ chỉ có những cái mà
con người chưa biết chứ khơng có cái gì khơng thể biết: “Dứt khốt là khơng có và
khơng thể có bất kỳ sự khác nhau nào về nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ
có sự khác nhau giữa cái đã được nhận thức và cái chưa được nhận thức”.

Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách
quan vào bộ óc người. “Tri giác và biểu tượng của chúng ta là hình ảnh của các sự vật
đó”; “Cảm giác của chúng ta, ý thức của chúng ta chỉ là hình ảnh của thế giới bên
ngồi và dĩ nhiên là nếu khơng có cái bị phản ánh thì khơng thể có cái phản ánh,
những cái bị phản ánh tồn tại độc lập với cái phản ánh”. Điều này thể hiện quan niệm
duy vật về nhận thức, chống lại quan niệm duy tâm về nhận thức. Nhận thức là một
quá trình phức tạp, quá trình nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn chứ khơng phải q
trình máy móc và giản đơn, thụ động và nhất thời: “Nhận thức là sự đến gần mãi mãi
và vô tận của tư duy đến khác thể. Phản ánh của thế giới tự nhiên trong tư tưởng con
người được hiểu không phải một cách “chết cứng”, “trừu tượng”, không phải
không vận động, không mâu thuẫn, mà là trong quá trình vĩnh viễn của vận động,
của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết mâu thuẫn đó”.
Nhận thức là một q trình biện chứng có vận động và phát triển, là q trình đi
từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn, từ biết chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn.
Đây là một q trình, khơng phải nhận thức một lần là xong, mà có phát triển, có bổ
sung và hoàn thiện: “Trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả những lĩnh vực
khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là từng giả định rằng
nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết
này sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết khơng đầy đủ và khơng
chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào”.
7

download by :


Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể nhận thức và khách thể
nhận thức trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. Bản chất của nhận thức là q
trình phản ánh tích cực, sáng tạo thế giới vật chất khách quan bởi con người.
1.4.


Phân loại của nhận thức

Theo quan điểm duy vật biện chứng nhận thức là một q trình đó là q trình đi
từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận, từ trình độ nhận
thức thơng thường đến trình độ nhận thức khoa học. Dựa trên nguyên tắc đó chủ nghĩa
duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức là q trình phản ánh biện chứng tích cực,
tự giác, sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.
Nhận thức kinh nghiệm: Hình thành từ sự quan sát sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và các kinh nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là
những tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai loại đó là tri thức kinh nghiệm thông
thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
- Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách
tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật,
hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm, chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác
nhau của sự vật. Vì vậy nhận thức thơng thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn
liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế nó có vai trị thường xun
và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội.
- Tri thức kinh nghiệm khoa học là nhận thức được hình thành chủ động, tự giác
của chủ thể nhằm phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật
của đối tượng nghiên cứu.
Nhận thức lý luận: là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản
chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính gián tiếp vì nó
được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức lý luận
có tính trừu tượng và khái qt vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính
quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận thể hiện chân lý sâu sắc hơn,
chính xác hơn và có hệ thống hơn.
1.5.

Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức


Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người
đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Con đường nhận thức đó được thể hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ
thấp đến cao từ cụ thể đến chiều tượng, từ hình thức bên ngồi đến bản chất bên trong,
như sau:
Nhận thức cảm tính: Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu, giai đoạn thấp nhất
của quá trình nhận thức bao gồm:
- Cảm giác: là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng
khi chúng đang tác động trực tiếp vào giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc
8

download by :


của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hóa những năng lượng kích thích từ bên
ngồi thành yếu tố của ý thức.
- Tri giác: là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp
tác động vào các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng
hợp của nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức cao hơn,
đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật.
- Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của trực quan sinh
động. Đó là hình ảnh có tính đặc trưng và tương đối hồn chỉnh cịn lưu lại trong bộ óc
người về sự vật khi sự vật đó khơng cịn trực tiếp tác động vào các giác quan. Biểu
tượng được hình thành nhờ sự phối hợp, bổ sung lẫn cho nhau của các giác quan
nhưng đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp và ít nhiều mang tính trừu
tượng hóa.
 Đặc điểm của nhận thức cảm tính:
- Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.
- Phản ảnh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và
không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.

- Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản
chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn
cao hơn, giai đoạn lý tính.
Nhận thức lý tính (hay cịn được gọi là tư duy trừu tượng): là giai đoạn phản
ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái
niệm, phán đoán, suy luận.
- Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính
bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm khái niệm là kết quả của sự khái quát,
tổng hợp biện chứng của đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các
khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động
qua lại lẫn nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển.
- Phán đốn: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để
khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng.
- Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để
rút ra một phán đốn có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới.
 Đặc điểm của nhận thức lý tính:
- Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.
- Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
Như vậy, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính khơng tách bạch nhau mà ln
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khơng có nhận thức cảm tính thì khơng có nhận
thức lý tính. Khơng có nhận thức lý tính thì khơng nhận thức được bản chất thật sự của
sự vật.
Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Nói
cách khác, thực tiễn có vai trị kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được, thực tiễn là
9

download by :


tiêu chuẩn của chân lý, là cơ sở của động lực, mục đích của nhận thức. Mục đích cuối

cùng của nhận thức khơng chỉ để giải thích thế giới mà để cải tạo thế giới. Do đó, sự
nhận thức ở giai đoạn này có chức năng định hướng thực tiễn.
2. Khái quát chung về thực tiễn
2.1. Khái niệm thực tiễn
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Trong hoạt động của tinh thần nói chung là
hoạt động thực tiễn.
- Triết học tôn giáo: Cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của Thượng đế là hoạt
động thực tiễn.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Cho sự vật, hiện thực, cái cảm giác được chỉ được
nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan.
- Quan niệm của Mác: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất-cảm tính,
có tính lịch sử-xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ
nhân loại tiến bộ.
2.2.

Đặc trưng của hoạt động thực tiễn

Thứ nhất, thực tiễn khơng phải tồn bộ hoạt động của con người mà chỉ là
những hoạt động vật chất-cảm tính, như lời của C.Mác, đó là những hoạt động vật chất
của con người cảm giác được. Nghĩa là con người có thể quan sát trực quan được các
hoạt động vật chất này. Hoạt động vật chất- cảm tính là những hoạt động mà con
người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật
chất để làm biến đổi chúng. Trên cơ sở đó, con người mới làm biến đổi được thế giới
khách quan phục vụ cho mình.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử-xã hội của
con người. Nghĩa là, thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia
của đông đảo người trong xã hội. Trong hoạt động thực tiễn con người truyền lại cho
nhau những kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng vì vậy, hoạt động thực
tiễn ln bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử-xã hội cụ thể. Đồng thời, thực tiễn có
trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể của nó.

Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội
phục vụ con người. Khác với hoạt động có tính bản năng, tự phát của động vật nhằm
thích nghi thụ động với thế giới, con người bằng và thông qua hoạt động thực tiễn,
chủ động tác động cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách
chủ động, tích cực với thế giới. Như vậy, nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính
tự giác cao của con người, khác với hoạt động bản năng thụ động thích nghi của động
vật.
2.3.

Các dạng hoạt động thực tiễn cơ bản

Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau,
nhưng gồm những hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó:
10

download by :


Hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là
những hoạt động sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi
của con người, là hoạt động quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội lồi người,
thơng qua đó con người ngày càng hồn thiện.
Hoạt động chính trị- xã hội, hoạt động cải tạo các quan hệ chính trị- xã hội. Đây
là hoạt động của con người trong các lĩnh vực chính trị- xã hội nhằm cải tạo, biến đổi
xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, hoàn thiện các thiết chế xã hội. Chẳng hạn như
đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh giai cấp, mít tinh, biểu tình ...Đây là hình thức
hoạt động thực tiễn cao nhất.
Hoạt động thực nghiệm khoa học (gồm khoa học tự nhiên và khoa học xã hội).
Đây là hình thức hoạt động thực tiễn đặc biệt vì trong thực nghiệm khoa học, con
người chủ động tạo ra những điều kiện nhân tạo để vận dụng thành tựu KHCN vào

nhận thức và cải tạo thế giới. Vai trị của hình thức hoạt động này ngày càng quan
trọng do sự phát triển của KHCN.
Ba hình thức thực tiễn này có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau. Trong đó, sản xuất vật chất đóng vai trị quan trọng, quyết định hai hình thức
thực tiễn kia. Tuy nhiên, hai hình thức thực tiễn kia là hoạt động chính trị - xã hội, hoạt
động thực nghiệm khoa học có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.
Chương 2: Mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn
Mối liên hệ giữa nhận thức và thực tiễn ra sao? Trước tiên ta cần phải hiểu mối
liên hệ là phạm trù triết học như thế nào? Tính chất của nó ra sao?
Nhận thức và thực tiễn có mối liên hệ mang tính đa dạng, mỗi lĩnh vực khác nhau
của thế giới và biểu hiện những mối liên hệ khác nhau, rất phong phú và nhiều vẻ. Mỗi
loại mối liên hệ khác nhau có vai trị khác nhau đối với sự vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng. Có thể phân chia theo từng cặp như mối liên hệ bên ngoài và bên
trong, chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ gián tiếp và trực tiếp. Sự phân chia này chỉ
mang tính chất tương đối vì mỗi cặp mối liên hệ chỉ là một mắt xích, một bộ phận của
mối liên hệ phổ biến, chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy vào phạm vi bao quát của
mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng.
1. Bản chất của mối quan hệ
Đây là hai phương thức quan hệ khác nhau với thế giới. Kết quả của quan hệ
nhận thức là tái hiện lại đối tượng trong ý thức, là mơ hình nhận thức của đối tượng.
Cịn kết quả của hoạt động thực tiễn là sự cải tạo vật chất đối với đối tượng. Thực tiễn
chỉ có mặt ở nơi có các hình thức hoạt động có đối tượng cảm tính, có sự cải tạo đối
tượng trên thực tế, chứ không phải là trong suy nghĩ. Do vậy hoạt động nhận thức khoa
học, giáo dục, tuyên truyền không phải là thực tiễn. Bản thân khoa học chỉ có khả năng
đem lại bức tranh lý tưởng về thế giới trong những đặc trưng, bản chất của nó. Vấn đề
cũng không thay đổi cả khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp.
Bởi khi đó, bản thân lực lượng sản xuất tồn tại với tư cách là hình thức được đối tượng
11

download by :



hố của khoa học, cịn khoa học vẫn tiếp tục là hình thức hoạt động tinh thần của con
người, là sự phản ánh lý tưởng hiện thực.
2. Tính chất của mối quan hệ
Tính chất của mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn chỉ sự quy
định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các
mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Thực tiễn không thể thiếu nhận thức, tuy nhiên luận điểm đó khơng chứng tỏ sự
đồng nhất của hai hình thức hoạt động khác nhau là nhận thức và thực tiễn.
Thứ nhất, tham gia vào thực tiễn chỉ gồm các kết quả đã đạt được trong q trình
nhận thức trước đó. Các kết quả đó đối với hoạt động nhận thức có giá trị độc lập, cịn
đối với hoạt động thực tiễn thì chỉ là cơ sở lý luận, có giá trị như một mơ hình của
tương lai. Ý thức và sản phẩm của nó (mục đích, mơ hình, lý tưởng) trong trường hợp
này khơng có một giá trị độc lập, nó khơng có nhiệm vụ cải biến đối tượng cảm tính
của tự nhiên hay xã hội.
Thứ hai, đây là một cơ chế (cho dù nó chưa được nghiên cứu đầy đủ) để đưa các
kết quả của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Chính cơ chế này đã chế định một
khuynh hướng nghiên cứu mới – nghiên cứu triển khai. Đây là một lĩnh vực mới mẻ,
địi hỏi chúng ta phải có những nỗ lực to lớn. Song thực tiễn cải tạo xã hội, do quần
chúng tiến hành, đòi hỏi phải hoạch định mục đích, chương trình, phải nhận thức các
nhiệm vụ chiến lược và sách lược. Chính vì vậy khơng thể thiếu nhận thức lý luận,
nhận thức được tiếp biến vào các mục đích, các chương trình phục vụ nhiệm vụ cơ bản
của thực tiễn cải tạo xã hội.
Như vậy giữa nhận thức và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại mối liên hệ không thể
tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm lượng nhận thức nhiều đến đâu thì thực tiễn và
nhận thức vẫn tồn tại với tư cách là hai lĩnh vực độc lập của hoạt động xã hội và bao
giờ cũng là hình ảnh lý tưởng (kết quả của hoạt động nhận thức) cũng đi trước hoạt
động thực tiễn. Nói cách khác hoạt động bao giờ cũng bao gồm hai khâu cơ bản và
mối liên hệ giữa chúng ln mang tính lịch sử - cụ thể - đó là khâu nhận thức (sản xuất

ra tri thức) và khâu thực tiễn (cải tạo hiện thực).
Mối quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức còn được làm sáng tỏ hơn và cụ thể hơn
khi chúng ta xét nó từ quan hệ chủ thể khách thể. Thực tiễn là khâu trung gian cơ bản
giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể ở đây khơng đơn giản là con người có tư duy nhận
thức, con người bằng xương thịt. Chủ thể được thể hiện qua tổng thể các đặc trưng xã
hội của nó, cịn thực tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động lên khách thể. Thực
tiễn có thể nói là hình thức liên hệ thực tại khách quan, nhờ đó mà chủ thể tự đối tượng
hóa bản thân, các ý định và mục đích của mình cho khách thể, phát triển các năng lực
của mình. Như vậy ngồi thực tiễn chủ thể khơng có một phương thức nào để hiện
thực hóa từ bức tranh lý tưởng về thế giới sang hiện thực nó trong thế giới.
Thơng qua quan hệ chủ thể khách thể, thực tiễn thể hiện là phương thức chủ thể
chuyển hóa các ý mệnh mục đích động cơ thành cái vật chất khách thể được cải tạo
12

