Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Nghệ thuật tuyên truyền trong văn chính luận của nguyễn ái quốc – hồ chí minh (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.26 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ NHƯ THÚY

NGHỆ THUẬT TUYÊN TRUYỀN
TRONG VĂN CHÍNH LUẬN
CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã sớ: 9220121

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHAN HUY DŨNG

NGHỆ AN - 2022


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong hệ thống trước tác phong phú, đồ sộ của Hồ Chí Minh, văn chính
luận có một vị trí đặc biệt, đóng vai trò to lớn trong việc tác động vào hiện thực cuộc
sống và thể hiện những tư tưởng chính trị – nhân văn quan trọng, có liên quan đến vận
mệnh tồn dân tộc và số phận của mỗi con người Việt Nam trong thời đại cách mạng
vô sản và trào lưu đấu tranh giải phóng dân tộc. Qua những tác phẩm chính luận được
Hồ Chí Minh viết ra trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, độc giả có thể
nhận thấy sự hiện diện của một phong cách tuyên truyền – thuyết phục hết sức đặc sắc,
cần phải được nghiên cứu một cách sâu rộng hơn trên cơ sở những dữ liệu mới và cách
tiếp cận mới.
1.2. Nhìn tổng thể, văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh thực sự


độc đáo, biểu hiện sinh động nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh với bút pháp đa dạng,
lập luận chặt chẽ, luận điểm tường minh, lí lẽ sắc sảo, luận cứ thuyết phục, hình ảnh
gây ấn tượng, giọng điệu biến hóa, diễn đạt ngắn gọn, súc tích... Chính những điều này
đã làm nên khả năng lơi cuốn đặc biệt của của nó đối với người tiếp nhận. Như vậy, di
sản văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là giá trị tinh thần quý báu
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, cần được tiếp tục đánh giá trên tinh thần khách
quan, khoa học để thế hệ hơm nay có thể xác định được hướng kế thừa đúng đắn.
1.3. Di sản văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đến nay vẫn cịn
mang đậm tính thời sự. Các tác phẩm của Người khơng chỉ có giá trị lịch sử, chứa đựng
những tư tưởng lớn mà còn tồn tại như những mẫu mực của nghệ thuật viết văn chính
luận vốn đề cao nội dung và phương thức thuyết phục, tuyên truyền. Bởi vậy, rất cần
phân tích, chỉ ra những đặc sắc của nghệ thuật tuyên truyền ở bộ phận di sản này, nhằm
rút ra bài học đối với công tác tuyên truyền cách mạng bằng hình thức ngơn từ – văn học.
Hiện nay, trong chương trình mơn Ngữ văn ở các cấp học phổ thơng, văn chính luận hết
sức được coi trọng, do đó, việc tìm hiểu sâu văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh cịn có ý nghĩa cung cấp, củng cố những tri thức chung về thể văn này cho giáo
viên và học sinh.
Đó là những lý do cơ bản thúc đẩy chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài
Nghệ thuật tuyên truyền trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

1


2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài luận án đã xác định, đối tượng nghiên cứu chính của chúng tơi ở
cơng trình này là nghệ thuật tuyên truyền trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án đi sâu tìm hiểu hệ thống các phương thức thuyết phục đối tượng tiếp

