Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.3 KB, 81 trang )






LUẬN VĂN:

Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
trường trung học phổ thông ngoài công lập








Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm về sự nghiệp giáo dục. Người chỉ ra
rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam
phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham
gia vào công cuộc xây dựng nước nhà mà trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”
[20, tr.3]. Người cũng chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cảnh yếu hèn đó là con đường
phát triển giáo dục: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong thư gửi học sinh nhân ngày
khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (tháng 9/1945), Bác đã viết: “Non sông Việt
Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của
các cháu” [18, tr.33]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thể hiện qua câu nói bất hủ của
Người: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Tư tưởng xuyên


suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác giáo dục luôn toả sáng tính cách mạng, tính
nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Cả cuộc đời cách mạng, Người chỉ có một ham muốn, ham
muốn tột bậc là: “Làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [20, tr.161].
Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chủ Tịch, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách và biện pháp phát triển nền giáo dục của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Hệ thống mạng lưới trường lớp đã được phủ kín khắp các bản làng, thôn xóm trong cả
nước để thực hiện mục tiêu xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục tiểu
học đúng độ tuổi, tiến tới phổ cập trung học cơ sở, phổ cập trung học phổ thông Vấn đề
phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã và đang được toàn xã hội quan tâm. Đảng và
Nhà nước ta đang tập trung và ưu tiên hơn trong việc đầu tư đối với các vùng khó khăn và
đã thu được một số kết quả, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta trong giáo dục.
Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu tổng
quát của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001- 2010 là đưa đất nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân,
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại “con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút


ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước
nhảy vọt ”. Để đạt được các mục tiêu nói trên, giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ có vai trò quyết định, là nhu cầu bức thiết của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là phát triển kinh tế đi đôi với thúc
đẩy tiến bộ xã hội. Ngay từ đầu thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đổi mới tư
duy và cách làm giáo dục, đề ra những chủ trương chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc dân
từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Từ quan điểm, đường lối của Đảng về giáo dục và đào tạo, Nhà nước ta đã
thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tổ chức thực hiện trong thực tế: Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi năm 2001): "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội

phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài " (Điều
35); Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua vào tháng 12/1998 (Sửa đổi, bổ sung năm
2005); Nghị định số 43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục; Nghị quyết số 40/2000/QH10 về đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông và Nghị quyết 41/2000/QH10 về thực hiện phổ cập giáo
dục trung học cơ sở của Quốc hội khóa X thông qua ngày 09/12/2000
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 xác định mục tiêu, giải pháp và các bước
đi theo phương châm đa dạng hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, xây dựng một nền
giáo dục có tính chất thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng,
đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới,
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện mục
tiêu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010.
Nhằm thực hiện chủ trương của Đảng cũng như mục tiêu của Nhà nước, nhiều loại
hình giáo dục đã được mở ra, trong đó có giáo dục ngoài công lập. Phát triển giáo dục ngoài
công lập là đũi hỏi khỏch quan của cuộc sống, có cơ sở lý luận và thực tiễn. Trong hoàn
cảnh đất nước cũn nhiều khú khăn, ngân sách của nhà nước chưa đủ để đầu tư lớn hơn cho
giáo dục, thỡ việc huy động rộng rói cỏc nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục là một
đũi hỏi tất yếu. Điều này đó được khẳng định trong các văn bản pháp quy và càng ngày càng
được thể chế hoá một cách chặt chẽ, đồng bộ. Trong quá trỡnh triển khai, cỏc chớnh sỏch
của trung ương cũng như của địa phương về các trường ngoài công lập đó ngày càng hoàn


thiện theo hướng có lợi cho các nhà đầu tư, phù hợp với yêu cầu của người học. Điều đó đó
tạo điều kiện cho các trường ngoài công lập gần đây phát triển cả về chất lượng và số lượng.
Nhỡn một cách bao quát, càng ngày giáo dục ngoài công lập nói chung và các trường
ngoài công lập ở trung học phổ thông nói riêng càng đạt được nhiều thành tựu to lớn và có
vai trũ quan trọng hơn trong sự nghiệp phát triển giáo dục của đất nước, đặc biệt là góp
phần thúc đẩy tiến độ phổ cập giáo dục trung học, đáp ứng được nhu cầu học tập rộng rói
của học sinh.
Bên cạnh nhiều thành tựu đó đạt được, đến nay, các trường trung học phổ thông

ngoài công lập cũng bộc lộ khá rừ những mặt hạn chế, cần phải được nhanh chóng khắc
phục. Chẳng hạn như mạng lưới các trường ngoài cụng lập phõn bố bất hợp lý, cơ sở vật
chất thiếu thốn, đội ngũ giáo viên và cỏn bộ quản lý vừa thiếu vừa cũn nhiều bất cập, việc
huy động và sử dụng các nguồn lực chưa khoa học, chưa mang lại hiệu quả mong
muốn…Đặc biệt là việc quản lý, chỉ đạo loại hỡnh trường này từ trung ương tới địa phương
nhỡn chung cũn lỏng lẻo và cú nhiều hạn chế, khiến cho chất lượng đào tạo của loại hỡnh
trường này chưa cao, nhà trường phát triển thiếu bền vững, thậm chí vận hành có phần
phiến diện. ở một số địa phương, nhất là ở một số thành phố lớn đó những trường phát sinh
mâu thuẫn, tiêu cực đến mức buộc phải giải thể.
Thực tế gần hai chục năm qua cho thấy, chủ trương xó hội hoỏ giỏo dục của Đảng và
Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn ở cả phương diện lý luận và thực tiễn. Điều đó có nghĩa là
trong tương lai sẽ có nhiều trường ngoài công lập nói chung, trung học phổ thông ngoài
công lập nói riêng tiếp tục được ra đời. Nhưng để loại hỡnh trường ngoài công lập có thể
phát triển theo chiều hướng lành mạnh, chất lượng đào tạo ngày một nâng cao thỡ khụng thể
khụng cú sự nghiờn cứu đầy đủ về quản lý nhà nước đối với loại hỡnh trường này, để từ đó
đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các trường trung học
phổ thông ngoài công lập.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đó lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập” làm đề tài luận văn cao học
Quản lý Hành chính công.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài, đó có nhiều công trỡnh nghiên cứu khoa học được công bố ở


trong nước như:
- Trường tư và trường ngoài công lập ở các nước phát triển phương Tây - Nguyễn
Thị Hiền, tạp chí Thông tin giáo dục, số 64, năm 1997. Tác giả đó khái quát sự khác biệt
giữa trường công lập cũng như chính sách phát triển các trường tư ở một số nước phát triển
như: Anh, Pháp, Đức ;
- Một số vấn đề cấp bách trong công tác tổ chức quản lí các trường phổ thông dân