download by :


phù hợp với mục đích. Trọng tâm ở đây được đặt vào hai mặt của một quá trình thống
nhất: từ cái ý niệm đến cái vật chất. Nếu nhấn mạnh tuyệt đối hóa sự cải tạo vật chất,
thì sự định hướng thực tiễn bởi ý thức sẽ mất dần và do vậy thực tiễn bị biến thành
hành vi máy móc, vơ thức. Cịn nếu tuyệt đối hóa sự chuyển biến cái ý niệm thành cái
vật chất thì khơng thể quan niệm thực tiễn là một quá trình khách quan, như vậy sẽ rơi
vào chủ nghĩa duy tâm.
Từ đó suy ra rằng thực tiễn và nhận thức là tuyệt đối độc lập với nhau. Tính
tương đối của sự độc lập ấy trước hết được quy định bởi điều là: quan hệ nhận thức
của con người với thế giới khách quan bao giờ cũng có thể là quan hệ tuyệt đối với
thực tiễn. Hơn nữa, quan hệ nhận thức luôn phục tùng thực tiễn và phát triển trên cơ sở
cải tạo xã hội.
Song nhận thức thực tiễn và nhận thức vẫn có sự đối lập với nhau. Nhận thức do
thực tiễn chế định và phục vụ thực tiễn, xong chúng có tính độc lập tương đối, mang

những đặc trưng riêng của hoạt động quan hệ giữa thực tiễn và nhận thực là một q
trình mang tính lịch sử xã hội, cụ thể, chúng có quan hệ biện chứng nắm được tính
chất biện chứng của q trình đó là tiền đề quan trọng nhất giúp chúng ta ln có một
lập trường sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa
giáo điều máy móc và bệnh lý luận sng.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn
3.1.

Thực tiễn giữa vai trò quyết định đối với nhận thức

Thực tiễn có vai trị hết sức quan trọng đối với nhận thức, được thể hiện ở chỗ:
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của nhận thức
và tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
3.1.1. Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và
các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động
thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu
cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.
Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực
tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm
cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác
nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp cho con người nhận thức
được các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý
thuyết khoa học.
a. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
Thực tiễn thể hiện vai trò là cơ sở của nhận thức:
Thứ nhất, con người có nhu cầu tất yếu khác quan là giải thích và cải tạo thế
giới, điều này buộc con người phải tác động vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động
13


download by :


thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho sự vật, hiện tượng bộc lộ thuộc tính, tính
chất, quy luật, mối quan hệ khác nhau giữa chúng. Trên cơ sở đó, con người có hiểu
biết về chúng. Như vậy, thực tiễn đã cung cấp “vật liệu, tài liệu” cho nhận thức, giúp
cho nhận thức năm bắt được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới.
Trên cơ sở đó hình thành nên các học thuyết khoa học.
Ví dụ: Trên cơ sở thực tiễn mà con người hình thành các lý thuyết khoa học.
Điều đó được thể hiện rõ thông qua nguồn gốc ra đời của định luật vạn vật hấp dẫn. Từ
hiện tượng, quả táo rơi xuống đất và nhiều thí nghiệm mà Isaac Newton đã khám phá
ra định luật hấp dẫn. Qua nhiều lần thử nghiệm, Newton đã nêu ra: Mọi vật trên trái
đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời
trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; Trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời
đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều
có lực hấp dẫn lẫn nhau, vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái
đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.
Hoặc đơn giản hơn, qua những lần quan sát khi nung nóng thanh sắt thì thanh sắt
chuyển màu vàng rực, từ đó đưa ra kết luận thanh sắt sẽ bị chuyển màu khi bị nung
nóng. Hoặc, sau nhiều lần đun nước sơi kiểm tra bằng nhiệt kế thì con người phát hiện
ra rằng nước sôi ở nhiệt độ 100 độ C.
Thứ hai, thực tiễn cũng là nơi rèn luyện giác quan của con người, từ đó giác
quan của con người ngày càng hoàn thiện hơn. Việc rèn luyện các giác quan là cơ sở
cho chủ thể nhận thức thế giới khách quan hiệu quả hơn, năng lực tư duy logic ngày
càng được phát triển.
Ví dụ: Thơng qua sản xuất, lao động cải tạo thế giới, những cơ quan cảm giác
như thính giác, thị giác hay các giác quan khác của cơ thể được rèn luyện trở nên nhạy
bén hơn với các kích thích đến từ thế giới khách quan.
Thứ ba, thực tiễn cịn là cơ sở tạo ra cơng cụ, máy móc, dụng cụ, các thiết bị
khác nhằm hỗ trợ con người nhân thức hiệu quả hơn. Các phương tiện ngày càng hiện

đại kéo theo nhận thức ngày càng hiện quả và chính xác.
Ví dụ: Kính hiển vi, kính thiên văn, máy siêu âm, máy vi tính đều được sản xuất
chế tạo trong hoạt động sản xuất vật chất – một hình thức cơ bản của thực tiễn. Các
thiết bị này đã hỗ trợ rất nhiều cho các nhà khoa học để nghiên cứu về các hành tinh,
vũ trụ, các ngành khoa học khác nhau. Nhờ những thiết bị hỗ trợ này mà con người đã
nhận thức sự vật, hiện tượng đúng đắn hơn, khái quát lý luận tốt hơn. Trên cơ sở đó
thúc đẩy nhận thức phát triển.
b. Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp
năng lượng nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn
diện và sâu sắc về thế giới.