nhận thể hiện trong toàn bộ văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (được
tập hợp và in trong Hồ Chí Minh tồn tập gồm15 tập, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự
thật, Hà Nội, 2011), đồng thời cũng chú ý phân tích một số vấn đề có ý nghĩa phương
pháp luận về mối quan hệ giữa tác giả – tác phẩm – độc giả được đặt ra từ đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án hướng tới việc làm rõ và khẳng định những đóng góp mang tính đặc
thù của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, từ đó, rút ra các bài học kinh
nghiệm bổ ích cho cơng tác tun truyền, vận động cách mạng bằng các phương tiện
ngôn từ trong bối cảnh thời đại và đời sống đất nước hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nhìn nhận bao quát về tình hình nghiên cứu nghệ thuật tuyên truyền
trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh và xác lập cơ sở lý thuyết
cho quá trình triển khai các nội dung học thuật, luận án của chúng tôi hướng đến thực
hiện các nhiệm vụ cụ thể:
– Hệ thống hóa, thống kê, phân loại văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh và chỉ ra tính lịch sử, giá trị tuyên truyền của mảng trước tác này.
– Phân tích các đặc điểm nội dung và hình thức của văn chính luận Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử cụ thể theo hướng làm rõ hiệu
quả tác động của chúng trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc.
– Rút ra các bài học về cách viết văn chính luận, cách nâng cao sức mạnh tuyên
truyền của thể văn này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ khoa học nêu trên, luận án sử dụng
phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, đặc biệt là các phương pháp sau đây:
– Phương pháp loại hình: Phương pháp cho phép người nghiên cứu khảo sát,
2


tìm hiểu, đánh giá văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh như một đối

tượng chuyên biệt, phân biệt nó với các thể loại sáng tác khác thuộc văn xuôi hư cấu
và phi hư cấu.
– Phương pháp tiểu sử: Phương pháp hỗ trợ người nghiên cứu chứng minh sự
thống nhất cao độ giữa đặc điểm con người Hồ Chí Minh với những điều được Người
viết ra trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng thời, cũng chứng
minh được cội nguồn sức thuyết phục lớn lao từ những trang văn chính luận ấy.
– Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phương pháp phổ biến trong nghiên
cứu khoa học nói chung, vừa hướng tới phân tích, minh chứng đối tượng cụ thể vừa
xác định những đặc điểm chung, cho phép người nghiên cứu đưa ra được những luận
điểm có căn cứ xác đáng, dựa trên việc xử lý khối lượng dữ liệu phong phú và phức
tạp.
– Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Luận án tìm hiểu văn chính luận của
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh như một tiểu hệ thống trong hệ thống trước tác mà
Người để lại, đồng thời cũng phân tích các yếu tố của tiểu hệ thống này như một cấu
trúc với những quan hệ chặt chẽ.
– Phương pháp so sánh, đối chiếu: Với phương pháp này, người nghiên cứu có
điều kiện chỉ ra được sự biến đổi linh hoạt và đầy hiệu quả trong nghệ thuật tuyên
truyền của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh mỗi khi đối tượng vận
động, tuyên truyền thay đổi.
– Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp này một mặt giúp chỉ ra
được cội nguồn văn hóa của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, mặt khác,
cũng giúp người nghiên cứu thấy rõ sự chi phối của các điều kiện chính trị, xã hội phức
tạp mang tính thời đại đối với những sản phẩm ngôn từ cụ thể được tác giả hoàn thành
trong những thời điểm khác biệt của cuộc đấu tranh cách mạng nhằm giải phóng dân tộc
và xác định con đường phát triển của đất nước.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án xác định được rõ ràng các nhân tố làm nên một phong cách tuyên
truyền, thuyết phục đặc thù của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh – điều
mà phần lớn cơng trình nghiên cứu trước đây chưa chú ý khảo sát, đánh giá với tư cách
là đối tượng chuyên biệt. Luận án cũng chú ý chỉ ra và phân tích toàn diện những

phương thức nghệ thuật được tác giả Hồ Chí Minh sử dụng trong văn nghị luận của

3


mình nhằm đạt mục đích thuyết phục từng đối tượng tiếp nhận cụ thể.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án
được triển khai trong 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài và tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Nhận diện và định vị di sản văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh
Chương 3: Đặc tính tuyên truyền trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh xét từ phương diện nội dung
Chương 4: Đặc tính tuyên truyền trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh xét từ phương diện nghệ thuật
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số giới thuyết về văn chính luận
1.1.1. Khái niệm văn chính luận
Do chịu sự chi phối của khoa học chính trị và tính thời sự, văn chính luận trực
tiếp đề cập những vấn đề chính trị, bàn về những vấn đề đời sống nóng hổi, thiết thân
với nhiều người nên được đơng đảo đối tượng cơng chúng quan tâm. Trong văn chính
luận khơng chỉ có các vấn đề đời sống mà cịn có những giải pháp nhằm giải quyết vấn
đề được nêu lên một cách sáng rõ. Từ điển thuật ngữ văn học, Từ điển Văn học (bộ
mới) được viết bởi các tác giả Việt Nam, Từ điển bách khoa văn học của Viện Hàn lâm
khoa học Liên Xô cũng như nhiều giáo trình Lý luận văn học được dùng phổ biến ở
các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam hiện nay gần như đều thống nhất nhìn nhận
như vậy.
1.1.2. Tính chức năng của văn chính luận