lập - Nguyễn Văn Đản, Thông tin khoa học giáo dục, số 67, năm 1998. Bài báo nêu lên
những hạn chế trong công tác quản lý các trường phổ thông ngoài dân như: sự quan tâm
chưa đúng mức của các cơ quan quản lý, hệ thống văn bản pháp luật cho các trường này cũn
thiếu, chưa rừ, sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền cũn lỏng lẻo ; những
khó khăn của các trường phổ thông dân lập về đất đai, tài chính, đối tượng tuyển sinh, chất
lượng giáo viên Trên cơ sở đó, bài báo đó nêu ra một số vấn đề cần thực hiện như: cần có
những quy định cụ thể về trường phổ thông dân lập, có cơ chế cụ thể về đất đai, tài chính
cho trường phổ thông ngoài dân lập, tăng cường công tác kiểm tra đối với giáo dục phổ
thông ngoài dân lập ;
- Các giải pháp cải tiến cơ chế quản lý trường trung học phổ thông dân lập thành
phố Hải Phũng - Nguyễn Thị Mai, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành "Quản lý và tổ chức
công tác văn hóa giáo dục", Mó số: 5.07.03. Năm 2000. Luận văn đó đánh giá thực trạng cơ
chế quản lý trường trung học phổ thông dân lập tại Hải Phũng, đề xuất các giải pháp cải tiến
cơ chế quản lý các trường trung học phổ thông dân lập ở Hải Phũng như: tiếp tục hoàn thiện
văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục phổ thông dân lập, đẩy mạnh phân cấp quản lý,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý ở Hải Phũng ;
- Những cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng qui chế trường phổ thông ngoài công
lập, Đề tài cấp Bộ, mó số B 97- 49- 40 - TS. Nguyễn Văn Đản (Viện Khoa học giáo dục)
làm chủ nhiệm, năm 2001. Nhóm nghiên cứu đề tài đó chỉ ra những cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc xây dựng quy chế trường phổ thông ngoài công lập như: xuất phát từ quan
điểm, đường lối của Đảng về giáo dục và xó hội hóa giáo dục, vai trũ của sự tham gia xó hội
vào công tác giáo dục, thực trạng tổ chức và hoạt động của các trường phổ thông ngoài công
lập những năm trước 2000 để làm căn cứ xây dựng quy chế trường phổ thông ngoài dân
lập;
- Giáo dục phổ thông ngoài công lập thành tựu và tồn tại - Phạm Quang Sáng, tạp


chí Thông tin giáo dục số 114/2005. Tác giả đó nêu lên những thành tựu của giáo dục phổ
thông ngoài công lập như: sự phát triển mạnh về số lượng, sự thu hút vốn đầu tư của xó hội
vào lĩnh vực giáo dục, tạo ra sự cạnh tranh giữa khu vực công và khu vực tư trong giáo dục,

nhiều cơ sở giáo dục phổ thông ngoài dân lập đó tạo được vị trí vững chắc trong xó hội, có
chất lượng đào tạo tốt. Bên cạnh đó, tác giả cũng đó chỉ ra những hạn chế như: nhiều trường
có sở vật chất cũn nghèo nàn; đội ngũ giáo viên cơ hữu cũn thiếu; chất lượng giáo dục chưa
cao; thực hiện quy chế chưa nghiêm ;
- Thực trạng và giải pháp củng cố, phát triển các trường ngoài công lập ngành học
mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010 - Đề tài
khoa học cấp thành phố năm 2006. Nội dung đề tài đó phân tích, đánh giá thực trạng các
trường ngoài công lập ngành học mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn
Hà Nội từ khi đổi mới đến 2004 và đề xuất các giải pháp củng cố, phát triển chúng. Về thực
trạng, đề tài đó nêu ra những kết quả đạt được của các trường ngoài công lập ngành học
mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội như: Sự phát triển về số
lượng các trường, số học sinh; sự phát triển về cơ sở vật chất, đổi mới nội dung, phương
pháp giáo dục; bên cạnh đó, đề tài chỉ ra những yếu kém như: năng lực quản lý của Hội
đồng quản trị, Hiệu trưởng, sự thiếu hụt của đội ngũ giảng viên cơ hữu; chất lượng giáo dục;
bất cập trong quản lý nhà nước đối với các trường ngoài công lập ngành học mầm non, phổ
thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở đó, đề tài đó đề xuất một
loạt các giải pháp để củng cố, phát triển chúng: Thành phố có chính sách cụ thể để tạo kiện
thuận lợi trong việc các trường thuê đất; đảm bảo sự bỡnh đẳng giữa trường công lập và
trường dân lập; nâng cao chất lượng bộ máy làm công tác quản lý trong các trường; đổi mới
nội dung quản lý nhà nước đối với các trường ngoài công lập ngành học mầm non, phổ
thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Nhỡn chung, cỏc cụng trỡnh trờn đây mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu lý luận và chỉ
ra những tồn tại của trường ngoài công lập nói chung, chưa có công trỡnh nào trực tiếp
nghiờn cứu về trường trung học phổ thông ngoài công lập. Vỡ thế cú thể coi đây là công
trình đầu tiên nghiên cứu dưới góc độ quản lý nhà nước đối với trường trung học phổ thông
ngoài công lập.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn


- Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu cơ sơ lý luận của việc QLNN bằng

pháp luật đối với trường ngoài công lập nói chung, trung học phổ thông ngoài công lập nói
riêng; từ đó đánh giá thực trạng của hoạt động này trong những năm qua, trên cơ sở đó đề
xuất những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Xây dựng khái niệm và chỉ ra những đặc điểm của QLNN bằng pháp luật đối với
trường trung học phổ thông ngoài công lập, đồng thời phân tích vai trò, nội dung của QLNN
bằng pháp luật đối với trường ngoài công lập;
+ Nêu lên những đặc thù và những yêu cầu khách quan của việc tăng cường quản lý
nhà nước bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập;
+ Đánh giá những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế cơ bản trong QLNN
bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở nước ta trong những
năm qua và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó.
+ Đưa ra những quan điểm có tính định hướng và một số giải pháp cụ thể nhằm tăng
cường QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
QLNN bằng pháp luật đối với trường ngoài công lập là một vấn đề rộng và phức tạp,
bởi hiện nay, hệ thống các trường ngoài công lập đó phỏt triển khỏ đồng bộ từ mẫu giáo đến
tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung học dạy nghề, cao đẳng và đại học.
Trong phạm vi một luận văn thạc sỹ, đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý
nhà nước bằng pháp luật đối với trường ngoài công lập thuộc hệ trung học phổ thông và
thực tiễn QLNN đối với loại hỡnh này. Các trường trung học chuyên nghiệp, trung học dạy
nghề cũng không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển giáo dục
nói chung, giáo dục ngoài công lập nói riêng và QLNN bằng pháp luật đối với trường trung
học phổ thông ngoài công lập.



- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở của phép duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp: khảo sát, phân tích, tổng hợp, so
sánh, phương pháp lịch sử cụ thể trong quá trình nghiên cứu để giải quyết vấn đề một cách
toàn diện.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn đã xây dựng được khái niệm: QLNN bằng pháp luật đối với đối với trường
trung học phổ thông ngoài công lập; phân tích những đặc điểm cơ bản, vai trò, nội dung của
QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt Nam hiện
nay.Trên cơ sở đó nghiên cứu một cách hệ thống thực trạng QLNN bằng pháp luật đối với
trường trung học phổ thông ngoài công lập, từ đó đưa ra các quan điểm và giải pháp nhằm
tăng cường QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt
Nam hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho
hoạt động nghiên cứu lý luận về QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông
ngoài công lập. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu,
giảng dạy và học tập trong các trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Đặc biệt, những kết quả đó
có ý nghĩa góp phần tăng cường QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông
ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.


















Chương 1
Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với trường Trung học phổ thông ngoài công lập

1.1. khái quát về Giáo dục ngoài công lập
1.1.1. Quỏ trỡnh hỡnh thành và phỏt triển của cỏc trường ngoài công lập
1.1.1.1. Khái quát về trường ngoài công lập ở nước ngoài
a. Sự hỡnh thành và phát triển trường ngoài công lập ở nước ngoài
Trường ngoài công lập ở đây được hiểu là trường không được nhà nước thành lập,
đầu tư và quản lý một cách toàn diện. Hiện nay, trên thế giới có nhiều tên gọi khác nhau về
trường ngoài công lập, hơn nữa cỏc hỡnh thức tổ chức và hoạt động của loại hỡnh trường
này cũng có nhiều nét khác nhau.
Trong lịch sử hình thành trường học ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, những
trường học đầu tiên xuất hiện đều do cá nhân hoặc do một tổ chức tôn giáo (nhà thờ, nhà
chùa) thành lập và quản lý. ở giai đoạn này, nhà nước dường như chưa có vai trò gì trong
việc hình thành trường học mà thông qua việc tổ chức các kỳ thi tuyển chọn nhân tài, cấp
văn bằng chứng chỉ nhằm lựa chọn đội ngũ củng cố bộ máy cai trị các cấp chính quyền từ
trung ương đến địa phương để khẳng định bàn tay của mình.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là khi châu Âu chuyển sang xã
hội công nghiệp đã làm biến đổi cách thức giáo dục và quản lý. Mô hình trường làng không

còn thích hợp nữa, khi mà người lớn đã chuyển từ lao động trên đồng ruộng sang lao động
trong nhà máy; chuyển lao động theo thời vụ sang làm theo ca, kíp , từ đó bắt đầu hình
thành hệ thống trường học do Nhà nước đầu tư xây dựng và trẻ em cũng được học theo kỳ,
theo giờ. Loại hình trường học này phát triển nhanh chóng, tồn tại song song với các loại
hình trường ra đời trước đó và dần chiếm ưu thế, các trường ngoài công lập hầu như không
còn tồn tại.
Nhưng từ cuối thế kỷ XX đến nay, mô hình trường ngoài công lập trong đó có trường
trung học phổ thông phát triển khá rộng khắp, nhất là ở những nước công nghiệp phát triển.
Sở dĩ có tình hình đó vì không những ở những nước nghèo mà ngay ở cả những nước
giàu, người ta cũng ý thức được rằng Nhà nước không thể có điều kiện đầu tư đầy đủ cho sự
phát triển ngày càng mạnh mẽ của hệ thống giáo dục; muốn cho giáo dục phát triển phải


trông cậy vào nhiều nguồn lực khác nhau trong xã hội. Bởi thế, giáo dục ngoài công lập nói
chung và giáo dục trung học ngoài công lập nói riêng ngày một phát triển mạnh mẽ. Đặc
biệt, ở những nước thuộc hệ thống XHCN trước đây, mặc dù đã tan rã hay có nhiều điều
chỉnh căn bản đường hướng phát triển thì loại hình trường ngoài công lập đều xuất hiện khá
nhiều ở mọi cấp học, ngành học.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, năm 2004, ở nước Pháp cứ 5 học sinh phổ thông
học ở trường do nhà nước thành lập và quản lý thỡ cú khoảng 1 em theo học tại cỏc trường
do cá nhân hoặc tổ chức xó hội đầu tư và điều hành. Riêng ở bậc đại học nước Pháp có tới
14% sinh viên với khoảng 30% số trường ngoài công lập.
Tại Mỹ, mói tới những năm cuối cùng của thế kỉ XIX mới xuất hiện những trường
trung học công lập đầu tiên ở bang New York. Nhưng sau đó, hệ thống giáo dục công lập
của nước này đó phỏt triển với tốc độ nhanh, và giáo dục trung học được coi là bắt buộc với
mọi người, mọi tốn phí đào tạo đều do Nhà nước chi trả. Tuy vậy, đến thập niên đầu của
thế kỉ XX, ước tính có khoảng 40% học sinh trung học của toàn nước Mỹ học ở các
trường không phải do nhà nước xây dựng và điều hành. Và đến năm 2000 đó cú khoảng
25 % số trường tiểu học và trung học với khoảng 11% học sinh học ở loại trường này.
Đáng lưu ý là ở nước Mỹ, học phí ở trường ngoài công lập rất cao, số học sinh trung học

ở các trường ngoài công lập phần đông là con nhà khá giả, họ có những đũi hỏi riờng mà
chỉ các trường ngài công lập mới có thể đáp ứng được.
Tại Trung Quốc, Hiến pháp qui định rừ, cỏc cỏ nhân cũng như các tổ chức kinh tế xó
hội đều có quyền mở trường. Tuy nhiên tại đất nước có bề dày lịch sử này, loại hỡnh trường
ngoài công lập phát triển muộn hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Theo số liệu thống kê năm 2001, tỉ lệ học sinh ngoài công lập ở trung học chỉ khoảng 3%
(tiểu học khoảng 1,5 %, đại học khoảng 1,2%). Đến nay kinh phí chi cho giáo dục ở Trung
Quốc phần lớn đều không phải do Nhà nước chịu trách nhiệm. Mỗi địa phương có những
quan niệm khác nhau về phát triển giáo dục nói chung và phát triển giáo dục ngoài công lập
nói riêng. Song, nhỡn chung ở hầu hết cỏc tỉnh của đất nước hơn 1,3 tỉ ba dân này, khoảng 5
năm gần đây hệ thống các trường trung học ngoài công lập đó phỏt triển với tốc độ khá mau
lẹ.
Tại Hàn Quốc, loại hỡnh trường ngoài công lập phát triển mạnh mẽ ở cả tiểu học,
trung học, cao đẳng và đại học. Và một điều đáng lưu ý là ở quốc gia này, cỏc trường ngoài