14

download by :


Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng biến
đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó, con
người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới,
làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Lịch sử đã
chỉ ra rằng, các phát minh khoa học cũng như nhận thức nói chung đều phát sinh từ
thực tiễn ln phát triển của con người, được xác định bởi nhu cầu của thực tiễn sống
cịn của con người.
Ví dụ: Dịch bệnh Ebola xuất hiện đã đặt ra cho các nhà khoa học nhiệm vụ
nghiên cứu tìm kiếm phương thuốc chữa trị đồng thời tìm ra cách thức phịng chống
dịch bệnh lây lan hiệu quả. Nói cách khác, chính thực tiễn là người đưa ra vấn đề cho
nhận thức phải giải quyết và trên cơ sở đó thúc đẩy thức phát triển.
Qua các ví dụ thực tiễn là cơ sở của nhận thức, ta thấy được vai trò của thực tiễn

đối với nhận thức. Từ đó, thấy rằng nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ
sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Do đó,
nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Mặt khác, nếu xa rời
thực tiễn, nhận thức dễ mắc sai lầm, duy ý chí, giáo điều, máy móc.
3.1.2. Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Lý luận mà khơng liên hệ với thực tiễn thì
chỉ là lý luận sng”. Các tri thức khoa học chỉ có giá trị khi nó được vận dụng vào
thực tiễn. Nếu nhận thức khơng vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức, chủ
nghĩa thành tích thì nhận thức sẽ mất phương hướng, thẩm chí phải trả giá. Nhấn mạnh
vai trị này của thực tiễn Lênin đã cho rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải
là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Thực tiễn đóng vai trị là mục đích của nhận thức thể hiện ở chỗ: Nhận thức bị
chi phối bởi nhu cầu vật chất, tinh thần của con người. Do vậy, mục đích cuối cùng
của nhận thức không phải là bản thân tri thức, mà là vận dụng tri thức khoa học vào
thực tiễn để cải tạo hiện thực khách quan, đáp ứng các nhu cầu đó. Những tri thức, kết
quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn (vào sản
xuất vật chất, vào cải tạo chính trị - xã hội, vào thực nghiệm khoa học) phục vụ con
người. Nói cách khác, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá trị của tri thức – kết
quả của nhận thức.
Ví dụ: Nhà bác học Điêzen đã viết giả thuyết về động cơ sử dụng chất thải công
nghiệp làm nhiên liệu và giả thuyết của ông đã được ứng dụng để chế tạo ra các loại
động cơ như hiện nay.
Hay việc nghiên cứu các loại vacxin phịng chống COVID-19 đều xuất phát từ
mục đích ngăn ngừa và bảo vệ con người khỏi virus corona cũng như phát triển nền y
học tiến bộ và tạo nguồn doanh thu từ việc sản xuất vacxin...

15

download by :



Thế giới vật chất luôn luôn vận động và phát triển do vậy nó ln đặt ra những
nhu cầu những nhiệm vụ, những xu hướng trong quá trình nhận thức đã thúc đẩy ra đời
mạnh mẽ, tự nhiên và xã hội ngày nay nhiều môn học mới, ngành học mới ra đời trên
cơ sở nhu cầu cuộc sống của con người (tin học, dân số học, bình đẳng giới, mơi
trường học, hà nội học, Việt Nam học...) đều do thực tiễn con người địi hỏi.
Có thể nói, suy cho cùng, khơng có một lĩnh vực tri thức nào mà lại khơng xuất
phát từ một mục đích nào đó của thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn
thực tiễn. Mục đích của q trình nhận thức khơng chỉ để nhận thức mà để cải tạo hiện
thức khách quan theo nhu cầu lợi ích của con người do vậy thực tiễn vừa là động lực
vừa là mục đích của nhận thức.
3.1.3. Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý
Chân lý: là những tri thức của con người phù hợp với hiện thực khách quan, đã
được thực tiễn kiểm nghiệm.
a. Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý.
Nhờ có thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và sai lầm, tức thực tiễn đóng
vai trị là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối
với nhận thức, nó ln ln vận động, và phát triển trong lịch sử. Nhờ đó là mà thúc
đẩy nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng
không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Nó thường xuyên chịu sự kiểm
nghiệm trực tiếp của thực tiễn.
- Chính thực tiễn có vai trị làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã
đạt được trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa chữa, phát
triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết “vấn đề tìm hiểu tư duy của con người có
thể đạt tới chân lý khách quan hay khơng, hồn tồn khơng phải là vấn đề lý luận mà
là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.
- Nhờ có thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh mà ta xác định đâu là cái hợp quy
luật, đâu là cái tri thức đúng, đâu là sai lầm cũng như cái gì nên làm, cái gì khơng nên
làm, đâu là cái khơng hợp với quy luật mà chân lý chính là cái tri thức đúng, cái hợp

quy luật hay là đúng với quy luật.
- Thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trị
quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà cịn là nơi nhận thức
cịn phải ln ln hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vì thế mà thực
tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức vừa là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Và khi nhấn mạnh điều này thì V.I. Lênin đã viết: “Quan điểm về đời sống và thực tiễn
phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”.
- Chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, độ sâu vào thực
tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, việc nghiên cứu phải liên hệ với thực
tiễn tức là “học phải đi đôi với hành”. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu, khơng xác định được quy luật,
khơng phân biệt được quy luật đó có hợp quy luật hay khơng có là tri thức đúng (chân
16

download by :


lý) hay khơng nhưng nếu tuyệt đối hóa thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh
nghiệm chủ nghĩa nên địi hỏi chúng ta phải có cái nhìn đúng đắn thì mới xác định
được quy luật hợp chân lý.
- Những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm chính là những tri thức đúng, có đúng thời mới phù hợp được với hiện thực
khách quan cịn tri thức sai, sai lầm thì khơng thể phù hợp với hiện thực khách quan
được.
b. Chân lý có tính cụ thể, có đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh
với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Thực tiễn lại có “tính phổ biến” và là “hiện thực trực tiếp” nhờ đó thực tiễn có
thể “vật chất hoá” được tri thức, biến tri thức thành các khách thể vật chất có tính xác
thực cảm tính.

- Mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung nhất định, nội dung đó
ln gắn liền với đối tượng xác định, diễn ra nên bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với
những điều kiện lịch sử cụ thể.
- Việc nắm vững những nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Việc
xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi việc làm phải dựa trên quan điểm lịch
sử cụ thể để vận dụng vào thực tiễn và xác định được rõ chân lý.
- Nhận thức là những tri thức về bản chất quy luật của hiện thực, của thực tiễn,
mà thực tiễn lại còn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức để từ đó giúp con
người hiểu và biết thêm được về các quy luật, đã là quy luật thì khơng thể phủ định
được và sẽ tồn tại và là chân lý.
c. Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối.
Tuyệt đối vì nó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất, tương đối vì bản thân thực
tiễn ln ln biến đổi, phát triển. Sự biến đổi này dẫn đến chỗ tiếp tục bổ sung, phát
triển những tri thức đã có trước đó.
- Chân lý cũng là khách quan, là sự thống nhất giữa hai trình độ, chân lý tuyệt đối
và chân lý tương đối thì điều đó cũng có nghĩa là nhận thức phải trải qua một quá trình
đi từ chưa biết đầy đủ đến biết đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng. Mà thực tiễn là cơ sở
chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm
tra độ chuẩn xác trong kết quả nhận thức. Mà nhận thức là một q trình có tính tích
cực, chủ động và sáng tạo của những hoạt động vật chất có tính mục đích, lịch sử – xã
hội của con người nhằm cải tạo thế giới.
- Một chân lý ln có tính đích thực, xác thực và ln được thực tiễn kiểm
nghiệm bởi chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức con người là tri thức đúng.
- Chính trong thực tiễn mà con người chứng minh được chân lý, nghĩa là chứng
minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy.
Ví dụ: Nhà bác học Ga-li-lê rất coi trọng thí nghiệm, ơng thường dùng thí
nghiệm để chứng minh lập luận của mình.
17


download by :