Nhiều chuyên khảo về văn nghị luận (nhất là văn nghị luận thời trung đại) đã đi
đến một nhận thức chung: Văn chính luận ln gắn liền với đời sống văn hóa chính
trị, xã hội của đất nước, thời đại, do đó, người viết phải vận dụng những quy luật, khái
niệm, thuật ngữ của khoa học chính trị và phải xác định được một lập trường chính trị
nhất định. Mặt khác, văn chính luận ln bàn đến những vấn đề thời sự nóng bỏng,
vấn đề cấp thiết của cộng đồng, được nhiều người quan tâm, không chỉ để phản ánh

4


mà còn để đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết vấn đề một cách kịp thời. Chính ở
đây, người viết phải thể hiện được giác quan nhạy bén của mình trước thời cuộc và có
ý thức tham gia vào giải quyết những vấn đề nóng do cuộc sống đặt ra.
1.1.3. Tính thẩm mỹ đặc thù của văn chính luận
Khi nghiên cứu vấn đề này, nhà nghiên cứu lý luận Phương Lựu đã viết: “Riêng
khả năng chuyển hóa từ một văn bản chính luận thành tác phẩm văn học, có thể thấy từ
những mặt sau: Trước hết, xét về cảm hứng của chủ thể được biểu hiện trong bài văn
chính luận. Người viết văn chính luận, dĩ nhiên trước hết là để thơng tin lí lẽ, bàn bạc
vấn đề, nhưng với tất cả nhiệt tình bảo vệ chân lý mà mình theo đuổi. Lí trí, lí luận, lĩ
lẽ ở đây đã đến độ nhuần nhuyễn, chín mùi, gắn bó chặt chẽ hoặc chuyển hóa thành
tình cảm. Và bài văn chính luận, do đó, đã tiếp cận qui luật của nghệ thuật”. Cách nhìn
nhận nói trên nhìn chung rất gần gũi với cách nhìn nhận của nhiều tác giả khác về vấn
đề này, do vậy, nó có một ý nghĩa đại diện nhất định.
1.1.2. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu nghệ thuật tuyên truyền trong văn
chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Trách nhiệm xã hội người cầm bút
Cũng như nhiều nhà yêu nước và cách mạng khác, Hồ Chí Minh ln xác
định rõ trách nhiệm của người cầm bút. Người thường nhấn mạnh quan điểm lấy
ngòi bút làm vũ khí đấu tranh, vừa vạch mặt tố cáo chế độ phong kiến, thực dân, kẻ
xâm lược, vừa truyên truyền, giác ngộ quần chúng, động viên toàn dân dốc sức lao

động kiến thiết cuộc sống mới và hăng hái đấu tranh vì sự nghiệp thống nhất đất
nước.
1.1.2.2. Mối quan hệ giữa nghệ thuật và tuyên truyền
Với cả tư cách tác giả và vị thế người chỉ đạo văn nghệ, Hồ Chí Minh thường
xuyên xác định và yêu cầu tác phẩm (cả văn chương hư cấu và chính luận tuyên
truyền) đều phải đảm bảo 100% về nội dung và 100% về nghệ thuật, nghĩa là không
thiên vị bên nào, tất cả đều phải hướng đến tác phẩm đạt chất lượng cao. Không những
thế, Người nhiều lần nêu bài học kinh nghiệm của bản thân trong việc trau dồi cách
viết và phê phán lối viết cầu kỳ, lan man “dây cà dây muống”.
1.1.2.3. Sự thống nhất giữa phẩm chất nhà cách mạng và phẩm chất người
nghệ sĩ ở Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn thể hiện phẩm chất của một con người
giàu sang khơng thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất

5


phục. Trong buổi tiếp phái đoàn Phật giáo Việt Nam vào thăm tại Phủ Chủ tịch, Hồ
Chí Minh nói: “Tơi cũng học Phật và nhớ được một câu: Mình khơng vào địa ngục cứu
chúng sinh thì ai vào?”. Lời đại nguyện của Hồ Chí Minh thể hiện mong ước của
Người: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành”. Đó cũng chính là lịng “từ bi” mà Đức Phật dạy. Lịng từ bi
đó thể hiện nhất qn trong con người, trong cuộc đời Hồ Chí Minh, từ lời nói đến
việc làm, từ thuở bơn ba hải ngoại tìm đường cứu dân, cứu nước, đến khi Người đã trở
thành Chủ tịch nước.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về nghệ thuật tuyên truyền trong văn
chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
1.2.1. Nghiên cứu về giá trị bao trùm của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh

Đã có khơng ít ý kiến bình luận của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lịch
sử về một số tác phẩm như Tuyên ngôn Độc lập, Di chúc. Một số ý kiến các nhà Việt
học ở nước ngoài bàn về văn chính luận Hồ Chí Minh với những liên hệ, nhận xét,
đánh giá đặt trong tương quan chung với toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng cũng
như sự nghiệp văn thơ của Người. Có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu: E. Sécnơ
(Đức), J. Buđaren (Pháp), N. Khơrútxôp (Nga), M. Lômbácđô (Mêhicô), S.A. Phonin
và E. Kobelev (Nga), Thinaung (Mianma), L. Ogungieran (Mông Cổ), Đ. Cheerrixian
(Cu Ba) v.v…
Có thể kể một số cơng trình nghiên cứu và các ý kiến nhấn mạnh đặc tính tuyên
truyền trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Đó là Hải Triều Lê
(Biên soạn, 2007) với Hồ Chí Minh - Sự hội tụ tinh hoa tư tưởng đạo đức nhân loại,
Nxb Văn hóa - Thơng tin; Trần Qn Ngọc (2013) với Bác Hồ với bạn bè quốc tế,
Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh; Starơbin (2003) với “Gương chính nghĩa là
đạo đức”, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh: Về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Như Ý
tuyển chọn, giới thiệu). Nxb Giáo dục; J. Stern (1985) với Bác Hồ như chúng tôi đã
biết (Trần Đương ghi), Nxb. Thanh niên v.v…
1.2.2. Nghiên cứu về đặc tính tuyên truyền trong văn chính luận Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh
Những nhà chính trị, học giả, nhà nghiên cứu có cơng trình tiêu biểu về đề tài
này là Phạm Văn Đồng, Nguyễn Khánh Tồn, Trần Văn Giàu, Phạm Huy Thơng, Hoài
6


Thanh, Hồng Xn Nhị, Vũ Khiêu, Trương Chính, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến,
Phùng Văn Tửu, Nguyễn Nghiệp, Hà Minh Đức, Thành Duy, Nguyễn Đăng Mạnh,
Nguyễn Đức Nam, Phong Lê, v.v… Có thể nói Nguyễn Đăng Mạnh là một trong số
những nhà nghiên cứu đã thực sự đề xuất các vấn đề giàu ý nghĩa phương pháp luận
đối với nghiên cứu thơ văn Hồ Chí Minh. Ơng đã chứng minh được cái hay đặc thù
của loại văn tuyên truyền, cổ động trong sự nghiệp sáng tác phong phú của Hồ Chí
Minh.

Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về thơ văn Hồ Chí Minh xem ra có
phần trầm lắng. Chính thực tế này đã cho thấy tính bức thiết của việc soi xét giá trị
trước tác của Người trên một tinh thần mới với những dữ kiện mới do sự tiến bộ của
khoa học văn học đưa lại.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở mơ tả, phân tích, xác định kết quả, thành tựu nghiên cứu văn chính
luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cả ở trong nước và nước ngoài trong suốt một
thế kỷ qua, luận án xác định cơ sở lý luận nghiên cứu văn chính luận, kế thừa thành
tựu của thế hệ đi trước và vận dụng lý thuyết tự sự học, nhận thức mới về đặc tính
“liên văn bản” nhằm nhấn mạnh đặc điểm, kết cấu, giọng điệu ngơn ngữ nghệ thuật
tun truyền trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Chương 2
NHẬN DIỆN VÀ ĐỊNH VỊ DI SẢN VĂN CHÍNH LUẬN
NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH
2.1. Di sản văn chính luận trong văn học Việt Nam thời trung đại
2.1.1. Văn chính luận từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVIII
Nói tới tác phẩm văn chính luận thời Lý - Trần, có thể kể đến Chiếu dời đơ của
Lí Thái Tổ, Phạt Tống lộ bố văn của Lí Thường Kiệt, Dụ chư tì tướng hịch văn (hay
cịn được người đời sau gọi là Hịch tướng sĩ) của Trần Quốc Tuấn.
Bước sang thế kỷ XV, đáng nói trước hết là Quân trung từ mệnh tập gồm 62 văn
kiện, thư từ do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết gửi các tướng lĩnh nhà Minh và Bình
Ngơ đại cáo – một tác phẩm chính luận được hậu thế đánh giá là “thiên cổ hùng văn”.
Ở giai đoạn thế kỷ XVI – XVIII, Ngô Thì Nhậm (1746-1803) là tên tuổi nổi bật
nhất về văn chính luận.
7


2.1.2. Văn chính luận thế kỷ XIX
Trong bối cảnh Pháp xâm lược, dưới triều vua Tự Đức, các tác phẩm nghị luận,
chính luận của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch nêu yêu cầu canh tân đất nước

trong cuộc va chạm, đối đầu với sức mạnh tư bản Pháp và phương Tây.
2.2. Văn chính luận trong thời đại giải phóng dân tộc và cách mạng
2.2.1. Sự đa dạng về tư tưởng chính trị
Dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đã có
những thay đổi lớn về mọi mặt, với sự tương tranh của nhiều luồng tư tưởng. Phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ theo sự dẫn dắt của nhiều lí
tưởng cách mạng khác nhau. Chính bối cảnh này đã tác động sâu sắc vào sáng tác
ngôn từ, khiến nó khơng cịn có vẻ thuần nhất như những thời kỳ trước. Thật tự nhiên
khi văn chính luận cũng in đậm dấu ấn đó của thời đại. Điều này có thể nhận thấy rõ
qua tác phẩm của những người đứng ở những vị trí khác nhau trong xã hội, có những
quan điểm nhìn nhận khác nhau về tương lai, vận mệnh của nước nhà.
2.2.2. Những hình thức thể hiện mới
Về thể loại, văn chính luận Việt Nam hiện đại đã dần thoát khỏi được các thể
loại hịch, cáo, chiếu, biểu... hướng đến các tác phẩm gắn liền với báo chí. Tuy nhiên
lực lượng sáng tác thể loại này khơng nhiều so với thành tựu sáng tác hình tượng, hư
cấu.
Về ngơn ngữ sáng tác, văn chính luận giai đoạn giai đoạn đầu thế kỷ XX đã
khơng cịn chịu sự tác động của văn tự cổ Trung Hoa. Chữ Quốc ngữ và văn hóa
phương Tây đã có cuộc lấn sân và thay thế ngơn ngữ, phương thức sáng tác trước đó.
Nhiều văn bản chính luận giai đoạn này được viết bằng tiếng Pháp, đăng trên một số
báo, tạp chí nước ngồi.
2.3. Di sản văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
2.3.1. Văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh từ góc nhìn định
lượng
Theo Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập), trong tổng số 3.300 tác phẩm viết từ 1910
đến 1969, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã viết 228 bài văn chính luận đề cập
những vấn đề chung của đất nước, trong đó có 129 bài cho ngành giáo dục.
Hồ Chí Minh ký 174 bút danh khác nhau dưới các tác phẩm chính luận, trong
khi đó, số lượng bút danh gắn với truyện ký và thơ thì lại rất hạn chế.