công lập cũng được Nhà nước đầu tư một phần đáng kể về kinh phí. Đồng thời các trường
này cũng được Nhà nước quản lý, chỉ đạo khá thống nhất và chặt chẽ. Theo số liệu thống kê
năm 2004, Hàn Quốc có khoảng gần một nửa học sinh trung học phổ thông học tại những
trường ngoài công lập. (Số học sinh học học trường ngoài công lập ở cao đẳng khoảng 80%,
đại học là 75%).
Ở Thái Lan, Nhà nước chi trả hoàn toàn kinh phí học bậc phổ thông cho mọi học
sinh. Chính vỡ thế số học sinh ngoài cụng lập đó giảm mạnh vào thập niên cuối của thế kỉ
XX. Nếu như năm 1990 ở quốc gia này có tới hơn 20% số học sinh trung học ngoài công
lập, thỡ đến năm 2000 chỉ cũn khụng đầy một nửa. Trong khi đó, số sinh viên cao đẳng và
đại học ngoài công lập lại gia tăng nhanh chóng. Đến những năm gần đây họ đó chiếm tới
gần một nửa số sinh viờn trong toàn quốc.
Tại Singapore có sự chuyển giao quyền làm chủ ở các trường công. Năm 1987, quốc
gia này thầnh lập các trường Độc lập, đến năn 1999 xuất hiện các trường tự trị. Các trường
công được phép chuyển thành các trường tư hoạt động bằng ngân sách của Nhà nước,

nhưng nhà trường vẫn được thu học phí theo qui định của Chính phủ.
Ở Tanzania mấy năm gần đây cũng có sự gia tăng nhanh chóng các trường ngoài
công lập.
Tuy vậy, nhỡn bao quỏt trờn toàn thế giới, tỷ lệ học sinh các trường ngoài công lập
thấp hơn trường công lập rất nhiều. Chẳng hạn ở Mỹ chỉ có 11%; ở Pháp là 17%; ở Liên xô
cũ và Đông Âu là 5%. Đến những năm đầu tiên của thế kỉ XXI trong 154 nước trên thế giới,
có 46 % số nước có tỉ lệ dưới 10% học sinh, 43% số nước có tỉ lệ từ 10 đến 40% và 7,3 %
số nước có 41- 48% học sinh ngoài công lập.
b. Chính sách của các nước đối với giáo dục ngoài công lập
Thực tế cho thấy, đối với các trường ngoài công lập mỗi nước đều có những chính
sách riêng khá đa dạng.
Đa số các nước không thừa nhận sự đầu tư, kinh doanh giáo dục vỡ lợi nhuận kinh tế.
Do đó, trên danh nghĩa, hệ thống giáo dục ngoài công lập được thành lập không nhằm mục
tiêu lợi nhuận. Nhưng cũng có một số nước (tiêu biểu là Mỹ và Anh), pháp luật cho phộp cú
thể kinh doanh giỏo dục nghề nghiệp vỡ lợi ớch kinh tế.
Phần lớn các nước, nhất là các quốc gia công nghiệp phát triển tuy ở những mức độ
rất khác nhau nhưng đều có trợ cấp kinh phí bằng cách này hay cách khác cho những trường


ngoài công lập (như Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản, Ca-na-đa ). Thậm chí có một số nước như
Anh, úc, Pháp,…khoản trợ cấp của Nhà nước cho các trường trung học ngoài công lập bằng
các trường trung học công lập.
Bên cạnh đó, công tác quản lý, chỉ đạo của Nhà nước đối với các trường ngoài công
lập cũng có nhiều điểm khác biệt tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và sự nhỡn nhận của mỗi
quốc gia. Trừ một số trường tôn giáo, cũn lại các trường này đều có sự quản lý của nhà nước
nhưng theo những mức độ khác nhau. ở những nước có nền giáo dục phát triển như Mỹ,
Anh, Phỏp, Nhật Bản,…việc quản lý các trường ngoài công lập dược tiến hành bởi một bộ
máy từ trung ương tới địa phương, được tổ chức khá chặt chẽ. Tuy vậy, trong một hai, thập
niên gần đây, các nước này thiên về xu hướng chỉ quản lý về việc đánh giá chất lượng dạy
học, cấp phát văn bằng chứng chỉ, cũn lại cho phộp cỏc trường ngoài công lập có quyền tự

chủ ngày càng cao trong nhiều lĩnh vực từ việc tuyển sinh đến việc xác định phương thức
hoạt động, nội dung giảng dạy, quản lý và sử dụng tài chính, nhân lực…
Mặc dù vậy, các nước nói trên đều thể hiện quan điểm chung là làm sao tạo được
những cơ hội thuận lợi, khuyến khích các cá nhân, các tổ chức kinh tế- xó hội tham gia thỳc
đẩy sự phát triển của giáo dục.
c. Một số loại hỡnh trường ngoài công lập ở nước ngoài
Tuỳ theo điều kiện kinh tế, xó hội và cỏch thức nhỡn nhận của mỗi quốc gia, loại
hỡnh trường ngoài công lập trên thế giới đó hỡnh thành và phỏt triển khỏ phong phỳ, đa
dạng và mang những tên gọi khác nhau. Có thể kể ra một số loại trường ngoài công lập tiêu
biểu như:
- Trường do tư nhân thành lập, bỏ tiền xõy dựng và quản lý, điều hành;
- Trường do Nhà nước thành lập, bỏ tiền xây dựng, nhưng Nhà nước giao cho tư
nhân quản lý và điều hành;
- Trường do Nhà nước và tư nhân cùng thành lập, cùng bỏ tiền xõy dựng và cựng
quản lý điều hành.
- Trường tôn giáo (trường dũng) do nhà thờ xõy dựng và quản lý hầu như rất ớt chịu
sự quản lý của Nhà nước;
- Trường do cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài đầu tư quản lý;
- Trường liên kết trong và ngoài nước.
d. Nhận xét chung về giáo dục ngoài công lập ở nước ngoài và bài học kinh nghiệm


đối với Việt Nam
* Nhận xét chung
Mặc dù số lượng và chất lượng ngày càng phát triển, dạng thức nhà trường ngày càng
phong phú, nhưng trường trung học phổ thông ngoài công lập nói riêng và các trường ngoài
công lập nói chung chưa ở đâu và chưa bao giờ đóng vai trũ chủ đạo trong nền giáo dục của
một quốc gia.
Ở hầu hết các nước, hệ thống giáo dục ngoài công lập được Nhà nước cho phép hoạt
động song song với hệ thống giáo dục công lập. Tuy là ngoài công lập, nhưng hệ thống các