Một lần nghe người ta dạy cho học sinh: các vật nặng bao giờ cũng rơi nhanh
hơn vật nhẹ. Nhà bác học liền phản đối: làm gì có chuyện vơ lý đấy? Ga-li-lê đã làm
một thí nghiệm thả hai hịn đá nặng, nhẹ khác nhau cùng từ trên một tháp cao xuống.
Kết quả là ông đã phát hiện ra không khí có sức cản. Khi thả rơi những vật trong ống
đã rút hết khơng khí thì quả nhiên tốc độ rơi của các vật nặng, nhẹ là bằng nhau.
Ví dụ trên chứng minh cho thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Bởi chỉ có đem
những tri thức đã thu nhận được qua nhận thức đối chiếu với thực tiễn để kiểm tra,
kiểm nghiệm mới có thể khẳng định được tính đúng đắn.
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng
vai trị quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà cịn là nơi nhận
thức phải ln ln hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình.
3.2.

Nhận thức tác động tích cực trở lại thực tiễn

Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận khoa
học và ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản
khoa học, phản động, lạc hậu. Như Bác Hồ đã khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có
lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù qng. Lý luận mà không liên hệ với thực
tiễn là lý luận sng”.
Vai trị của lý luận đối với thực tiễn thể hiện ở ba khía cạnh sau đây:
3.2.1. Lý luận khái quát kinh nghiệm, chỉ ra quy luật vận động của thực tiễn
Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định, phụ thuộc vào thực tiễn,
nhưng lý luận có tính độc lập tương đối so với thực tiễn. Sinh ra lý luận trước hết là để
khái quát kinh nghiệm thực tiễn, chỉ ra tính bản chất, tính quy luật trong sự vận động,
phát triển của thực tiễn. Do đó lý luận dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn, điều chỉnh hoạt động

thực tiễn đạt kết quả cao. Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con người trở nên
chủ động tự giác, hạn chế tình trạng mị mẫm tự phát. Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết:
“khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Lý luận đem lại cho thực tiễn
những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách
quan, giúp con người xác định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh
được những sai lầm, vấp váp.Với bản chất hoạt động có mục đích và sáng tạo, con
người bằng lý luận khoa học, càng ngày càng cải tạo tự nhiên có hiệu quả hơn, có
quyền năng hơn nhờ nắm bắt được bản chất, quy luật vận động của thế giới khách
quan. Một ví dụ cụ thể về vai trị này của lý luận đối với thực tiễn trong giai đoạn lịch
sử của nước ta trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1987): Hợp tác xã hóa ở miền Bắc bắt
đầu thực hiện từ những năm 1958 đến năm 1960 cơ bản hoàn thành. Qua một thời gian
tiến hành trên thực tế, chúng ta đã khái quát được những kinh nghiệm cho thấy làm ăn
tập thể ưu việt hơn làm ăn cá thể, kinh tế cá thể tự phát dẫn đến sự phân hóa giàu
nghèo, phân chia giai cấp. Làm ăn tập thể sẽ tạo ra sức mạnh, giải quyết được những
vấn đề kinh tế xã hội của cộng đồng nông thôn. Chính từ điều này đã chỉ ra được một
quy luật vận động của thực tiễn thể hiện qua tinh thần đoàn kết – một sức mạnh to lớn
mà bất cứ dân tộc nào, quốc gia nào cũng cần phải có trong mọi hoạt động xây dựng
18

download by :


và phát triển đất nước. Và đối với tình hình thực tiễn của nước ta lúc bấy giờ, chính
nhờ lao động tập thể và sử dụng tập trung các nguồn lực đồn kết dân tộc nên nhiều
cơng trình thủy lợi, giao thông, trường học được xây dựng, đồng ruộng được kiến
thiết,… làm cho bộ mặt miền Bắc có những thay đổi đáng kể trong giai đoạn đó.
3.2.2. Lý luận dự báo, định hướng cho hoạt động thực tiễn.
Lý luận khoa học giúp con người nắm bắt quy luật vận động của thực tiễn. Nắm
quy luật thực chất là nắm các mối quan hệ bản chất, tất yếu, quyết định chiều hướng
vận động, phát triển của thực tiễn. Do vậy, lý luận có khả năng dự báo được sự vận

động, phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng trong tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển.
Con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng tận bằng những phương
tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không
đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu không thể lường trước được trong thực
tiễn. Vì thế, chức năng dự báo tương lai là chức năng quan trọng của lý luận. Cùng với
đó, lý luận khoa học cịn có khả năng dự báo những rủi ro, khó khăn, thách thức có thể
xảy ra trên con đường vận động, phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học soi đường,
dẫn dắt cho sự phát triển của thực tiễn, giúp con người tự giác, giảm thiểu sự mò mẫm
tự phát trong hoạt động thực tiễn. Tất cả những dự báo trên giúp con người chủ động
trong định hướng mục tiêu phát triển, xây dựng bản lĩnh, chủ động, vững vàng, kiên
định, “không lạc quan thái quá”, không bi quan dao động trên con đường đi tới tương
lai mà lý luận khoa học đã chỉ ra.Tiếp tục gắn với tiến trình lịch sử của nước ta, vai trò
này của lý luận được thể hiện: Trong giai đoạn trước trong quá trình phát triển kinh tế
ở nước ta, mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã dần bộc lộ những điểm hạn chế,
khuyết điểm. Lý luận về cơ chế này đã chỉ ra rõ những nhược điểm của nó, đặc biệt từ
sau năm 1975 khi đất nước thống nhất, cả nước tập trung vào việc xây dựng và phát
triển kinh tế. Cụ thể các khuyết điểm đó:
-Thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật;
-Triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, khơng kích thích tính năng
động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh;+ Làm cho đội ngũ cán bộ công
chức các cơ quan hành chính nhà nước trở lên quan liêu, lộng quyền, hách dịch…Tất
cả những lý luận trên đã dự báo trước sự khơng phù hợp của mơ hình kinh tế này trong
tiến trình phát triển của Việt Nam nói riêng cùng với sự phát triển kinh tế trên tồn thế
giới nói chung. Nếu như trước đây, mơ hình này khá phù hợp khi gắn với hoàn cảnh
lịch sử cách mạng kháng chiến của nước ta với quyết tâm tất cả cho tiền tuyến, cho
thống nhất đất nước thì sau đó, từ năm 1975, khi mà miền Nam hồn tồn giải phóng,
đất nước thống nhất, cả dân tộc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, điều kiện thực
tiễn có nhiều sự thay đổi, mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung dần bộc lộ những
mâu thuẫn, khiến cho nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng ngày càng trầm

trọng. Một định hướng mới cho hoạt động thực tiễn đặt ra đối với Đảng và Nhà nước
ta lúc đó phải thay đổi đường lối phát triển kinh tế- xã hội. Và từ chính những lý luận
này đã định hướng cho thực tiễn nền kinh tế nước ta phải dần chuyển sang một nền
kinh tế mới phù hợp hơn – nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (bắt đầu
từ cuối những năm 1986).
19

download by :