8


Hướng cái nhìn định lượng về phương tiện, hình thức lưu truyền, phổ biến, có
thể thấy văn chính luận Hồ Chí Minh có mặt trên nhiều loại báo, tạp chí, sách, công
văn, thư ngỏ, thư trả lời, thư thăm, điện thư; báo cáo, lời kêu gọi, chúc mừng, cổ động,
ý kiến ngắn; phân tích, nhận xét, tiểu luận, bình luận, bài nói chuyện, bài dịch, lược
dịch. Ít có loại sáng tác nào sánh được với khả năng phổ cập, lan tỏa như văn chính
luận Hồ Chí Minh trên nhiều loại báo chí trong và ngồi nước. Điều này cho thấy vốn
tri thức sâu rộng, khả năng ứng chiến linh hoạt trước các loại báo và yêu cầu mỗi loại
chủ đề, mỗi đối tượng tun truyền và trình độ, sở thích bạn đọc khác nhau.
2.3.2. Văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh qua hai giai đoạn
hoạt động cách mạng
Giai đoạn 1911 – 1941
Văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc được viết ra trong giai đoạn này đều
hướng đến mục đích phanh phui những mặt trái của chế độ thực dân, chính sách khai
hóa thuộc địa, số phận người lao động ở bản xứ và chính quốc; đồng thời là các báo
cáo, thư yêu cầu, đề xuất về đường lối cách mạng Việt Nam, Đông Dương, khu vực
châu Á, phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản thế giới nói chung. Điểm
nhấn ở đây là mối quan tâm và sự mở rộng diện quan sát, phản ánh trong văn chính
luận Hồ Chí Minh về số phận các thuộc địa từ An Nam đến Đông Dương và châu Á,
cho đến việc điểm danh các thuộc địa vùng Tân thế giới, lục địa Đen, châu Phi và Mỹ
La tinh.
Sau thời gian ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc bôn ba qua nhiều quốc gia khác nhau
gồm có nước Nga, Trung Quốc, Thái Lan… Trong thời gian này, Hồ Chí Minh viết
khoảng trên dưới 200 bài báo chính luận. Các bài chính luận chủ yếu là báo cáo chính
trị, báo cáo các sự kiện xã hội, báo cáo tình hình nơng dân và nhấn mạnh phong trào
cách mạng ở Trung Quốc và Việt Nam với Quốc tế Cộng sản.
Giai đoạn 1941 – 1969
Theo Hồ Chí Minh tồn tập, từ tập 3 đến tập 15, xuất bản năm 2011, trong thời

gian 28 năm (1941 – 1969), Hồ Chí Minh đã viết khoảng trên dưới 2500 tác phẩm
chính luận. Do cộng tác với nhiều báo, viết với nhiều mục đích, nhiều vấn đề, phục vụ
nhiều đối tượng cũng như với nhiều cách thức thể hiện khác nhau nên Người sử dụng
khoảng 90 trên tổng số 175 bút danh.
Khác với giai đoạn đầu chủ yếu viết bài bằng tiếng nước ngoài, giai đoạn này
Hồ Chí Minh chủ yếu viết văn chính luận bằng tiếng Việt và in trên các loại báo chí
9