trường này vẫn được Nhà nước hỗ trợ một phần về tài chính, hoạt động theo những qui định
chặt chẽ của pháp luật, theo sự chỉ đạo về chuyờn mụn của hệ thống quản lý giáo dục. Đặc
biệt việc thi cử, cấp phát văn bằng chứng chỉ do Nhà nước tổ chức và thực hiện.
Tại phần lớn các nước phát triển, về danh nghĩa giáo dục ngoài công lập là hoạt động
phi lợi nhuận, không vụ lợi. Sự xuất hiện của loại hỡnh trường này khiến cho dân chúng có
thêm cơ hội lựa chọn và làm cho nền giáo dục thêm năng động, phong phú và đa dạng, tạo
nên sự đối trọng với hệ thống công lập.
Hệ thống trường ngoài công lập trên thực tế đó mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể vỡ
trước hết nó thu hút được một nguồn đóng góp tài chính khá lớn từ cộng đồng nhằm phát
triển và nâng chất lượng giáo dục. Hơn nữa, hệ thống nhà trường này đó cung cấp cho xó
hội một nguồn nhõn lực cú chất lượng cao mà nhiều trường công lập chưa cung cấp được.
Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hoá của nền kinh tế thị trường, một số tập đoàn ở các
nước phát triển chuyên kinh doanh bằng việc xuất khẩu giáo dục đó ra đời và có được
những lợi nhuận kinh tế to lớn. Trong đó đáng kể nhất là những trường tư thục nhận học
sinh nước ngoài đến du học hoặc tỡm kiếm cỏc hợp đồng mở trường ở nước ngoài…
Sự phát triển có hiệu quả của giáo dục ngoài công lập có ảnh hưởng tích cực đến hệ
thống giáo dục công lập, kích thích để giáo dục công lập phát triển đúng hướng và năng
động hơn. Đồng thời hệ thống giáo dục ngoài công lập đáp ứng kịp thời hơn những nhu cầu
học tập khác nhau của dân chúng.
* Bài học kinh nghiệm
Từ những nhận xét trên đây, có thể rút ra một số bài học để vận dụng vào thực tiễn,
góp phần phát triển các trường ngoài công lập Việt Nam như sau:
Thứ nhất, Nhà nước cần khuyến khích phát triển mạnh mẽ giáo dục ngoài công lập


và giao cho các cơ sở giáo dục quyền được tự chủ rộng rói về nhiều phương diện nhưng sự
phát triển của loại hỡnh trường này vẫn phải nằm trong sự phát triển tổng thể của nền giáo
dục do Nhà nước quản lý.
Thứ hai, đối với những cơ sở ngoài công lập hoạt động phi lợi nhuận, không nhằm
mục đích kinh tế, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, ưu tiên về nhiều phương diện từ cơ sở

vật chất tới tạo nguồn nhân lực…; đối với các cơ sở giáo dục hoạt động nhằm mục đích lợi
nhuận phải thực hiện mọi sự quản lý của Nhà nước và cũn cú nghĩa vụ đóng thuế. Muốn
làm được điều này, đũi hỏi Nhà nước phải phân định rừ đâu là trường hoạt động vỡ lợi
nhuận, đâu là trường hoạt động không vỡ lợi nhuận.
Thứ ba, việc kiểm định chất lượng, xếp loại các trường ngoài công lập thường do các
tổ chức phi Chính phủ đảm nhận, nhưng Nhà nước cần đặt ra những tiêu chuẩn rừ ràng. Đây
là công việc có ý nghĩa rất quan trọng, do vậy cần được tiến hành kỹ lưỡng, nghiêm túc, vỡ
nú sẽ quyết định thương hiệu của các trường.
Thứ tư, Nhà nước có những chế tài cần thiết để quản lý các trường ngoài công lập.
1.1.1.2. Khái quát về trường ngoài công lập ở Việt Nam
a. Khái niệm trường ngoài công lập
Theo qui định của pháp luật hiện hành, ở Việt Nam, "Trường công lập do Nhà nước
thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường
xuyên" (Điều 48, mục 1, khoản a. Luật Giáo dục năm 2005). Với qui định này có thể hiểu,
trường công lập là trường:
- Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập và Nhà nước trực tiếp
quản lý;
- Nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và kinh phí cho chi thường xuyên, chủ yếu
do ngân sách nhà nước bảo đảm.
Ngoài hệ thống trường công lập, ở nước ta cũn cú hệ thống trường ngoài công lập,
bao gồm:
“Trường dân lập do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất và bảo đảm kinh phí hoạt động; Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo
đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước”(Điều 48, mục 1, khoản b, c).
Như vậy, trường ngoài công lập là trường:


- Do cộng đồng dân cư hoặc cỏc tổ chức xó hội, tổ chức xó hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế hoặc cỏ nhõn thành lập;

- Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép;
- Nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động của trường trường
ngoài công lập là nguồn ngoài ngân sách nhà nước.
Từ quy định trên đây, suy ra, trường ngoài công lập không phải trường do Nhà nước
thành lập. Đây là những trường do cá nhân hoặc tập thể hoặc tổ chức kinh tế - xó hội bỏ vốn
đầu tư và trực tiếp quản lý vận hành, hoặc được nhà nước hỗ trợ một phần cơ sở vật chất.
Khái niệm trường ngoài công lập, do đó, bao gồm các trường tư thục, dân lập và bán công.
Gần đây, không cũn trường bán công cho nên khái niệm trường ngoài công lập trên thực tế
chỉ cũn hai loại: trường tư thục và trường dân lập.
b. Sự hỡnh thành và phỏt triển của cỏc trường ngoài công lập ở Việt Nam
Hàng nghỡn năm dưới chế độ phong kiến, ở Việt Nam chủ yếu chỉ có trường ngoài
công lập, số trường này rất ít và chủ yếu tập trung vào một số địa bàn, tiêu biểu nhất là khu
vực châu thổ sông Hồng và Bắc trung bộ. Qui mô của những trường nói trên cũng thường hạn
chế, cơ sở vật chất rất nghèo nàn.
Thời Pháp thuộc, tuy đó xuất hiện một số ớt trường công do Nhà nước bảo hộ thành
lập chủ yếu dành riêng cho con em người Pháp và quan lại người Việt, nhưng cơ bản vẫn là
hệ thống trường ngoài công lập, phổ biến là trường tư thục.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi (1954), ở miền Bắc hệ thống trường
ngoài công lập vẫn tồn tại song song với trường công lập. Nhưng chỉ khoảng 5 năm sau, các
trường ngoài công lập dần dần được nhanh chóng chuyển thành trường công lập.
Ở miền Nam trong thời Mỹ - Ngụy trước năm 1975, hệ thống trường tư thục, trường
bán công đó hỡnh thành và phỏt triển tương đối mạnh. Nhưng khoảng 10 năm sau, các
trường này cơ bản đó nhanh chúng được thay thế bằng các trường công lập.
Đến cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX, ở nước ta, cơ bản chỉ có một loại hỡnh trường là
trường công lập, hệ thống trường ngoài công lập hầu như không cũn tồn tại (trừ một số ớt
trường tôn giáo).
Đến năm 1986, Đại hội VI của Đảng mở ra một thời kỳ đổi mới toàn diện cho dân
tộc, cho đất nước. Trong lĩnh vực giáo dục, chúng ta cũng có những đổi mới đáng kể, tiêu
biểu là chủ trương xó hội hoỏ giỏo dục, tận dụng mọi nguồn lực trong nhõn dõn để phát