3.2.3. Lý luận giáo dục, liên kết, tập hợp lực lượng, chỉ đạo và cải tạo thực tiễn.
Lý luận không chỉ là sự giải thích thế giới, điều quan trọng hơn là cải tạo thế
giới, phục vụ cho cuộc sống của con người. Lý luận không chỉ mở rộng khả năng nhìn
thấy trước, dự báo tương lai, mà lý luận khoa học còn bao hàm cả ý nghĩa tự giác hình
thành cái tương lai đó. Lý luận có vai trị giáo dục, tuyên truyền giác ngộ mục tiêu, lý
tưởng, xác định phương pháp, biện pháp thực hiện, liên kết, tập hợp lực lượng tạo
thành sức mạnh to lớn cải tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của các cá nhân và xã
hội. Lênin khẳng định: “khơng có lý luận cách mạng thì khơng thể có phong trào cách
mạng”. Lý luận cách mạng có vai trị to lớn trong việc giáo dục, thuyết phục, động
viên, tổ chức, tập hợp quần chúng khi đã thâm nhập vào quần chúng trở thành lực
lượng vật chất to lớn, cải tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của con người và xã hội.
Tiếp tục từ những đòi hỏi của đất nước cần phải thay đổi định hướng phát triển kinh tế
- xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã tổng kết lại kinh nghiệm và tiếp tục nghiên cứu đưa
ra để thực hiện một số vấn đề có tính lý luận về nền kinh tế thị trường như sau:
- Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần;
- Giữ vững và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản;
- Giải quyết các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội,
thực tiễn công bằng xã hội.

Với những lý luận này, các vấn đề đặt ra đối với thực tiễn dần được hình thành
và cần phải được thực hiện. Để có thể tiến tới xây dựng hoàn chỉnh một nền kinh tế thị
trường ở nước ta, vấn đề đầu tiên được đặt ra cho thực tiễn là chúng ta cần phải có
những biện pháp, những cách giáo dục để tồn dân hiểu một cách thấu đáo về đặc
trưng cơ bản, nắm được bản chất của nền kinh tế này. Tiếp đó, mọi lực lượng, tầng lớp
trong xã hội cần phải liên kết lại, tập hợp các kinh tế cá thể, tiểu thủ công, kinh tế tế tư
bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức khác nhau. Mọi thành phần
kinh tế đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật. Giữ vững vai trò chỉ đạo
của Đảng, cùng với thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc pháp luật của Nhà nước để
tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa các chính sách, cơ chế nhằm kiên trì xây dựng nên một
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
và cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng trong nền kinh tế. Từ đó, có thể thấy
được vai trị của lý luận trong việc giáo dục, liên kết, tập hợp lực lượng, chỉ đạo với
mục tiêu cải tiến tình hình kinh tế thựctiễn của nước ta theo hướng từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với xu thế chung của các quốc gia phát triển trên toàn thế giới. Do tính gián tiếp, tính
trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn trở
thành ảo tưởng. Khả năng ấy càng tăng lên nếu lý luận đó lại bị chi phối bởi những tư
tưởng khơng khoa học hoặc phản động. Một ví dụ thực tiễn có thể cho thấy rõ điều này
đó là trong quá trình cải tạo, xây dựng xã hội mới, đôi lúc chúng ta mắc phải những sai
lầm, đôi khi rơi vào chủ quan duy ý chí, rơi vào bệnh giáo điều, đề cao lý luận hay lý
luận không bám sát thực tiễn hoặc nóng vội đốt cháy giai đoạn một cách thiếu biện
chứng. Điều này đã làm cho nước ta có một giai đoạn nền kinh tế bị trì trệ, chậm phát
triển, đời sống khó khăn, nhất là từ sau năm 1975 đến trước Đại hội đại biểu Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986. Hay như sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn
20

download by :



đến sự khủng hoảng về lý luận của chủ nghĩa xã hội trong thời gian trước đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội nói chung,
biểu hiện cụ thể nhất đó chính là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ và Đơng u.
Vì vậy, phải coi trọng lý luận, nhưng khơng được cường điệu hóa vai trị của lý luận
mà coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là phải
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong lý luận khoa học và
hoạt động cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù qng. Lý luận mà khơng có liên hệ với thực
tiễn là lý luận suông”. Chung quy lại, giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện
chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Từ việc phân tích cụ thể ba vai trò của lý luận đối
với thực tiễn dựa trên thực tế phát triển của nền kinh tế nước ta qua từng giai đoạn,
cuối cùng chúng ta có thể thấy được sâu sắc hơn vai trò của lý luận thể hiện trong thực
tế như hiện nay. Cụ thể: những sự điều chỉnh mang tính chiến lược trong nền kinh tế
đã làm cho quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp hơn với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, mọi tiềm lực kinh tế được phát huy. Sau gần 30 năm kể từ khi
bước nào thực hiện mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh
tế của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu, tình hình đất nước thay đổi một cách rõ rệt.
Kinh tế đã thoát ra khỏi khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả
hơn, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, đất nước chẳng những giữ vững được
ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi
lên. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người năm sau đều cao hơn so với năm
trước. Tính trong 6 tháng đầu năm 2015, tổng GDP ước tính tăng 6,28% so với cùng
kỳ năm 2014. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường; các ngành dịch vụ, xuất nhập
khẩu phát triển; quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở
rộng… Vai trò của lý luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai đoạn ngày
nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay go, phức tạp, cùng với
sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Ph.
Ăngghen đã chỉ ra rằng: “một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao khoa học thì khơng thể
khơng có tư duy lý luận”.

3.3.

Kết luận về mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn
- Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:

+Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức, là nguồn gốc sinh ra ý thức.
+Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người, là hình ảnh của thế giới
khách quan. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức quyết định nội dung của ý
thức.
- Ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại vật chất
+Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất có tính năng động sáng tạo nên
có thể tác động trở lại vật chất góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt
động thực tiễn của con người.
+Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động
thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo lại thế giới vật chất.
21

download by :


+Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan ở mức độ nhất định có thể
kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người
+Con người dựa trên những tri thức của mình về thế giới khách quan, hiểu biết
những quy luật khách quan từ đó đề ra những mục tiêu phương hướng, biện pháp thực
hiện và ý chí thực hiện mục tiêu ấy.
+Vai trị tích cực chủ động sáng tạo của ý thức con người trong quá trình cải tạo
thế giới hiện thực được phát triển đến mức độ nào chăng nữa vẫn phải dựa trên sự
phản ánh thế giới khách quan và điều kiện khách quan.

Chương 3: Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng vào thực tiễn đời sống xã
hội
1. Ý nghĩa phương pháp luận
- Hoạt động nhận thức trên cơ sở thực tiễn, vì thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn mô
tả khái quát bức tranh sinh động. Không được đề cao quá thực tiễn hoặc tri thức lý
luận. Nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người. Có thể kể đến
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chính sách của
địa phương của ngành chỉ đúng đắn, phù hợp khi nó đáp ứng được nhu cầu của thực
tiễn, phù hợp với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn của địa phương, của ngành và đất
nước.

- Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận. Phải luôn tôn
trọng thực tiễn, căn cứ vào thực tiễn để kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức lý luận
cũng như đường lối, chủ trương, chính sách…Một đường lối, chủ trương đúng đắn hay
sai lầm chỉ có thể nhận biết qua thực tiễn, vận dụng vào thực tiễn.
-Phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý
luận cũng như chủ trương, chính sách, đường lối. Đổi mới nhận thức lý luận và công
tác lý luận là 1 quá trình phức tạp, địi hỏi phải đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của
những quan niệm lí luận cũ. Đồng thời, đấu tranh với những tư tưởng, quan niệm cực
đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ định sạch mọi giá
trị, mọi thành tựu của CNXH. Khơng nên biến các ngun lí lí luận thành giáo điều
khơ cứng máy móc, điều cơ bản là rút ra từ đó những giá trị về phương pháp luận. Căn
cứ để xây dựng và phát triển lý luận chính là thực tiễn, phải tìm trong thực tiễn và
thường xuyên tổng kết thực tiễn. Để tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới tư duy nói
chung, đổi mới tư duy lý luận, cơng tác lý luận nói riêng, cần tạo bầu khơng khí dân
chủ trong xã hội, trong tập thể, tôn trọng sự thật, tôn trọng chân lý, tạo hệ thống thơng
tin chính xác; tự phê bình và phê bình được tiến hành một cách thường xuyên và
nghiêm túc…Cùng với những điều kiện nêu trên, việc bám sát những vấn đề thực tiễn,
hướng vào thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn…là cái bảo đảm thành công cho đổi mới
lý luận và đổi mới công tác lý luận.

22

download by :


Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh
nghiệm (là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực tiễn,
đề cao vốn kinh nghiệm bản thân, coi thường, hạ thấp lý luận, khơng chịu nâng cao
trình độ lý luận) và bệnh giáo điều (khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối
hóa lý luận, cường điệu vai trị của lí luận, coi thường và hạ thấp kinh nghiệm thực
tiễn; hoặc vận dụng kinh nghiệm của người khác, ngành khác, địa phương khác, nước
khác một cách rập khn máy móc, khơng tính đến điều kiện thực tiễn cụ thể của
mình).
2. Liên hệ một lĩnh vực trong đời sống xã hội
Nhận thức và thực tiễn là hai phạm trù khác biệt nhưng lại có mối liên kết, gắn
bó khơng thể tách rời, nó thống nhất trong mọi lĩnh vực của đời sống. Đặc biệt với sự
phát triển không ngừng nghỉ của kinh tế-xã hội, nhận thức và thực tiễn càng trở nên
thống nhất hơn với lĩnh vực giáo dục. Việc học tập, rèn luyện và tiếp thu tri thức đã trở
thành điều kiện tiên quyết giúp mỗi cá nhân có thể bắt kịp với sự phát triển của tồn
cầu. Do đó, xã hội đặt ra cho nền giáo dục ngày càng khắt khe, địi hỏi khơng chỉ đào
tạo ra nguồn nhân lực thơng thạo về lý thuyết mà còn phải biết vận dụng, ứng dụng
những kiến thức đó vào thực tiễn đời sống. Chính vì thế, việc đổi mới tư duy giáo dục
trong thời đại tri thức nhằm đáp ứng sự thay đổi của cuộc sống phát triển không ngừng
là một điều tất yếu.
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã nghiên cứu sâu sắc truyền thống văn hóa dân
tộc, học tập những tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt nghiên cứu thực tiễn phương
pháp dạy và học ở trong và ngoài nước, đúc kết thành những vấn đề lí luận cơ bản cho
nền giáo dục Việt Nam. Từ đó vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, giúp nền giáo dục Việt Nam ngày càng tiến bộ,
hiệu quả và thành công, khẳng định sự vận dụng biện chứng giữa nhận thức và thực

tiễn của nước ta.
Tuy nhiên, nền giáo dục Việt Nam trong thời kỳ trước mắc phải những lệch lạc,
sai lầm, cịn hàn lâm và thụ động, chưa có tính sáng tạo cũng như chưa thể củng cố vai
trò của giáo viên và năng lực học sinh. Đôi khi chủ quan duy ý chí, rơi vào bệnh giáo
điều, đề cao lý luận; lý luận không bám sát thực tiễn hoặc rập khn máy móc, giáo
điều trong q trình dạy và học tập hoặc nóng vội đốt cháy giai đoạn một cách thiếu
biện chứng. Cụ thể, hầu hết các bài giảng trên lớp đều thực hiện theo hình thức “một
chiều”, nghĩa là chỉ có sự truyền đạt từ giáo viên nhưng chưa có sự phản biện hay
tranh luận ngược lại từ phía học sinh. Các bài giảng dù được chuẩn bị một cách kỹ
lưỡng và đầy đủ nhưng cũng chưa thể đạt hiệu quả một cách tối ưu nhất. Không những
vậy, việc lắng nghe một cách thụ động những tri thức mà giáo viên truyền tải khiến
việc học tập của học sinh bị ảnh hưởng vơ cùng lớn. Ví dụ như việc học ngôn ngữ, học
sinh chỉ được dạy các mẫu ngữ pháp, ý nghĩa từ vựng,... mà không vận dụng được
những mẫu ngữ pháp đó vào thực tiễn đời sống như giao tiếp, soạn thảo văn bản... Khi
kiến thức đến một cách thiếu chủ động thì những gì cịn đọng lại sau một bài giảng là
những tri thức trên giấy mà học sinh khó có thể vận dụng và nhớ sâu được. Đó là điểm
trừ mà khơng nền giáo dục nào muốn nó hiện hữu trong bộ máy của mình. Mặt khác,
các bài giảng truyền thống với lượng lý thuyết dày đặc, thiếu hình ảnh, màu sắc và âm
thanh cũng là một rào cản trong việc truyền đạt kiến thức tới học sinh. Chính sự thiếu
23

download by :


sót này đã tạo nên một khơng gian học tập vô cùng tẻ nhạt, làm mất đi sự hứng thú cho
cả giáo viên và học sinh trong việc dạy và học. Khơng chỉ có vậy, ở một khía cạnh
khác, vì cảm thấy khó khăn trong việc thu nạp kiến thức, tri thức đến rồi đi một cách
nhanh chóng bởi cách giảng dạy thụ động kia, mà rất nhiều học sinh chọn cách “học
tủ” làm phương pháp để “qua môn”. Thực tế rằng, học tập là cả một quá trình tiếp thu
và tích lũy kiến thức nhưng trước mỗi kì thi, học sinh phổ thơng ln phải đối mặt với