triển sự nghiệp giáo dục. Điều này chính là sự đáp ứng những đũi hỏi của thực tế khỏch
quan.
Vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX, ở không ít tỉnh, nhất là những thành phố lớn,
các trường trung học phổ thông công lập chỉ có điều kiện tiếp nhận một phần học sinh đó tốt
nghiệp trung học cơ sở có nhu cầu và điều kiện học lên cấp trung học phổ thông.
Trước tỡnh hỡnh đó, Bộ Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) đó cho phộp một
số địa phương mở thêm các lớp hệ B. Học sinh những lớp hệ B này vẫn học theo chương
trỡnh, sỏch giỏo khoa như học sinh những lớp khác, nhưng phải đóng góp thêm một khoản
kinh phí nhất định. Ngay từ năm 1987, một số trường trung học phổ thông ngoài công lập
đó xuất hiện ở Đà Nẵng. Năm1988, trường công nhân cơ điện, nhà máy cơ khí 1-5, trường
Đại học Hàng hải ở thành phố Hải Phũng đó mở một số lớp 10 cho con em cỏn bộ theo học
và thu một số học phớ để tái đầu tư. Đến năm 1999, ở bốn thành phố lớn trên toàn quốc là
Hà Nội, Hải Phũng, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh đó chớnh thức xuất hiện 15
trường trung học phổ thông ngoài công lập. Có thể nói sau nhiều thập kỷ vắng bóng, đến
đây hệ thống các trường ngoài công lập đó được tái lập.
Sau hơn chục năm ra đời, đến nay hệ thống trường ngoài công lập đó cú nhiều thay
đổi.
Ở tiểu học lượng học sinh ngoài công lập vẫn tăng, đặc biệt ở các thành phố lớn
nhiều học sinh có nhu cầu được ở bán trú và đũi hỏi nhà trường đáp ứng những yêu cầu cao
hơn ở các trường tiểu học công lập.
Ở trung học cơ sở, học sinh ngoài công lập giảm đi rừ rệt vỡ hầu hết cỏc tỉnh đông
dân, có điều kiện phát triển giáo dục đều đó tiến hành phổ cập giỏo dục trung học cơ sở. Vỡ
thế, cỏc đối tượng trong độ tuổi hầu như đó được thoả món yờu cầu về học tập.
Ở trung học phổ thông, số học sinh ngoài công lập ngày một tăng. Theo thống kê gần
đây cả nước có khoảng 600 trường trung học phổ thông ngoài công lập với khoảng 950.000
học sinh, chiểm khoảng 31,5% học sinh trung học phổ thông trên toàn quốc.
Tuy vậy, tính đến nay, tỉ lệ số học sinh ngoài công lập so với số học sinh các trường
công lập của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước lân cận cũng như các nước trên
thế giới.

c. Chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục nói chung và giáo dục
ngoài công lập nói riêng


Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định giáo dục - đào tạo thực hiện đổi mới, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thích ứng với động thái của kinh tế thị trường. Ngay từ
khi mới ra đời, Đảng ta đã rất quan tâm đến vấn đề phát triển giáo dục. Đảng tăng cường sự
lãnh đạo của mình trên cơ sở ra các nghị quyết, quyết định phương hướng và nhiệm vụ
chiến lược của phát triển giáo dục, đảm bảo cho:
- Giáo dục luôn luôn vận động với mục tiêu: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ”.
- Giáo dục nhất quán với tính chất của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa: tính nhân dân,
dân tộc, khoa học, hiện đại , lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng.
- Giáo dục thực hiện có kết quả việc “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn”. Đảng tăng cường sự lãnh đạo của mình bằng
các chủ trương qua đó nâng cao tính hiệu lực của các chế định quản lý nhằm làm cho tính
thống nhất của hệ thống giáo dục quốc dân ngày càng được củng cố, tính toàn vẹn của quá
trình đào tạo ngày càng được vững chắc, chất lượng, hiệu quả của giáo dục ngày càng được
nâng cao. Đồng thời, phát huy sự tham gia vào quá trình phát triển giáo dục của mọi lực lư-
ợng xã hội, mọi tầng lớp nhân dân, thúc đẩy công tác xã hội hoá giáo dục
- Đảng tăng cường sự lãnh đạo của mình bằng cách bảo đảm cho mọi đảng viên các
cấp uỷ đảng quan tâm thực hiện đến kế hoạch phát triển giáo dục, kế hoạch đào tạo trong
mỗi nhà trường, tăng cường trách nhiệm đối với việc thực hiện các kế hoạch này, tích cực
phát triển đảng trong trường học, trước hết trong đội ngũ giáo viên, bảo đảm ở các trường
phổ thông nào cũng có đảng viên, có chi bộ đảng, trường đại học nào cũng có đảng bộ chỉ
đạo Công đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản, Đội Thiếu niên tiền phong, Hội Thanh niên học
sinh, sinh viên, Hội cha mẹ học sinh, Hội khuyến học và các tổ chức xã hội khác để có

những đóng góp thiết thực cho sự phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào
tạo.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, công tác giáo dục đào tạo cần thúc đẩy
việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, hệ thống trường lớp, hệ thống quản lý giáo dục
theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá.


Trên cơ sở củ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã xây dựng phương hướng
chiến lược phát triển giáo dục- đào tạo thời kỳ 2001-2010, đặt trọng tâm vào các việc sau:
- Phát triển giáo dục mầm non làm tiền đề vững chắc cho việc nâng cao chất lượng
giáo dục ở bậc tiểu học. Củng cố thành tựu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy
nhanh tiến độ phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tạo điều kiện cho những địa phương có khả
năng thực hiện sớm việc hoàn thiện giáo dục trung học phổ thông. Hiện thực hoá chương
trình đổi mới đối với bậc tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông vào đời sống thực
tiễn.
- Mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, nhanh chóng hiện đại
hoá một số trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, tăng nhanh tỉ lệ lao động được đào
tạo toàn toàn bộ lao động xã hội, khuyến khích phát triển hệ thống trường lớp dạy nghề dân
lập và tư thục, trang bị cho thanh niên những kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động và kỹ
năng tiếp thu công nghệ mới để tự tạo việc làm, chủ động tìm hiểu cơ hội lập thân, lập
nghiệp.
- Phát triển giáo dục đại học một cách hợp lý; có những biện pháp tích cực đa tỉ lệ số
sinh viên trên một vạn dân ngang bằng một số nước có nền giáo dục tiên tiến trong khu vực.
Đầu tư vào hai đại học quốc gia để các trường này trở thành những trung tâm đào tạo chất
lượng cao, thực hiện việc bồi dưỡng nhân tài cho đất nước; xây dựng hệ thống trường sư
phạm vững mạnh, đầu tư để có được đội ngũ giáo viên giỏi cho hệ thống trường lớp ở bậc
phổ thông cũng như bậc đại học.
- Tạo cho quá trình đào tạo ở mọi bậc học, cấp học, trình độ học có sự kết hợp chặt chẽ
giữa dạy và học lý thuyết với thực hành, gắn công tác dạy - học với công tác nghiên cứu
khoa học và sản xuất. Nhà trường và cơ sở đào tạo phối hợp với các tổ chức khoa học và

cán bộ kỹ thuật truyền bá tri thức sản xuất, chuyển giao công nghệ mới cho người dân.
- Thực hiện tốt việc hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho
thanh thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong cả nước và từng địa phương.
- Đẩy mạnh phong trào học tập, khuyến khích tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay
nghề bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy. Có quy hoạch nâng cao
dân trí và đào tạo nhân lực theo phương thức kết hợp học tập trung, học từ xa, học trên
mạng, học trong đời sống thực tiễn, vừa lao động vừa học tập.


- Tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục - đào tạo, xây dựng cơ chế quản lý giáo dục -
đào tạo; tăng cường sự quản lý của ngành trên cả năm lĩnh vực: quản lý chuyên môn, quản
lý nhân sự, quản lý tài chính, quản lý bộ máy, quản lý cơ sở vật chất, kết hợp với việc thực
hiện tốt xã hội hoá hoạt động giáo dục và phân cấp hợp lý.
Khoảng mười năm gần đây, từ trung ương đến một số địa phương đều có văn bản
nhằm khuyến khích sự phát triển của các trường ngoài công lập và nâng cao chất lượng đào
tạo ở các trường này. Riêng ở cấp trung ương đã có một lọat văn bản như:
- Luật Giáo dục năm 2005;
- Nghị Quyết số 90 ngày 21/8/1997 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội
hoá giáo dục;
- Nghị định 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 về chế độ tài chính đối với các cơ sở
ngoài công lập trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao;
- Thông tư 18/2000/TT-BTC ngày 01/3/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều
của Nghị định 73/1999/NĐ-CP;
- Quyết định 39/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 28/8/2001 của Bộ giáo dục và Đào tạo về
việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của các trường ngoài công lập;
- Nghị định 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa
các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao;
- Quyết định 20/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 24/6/2001 của Bộ giáo dục và Đào tạo về
việc phê duyệt Đề án Quy hoạch phát triển xã hội hóa giáo dục giai đoạn 2005-2010”

d. Các loại hỡnh giỏo dục ngoài công lập ở Việt Nam
Theo Luật Giáo dục năm 1988, có ba loại hỡnh trường ngoài công lập là bán công,
dân lập và tư thục với những cấp độ khác nhau như các lớp, các trung tâm độc lập, các
trường ngoài công lập,…
Ngoài những loại trường vừa nêu, gần đây bắt đầu xuất hiện một loại trường mới do
nước ngoài đầu tư, xây dựng và quản lý. Nhỡn chung, hầu như đến nay chưa có văn bản qui
phạm pháp luật nào nói về loại hỡnh trường này. Tính đến năm 2005, chúng ta có đủ các
loại hỡnh trường ngoài công lập thuộc những ngành học khác nhau từ mầm non đến tiểu
học, từ trung học phổ thông đến trung học chuyên nghiệp.
Trong đó, loại trường bán công thu hút tới ngót 70% tổng số học sinh ngoài công lập,
tiếp đến loại hỡnh dõn lập chiếm khoảng 20% và loại trường tư thục chiếm khoảng 10%.


Nhưng đáng lưu ý là trừ những trường bán công, cũn lại cỏc loại trường khác trong hệ thống
ngoài công lập thực chất đó và đang hoạt động theo cơ chế trường tư thục, tức là cá nhân bỏ
vốn xây trường sắm sửa trang thiết bị dạy học tuyển chọn giỏo viờn và học sinh, quản lý việc
thu, chi.
Theo Luật Giáo dục năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2006), hệ thống giỏo dục
ngoài cụng lập chỉ cũn hai loại hỡnh trường là trường dân lập và trường tư thục (không có
trường bán công). Nhưng thực tế phương thức hoạt động hầu hết theo loại hỡnh trường tư
thục.
e. Nhận định khái quát
Phát triển giáo dục ngoài công lập là đũi hỏi khỏch quan của cuộc sống, có cơ sở lý
luận và thực tiễn. Trong hoàn cảnh đất nước cũn nhiều khú khăn, ngân sách của nhà nước
chưa đủ để đầu tư lớn hơn cho giáo dục, thỡ việc huy động rộng rói cỏc nguồn lực để phát triển sự
nghiệp giáo dục là một đũi hỏi tất yếu.
Việc hệ thống các trường ngoài công lập ra đời và tồn tại suốt những năm qua là một
minh chứng sinh động. Điều này đó được khẳng định trong các văn bản pháp quy và càng
ngày càng được thể chế hoá một cách chặt chẽ, đồng bộ. Trong quá trỡnh triển khai, cỏc
chớnh sỏch của trung ương cũng như của địa phương về các trường ngoài công lập đó ngày

càng hoàn thiện theo hướng có lợi cho các nhà đầu tư, phù hợp với yêu cầu của người học.
Điều đó đó tạo điều kiện cho các trường ngoài công lập gần đây phát triển cả chất lượng và
số lượng.
1.2. sự cần thiết Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với trường trung học phổ
thông ngoài công lập
1.2.1. Khái niệm trường trung học phổ thông ngoài công lập
Theo Điều 26 Luật giáo dục năm 2005, giáo dục phổ thông bao gồm:
- Giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp năm;
- Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín.
Học sinh vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học;
- Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến
lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở.
Như vậy, giáo dục trung học phổ thông là một trong ba cấp học của hệ giáo dục phổ


thông. Mục đích của giáo dục trung học phổ thông là nhằm giúp học sinh củng cố và phát
triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có
những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực
cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề
hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Cũng giống các hệ giáo dục đào tạo khác, việc đảm nhận giáo dục phổ thông ngoài
các trường công lập, còn có sự tham gia rất tích cực và hiệu quả của các trường ngoài công
lập.
Từ khái niệm về trường ngoài công lập đã được trình bày ở mục 1.1.1.2, có thể hiểu
trường THPT ngoài công lập là trường: Do cộng đồng dân cư hoặc cỏc tổ chức xó hội, tổ
chức xó hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập trên cơ sở quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả
của giáo dục trung học cơ sở và hoàn thiện học vấn phổ thông, không hoạt động từ nguồn
kinh phí của nhà nước.
Từ quan niệm trên đây, có thể chỉ ra các đặc điểm của trường THPT ngoài công lập

như sau:
- Về chủ thể thành lập: cộng đồng dân cư, cỏc tổ chức xó hội, tổ chức xó hội - nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân;
- Nhiệm vụ: củng cố và hoàn thiện học vấn phổ thông cho học sinh;
- Kinh phí hoạt động: không do ngân sách nhà nước chi trả.
1.2.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông
ngoài công lập
1.2.2.1. Khái niệm và đặc điểm của quản lý nhà nước
a. Khái niệm quản lý và quản lý nhà nước
Quản lý là yêu cầu khách quan đối với sự tồn tại và phát triển kinh tế- xã hội của tất
cả các quốc gia. Quản lý là một hiện tượng xã hội, xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người,
được các nhà tư tưởng, các nhà triết học và các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau tìm hiểu, nghiên cứu. Hiện nay đang có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, tùy
theo góc độ tiếp cận và quan điểm của các nhà nghiên cứu. Chính vì vậy, quản lý là đối


tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học trong đó có cả khoa học tự nhiên lẫn khoa học
xã hội.
Dưới góc độ điều khiển học thì: Quản lý là sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ
thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất
định . Như vậy, về mặt ngôn ngữ “quản lý’’ được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý
lên đối tượng (khách thể) quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra.
Quản lý xã hội là một loại hình của quản lý nói chung,trong đó quản lý xã hội là sự
tác động có định hướng (chỉ huy, điều hành, hướng dẫn…) lên các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người làm cho chúng vận động phát triển phù hợp với quy luật, đạt
được mục đích và theo ý chí của người quản lý.
Quản lý xã hội được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp khác nhau.
Theo nghĩa rộng, quản lý xã hội là hiện tượng vốn có một cách cố hữu ở hệ thống xã
hội, đảm bảo duy trì từ tính toàn vẹn, sự đặc thù về chất, sự tái tạo và sự phát triển của nó.
Theo nghĩa hẹp, quản lý xã hội là sự tác động có ý thức, có hệ thống, có tổ chức đặc

biệt đến xã hội nhằm chấn chỉnh và hoàn thiện cơ cấu hoạt động quản lý. Như vậy, quản lý xã
hội là một chức năng lao động xã hội đặc biệt, xuất hiện khi lao động của con người được xã
hội hóa.
C.Mác chỉ rõ rằng: “Lao động giám sát và quản lý cần ở cả những nơi mà lao động sản
xuất trực tiếp có hình thức của một quá trình phối hợp mang tính xã hội chứ không phải là lao
động riêng rẽ của những người sản xuất độc lập” [22, tr. 432]. Tính đa dạng, phức tạp của quá
trình này thể hiện ở chỗ nó phải điều chỉnh các quá trình xã hội, các hoạt động của các tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội và hành vi của con người có ý thức. Trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, mọi cấp độ tổ chức của con người từ các nhóm nhỏ đến tầm quốc gia, khu vực và quốc
tế đều không thể thiếu vai trò tổ chức và quản lý.
Luận giải về vai trò quản lý xã hội, C.Mác viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp
hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự
chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh
từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập
của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng” [22, tr. 480].


Quản lý xã hội là sự thực hiện các chức năng tổ chức nhằm tạo những điều kiện cần
thiết để đạt được những mục đích đề ra trong quá trình hoạt động chung của con người. Quá
trình quản lý xã hội được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy của chủ thể quản lý, buộc đối
tượng bị quản lý phải phục tùng. Quyền uy và phục tùng tạo thành nội dung của quyền lực
quản lý. Mục đích của quản lý là điều khiển, chỉ đạo chung con người, phối hợp các hoạt
động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành một hoạt động chung thống nhất của cả tập thể và
hướng hoạt động chung đó theo những mục tiêu đã định trước.
Quyền lực trong quản lý xã hội khi chưa có nhà nước là quyền lực chung của xã hội.
Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, chưa có sự phân chia giai cấp, quyền lực chung này
không thuộc về riêng một giai cấp, một tầng lớp xã hội nào. Quyền lực mang tính xã hội ấy
được đảm bảo, củng cố bằng uy tín của chủ thể quản lý, bằng sự tôn trọng của các thành
viên cộng đồng, bằng thói quen, tập quán, truyền thống, đạo đức, tôn giáo thể hiện trong các

quy phạm xã hội hoặc đôi khi bằng sự cưỡng chế của tập thể cộng đồng.
Từ khi nhà nước xuất hiện, bộ phận quản lý xã hội quan trọng nhất do nhà nước thực
hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Hoạt động quản lý xã hội, theo đó bao gồm: hoạt
động quản lý nhà nước với tư cách là một tổ chức chính trị xã hội đặc biệt và hoạt động
quản lý của các bộ phận cấu thành khác của hệ thống chính trị thực hiện.
Qua nghiên cứu các khái niệm quản lý, quản lý xã hội và phân tích hoạt động quản lý
xã hội khi đã có nhà nước, có thể hiểu: Quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên
lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối
ngoại của nhà nước.
Nói cách khác, Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực nhà
nước, chủ yếu bằng pháp luật, tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối
nội và đối ngoại của nhà nước.
Bản chất của quyền lực trong quản lý nhà nước hoàn toàn khác với quyền lực có tính
chất xã hội - đây là quyền lực nhà nước được ghi nhận củng cố bằng pháp luật và được đảm
bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, các biện pháp kinh tế- xã hội, các
biện pháp tổ chức và sự cưỡng chế của nhà nước.
Các biện pháp này, đặc biệt là sự cưỡng chế đó do bộ máy nhà nước thực hiện, trong
đó các cơ quan được thành lập chuyên làm chức năng cưỡng chế có vai trò quan trọng [30,


tr.12]. Như vậy, tất cả các cơ quan nhà nước đều làm chức năng QLNN và pháp luật là phương
tiện chủ yếu để quản lý nhà nước.
Quản lý nhà nước là một dạng của quản lý xã hội, đây là một quá trình phức tạp, đa
dạng. Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau, nhưng theo quan niệm của GS. Đào
Trọng Truyến, GS.TS. Nguyễn Duy Gia và một số nhà khoa học pháp lý khác thì quản lý
nhà nước hiện nay thường hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, theo nghĩa rộng: Quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà
nước, để điều chỉnh các quy trình xã hội, các hành vi của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
của công dân và giữ gìn an ninh trật tự xã hội nhằm thực hiện mục tiêu mà nhà nước đặt ra.
Như vậy, quản lý nhà nước theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà

nước như hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, các Bộ, các cơ quan ngang bộ và chính
quyền các cấp kể cả hoạt động hệ thống cơ quan Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân
dân các cấp.
Thứ hai, theo nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước là toàn bộ những hoạt động của các cơ
quan quản lý hành chính nhà nước như hoạt động của Chính phủ, các Bộ, các cơ quan
ngang bộ và chính quyền các cấp để điều chỉnh các quá trình xã hội, các hành vi của các tổ
chức, cá nhân và giữ gìn an ninh trật tự xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu của các cơ quan
quản lý nhà nước đã đặt ra. Nói cách khác, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều
chỉnh của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Chấp hành là chấp hành đúng các quy
định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh và nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước. Còn
điều hành là tổ chức, chỉ đạo các đối tượng thuộc quyền quản lý của mình thực hiện đúng
các quy định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh và nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước
nhằm đảm bảo quyền lực đó trên thực tế.
Trong quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp thì hoạt động chấp hành và điều chỉnh là hai
mặt của một thể thống nhất. Nếu xem nhẹ mặt nào cũng đều làm giảm hiệu lực quản lý nhà
nước.
Như vậy, hiểu theo nghĩa hẹp thì: Quản lý nhà nước là sự tác động có định hướng lên
các đối tượng quản lý. Hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành
của nhà nước, là một loại hoạt động cơ bản của nhà nước, hoạt động này chủ yếu được giao
cho hệ thống cơ quan hành chính thực hiện đó là các chủ thể quản lý.
b. Đặc điểm của quản lý nhà nước

×