tình trạng “thiếu kiến thức”. Học sinh không chủ động tham gia vào bài giảng cùng
giáo viên nên vấn đề lỗ hổng kiến thức cũng khơng khó để giải thích. Nền giáo dục
trước khi có sự đổi mới tư duy đã vơ tình trang bị cho học sinh một tâm thế rằng: Kiến
thức từ bài giảng là ln đúng, học sinh vì thế không cần sử dụng năng lực và tư duy
sáng tạo của mình để đề xuất những phương án tối ưu hơn, cũng như khả năng làm
việc nhóm và phong thái tự tin để giải quyết vấn đề. Chính điều đó đã kìm hãm sự phát
triển tự nhiên của học sinh nói riêng và thế hệ trẻ nói chung.
Có khơng ít người quá đề cao lý luận, xem nhẹ thực tiễn, sa vào chủ nghĩa kinh
nghiệm, tự mãn, thiếu sáng tạo, chậm bắt nhịp cuộc sống và xu thế vận hành, phát triển
chung của thời đại, đẩy đất nước đến nguy cơ tụt hậu. Để khắc phục bệnh kinh nghiệm
và giáo điều cần phải coi trọng cả lý luận lẫn thực tiễn, đồng thời phải tăng cường
nâng cao trình độ lý luận, trình độ hiểu biết, khả năng nắm bắt và tổng kết hoạt động
thực tiễn. Chính vì thế, một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục
là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền
giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng
tạo của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát
huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác
làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách phương
pháp dạy học ở chương trình phổ thơng. Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện
bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của
người học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học
theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện
kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi
mới quan hệ giáo viên - học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm
phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ
của các môn học chuyên môn, cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp liên mơn nhằm
phát triển năng lực giúp cho người học nắm nhanh và nắm chắc những tri thức lý
thuyết và vận dụng nó để giải quyết những tình huống khác nhau. Và thực tế chứng
minh rằng nhiều trường bậc giáo dục phổ thông hiện nay ở nước ta đã vận dụng được
phương pháp đổi mới này. Nhờ có những sự tiếp cận ấy mà học sinh phần nào trở nên

mạnh dạn hơn, tự tin hơn, đồng thời những người giáo viên cũng cảm thấy hài lịng
với học sinh của mình bởi cách các em phối hợp với bài giảng của họ một cách tự
nhiên, chủ động, khơng hề gượng ép hay mang tính bắt buộc. Phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách
giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thơng tin...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất
linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy là những mục đích cốt lõi của việc đổi mới tư
duy trong lĩnh vực dạy và học này. Cùng với đó, trong thời đại 4.0 hiện nay, việc tích
hợp giảng dạy bằng phương pháp truyền thống và phương thức lồng ghép trang thiết bị
và ứng dụng công nghệ cũng được nhiều giáo viên áp dụng và mang lại kết quả tích
cực cho cả người học và người dạy. Một “không gian mở” được tạo dựng trong khn
viên trường học khi có sự tương tác giữa các thành viên trong lớp bao gồm cả giáo
24

download by :


viên là cách thức hiệu quả để phát huy tính sáng tạo và chủ động của người học. Suy
cho cùng, đổi mới tư duy, nhận thức để đổi mới phương thức dạy và học đều hướng
đến mục tiêu là mang lại cơ hội phát triển toàn diện cho học sinh – là tương lai của Đất
nước.
Tuy nhiên, việc đổi mới phương pháp dạy học địi hỏi những điều kiện thích hợp
về phương tiện, cơ sở vật chất, tổ chức dạy học, tổ chức, quản lý. Đồng thời, phương
pháp dạy học cịn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình
cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh
nghiệm của cá nhân. Học sinh cũng cần ý thức được vai trị của mình với tương lai của
đất nước để có thể chủ động lĩnh hội những đổi mới tư duy trong giáo dục phổ thơng.
Nói tóm lại, Việt Nam đang dần áp dụng bài học đổi mới vào lĩnh vực giáo dục nên
không thể tránh khỏi những hạn chế mà cần thời gian để thay đổi, để có thể tiến gần
hơn với nền giáo dục hiện đại, tiên tiến, cũng như song hành với việc phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.

Thực tế cho thấy, hiện nay chất lượng giáo dục nước ta đang được các tổ chức
quốc tế đánh giá cao. Việt Nam hiện được xếp vào top 10 hệ thống giáo dục đổi mới
hàng đầu của thế giới, theo báo cáo “Tăng trưởng thông minh hơn: Học tập và Phát
triển công bằng ở Đông Á – Thái Bình Dương” năm 2018 của Ngân hàng Thế giới.
Tính đến cuối năm 2020, 7 trường đại học được công nhận bởi tổ chức đánh giá, kiểm
định quốc tế (HCERES, AUN-QA). 195 chương trình đào tạo của 32 trường được
đánh giá, công nhận theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Năm 2018, lần đầu tiên trong
lịch sử, hai đại học của Việt Nam, là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia
TPHCM, lọt vào danh sách 1.000 trường hàng đầu thế giới của Tổ chức Quacquarelli
Symonds (Anh). Mặt khác, tự chủ đại học đã tạo nên đột phá khi nhiều ngành, lĩnh vực
đào tạo đứng trong top 500 thế giới. Việt Nam cũng đứng thứ 49 thế giới về số lượng
báo khoa học công bố trên các ấn phẩm quốc tế có uy tín.
Đây là minh chứng rõ nét cho việc vận dụng quan điểm về mối quan hệ biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác-Lênin để nhanh chóng đổi mới nền
giáo dục nước nhà, nâng cao chất lượng dạy học và bắt kịp với các nước khác trên thế
giới. Vì thế, chúng ta có căn cứ để mong chờ một nền giáo dục mới ưu việt, tốt hơn
kiểu giáo dục cũ trong tương lai.
Phần III. Kết luận
Ra đời từ những năm 40 của thế kỷ thứ 19, cho đến nay những ngun lý lí luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn cịn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn của nó. Và có
thể nói rằng, mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mác xít nói riêng.
Một lần nữa tìm hiểu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, làm rõ mối
quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn, đặc biệt là vai trò của nhân tố thực tiễn đối với
quá trình nhận thức sẽ giúp cho chúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn
những nguyên lý cơ bản của triết học mác xít. Qua đó nhằm củng cố lịng tin, mài sắc
tư duy lí luận, đóng góp vào q trình tổng kết, phát triển lý luận trong cơng cuộc đổi
mới của đất nước, có ý nghĩa lớn lao đối với đời sống và sự phát triển của xã hội.
25


download by :


×