trong nước. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm viết bài cho báo Nhân dân (Cơ quan
Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam). Trải qua 18 năm (1951 – 1969), Hồ Chí
Minh đã đăng 1.206 bài viết trên báo Nhân dân với 23 bút danh.
Việc định lượng, nghiên cứu so sánh các tác phẩm văn chính luận Hồ Chí Minh
trước và sau năm 1941 cho thấy ở giai đoạn trước tác giả dùng nhiều bút danh ngoại
quốc, nghiêng về đề cập những vấn đề đấu tranh tầm quốc gia, dân tộc, quốc tế, phần
nhiều được viết bằng tiếng nước ngồi, khơng được lưu truyền cơng khai, thậm chí cần
bảo mật; thì ở giai đoạn sau, Người thường dùng các bút danh quen thuộc trong một số
chuyên đề, chuyên mục, tập trung bàn về các vấn đề nội bộ, cụ thể trong nước, có tính
thời sự, chủ yếu viết bằng tiếng Việt và được công bố rộng khắp tới các vùng miền và
cho các đối tượng bạn đọc khác nhau.
2.3.3. Đánh giá chung về tầm vóc tư tưởng, nghệ thuật và sức tác động của
văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
Văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh có sự đồng dạng với
truyện ký và thơ ca ở ý thức nhấn mạnh quyền lợi người lao động, thức tỉnh đồng bào.
Có thể thấy Nhật ký trong tù (1942-1943) của Hồ Chí Minh gồm 135 bài cũng có sự
tương hợp sâu sắc với phong cách văn chính luận ở tinh thần quả cảm, ý chí vượt gian
khó và tiếng nói hài hước, lạc quan, tin tưởng vào tương lai đất nước.
Sau này, khi đối tượng tiếp nhận chủ yếu là các tầng lớp nhân dân, sáng tác của
Người ân cần, gần gũi, tôn trọng, khiêm nhường, theo đó, sự tun truyền trong văn
chính luận cũng mang một màu sắc khác, cốt làm thế nào để nhân dân thấy nhẹ nhàng,

dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Khơng phải ngẫu nhiên mà hình thức thơ ca được Người
sử dụng nhiều để chuyên chở các nội dung chính luận.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Người lên tiếng mạnh mẽ trong lời hiệu triệu,
tác động sâu sắc đến cơng chúng chiến sĩ, đồng bào bằng ý chí quyết tâm đánh giặc
cứu nước và tin vào ngày mai tất thắng.
Nhìn chung, những yếu tố đặc thù của tình huống giao tiếp ln được Hồ Chí
Minh chú ý khai thác trong văn chính luận của Người. Ở từng hồn cảnh giao tiếp cụ
thể, việc lựa chọn ngôn ngữ và tổ chức văn bản luôn được cân nhắc để các tác phẩm
khơng chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà cịn tác động mạnh mẽ đến nhận thức của
người tiếp nhận. Có thể nói văn chính luận tun truyền của Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh có được sức tác động sâu sắc tới cơng chúng chính bởi tầm vóc tư tưởng và
khả năng chinh phục, truyền cảm sâu rộng.
10


Tiểu kết chương 2
Dịng văn nghị luận, chính luận Việt Nam đã có truyền thống phát triển lâu dài,
khởi nguồn từ thế kỷ X, qua suốt thời trung đại đến giao thời cận đại và hiện đại. Trên
cơ sở tìm hiểu diện mạo, đặc điểm, thành tựu lớn của văn chính luận thời trung đại,
cận hiện đại, hiện đại với các đại biểu ưu tú, có thể xác định rõ nét sự tiếp nối, phát
triển và vị trí của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh Rõ ràng văn chính
luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh có sự kế thừa truyền thống nhưng cũng có khác
biệt so với các chí sĩ yêu nước và nhà cách mạng trước đó, kể từ mục đích, đối tượng,
nội dung và nghệ thuật tuyên truyền. Những thống kê, phân loại dựa trên nhiều tiêu chí
như mục đích, cơ sở địa chính trị, địa văn hóa, bút danh, phương tiện ngơn ngữ,
phương thức lưu truyền, số lượng tác phẩm, hình thức phổ biến, đối tượng tiếp nhận
cho thấy sự thống nhất cao giữa cốt cách nhà cách mạng thiên tài Hồ Chí Minh và cây
bút chính luận lấy văn chương như một phương tiện, vũ khí đấu tranh cách mạng.
Chương 3
ĐẶC TÍNH TUYÊN TRUYỀN TRONG VĂN CHÍNH LUẬN

NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
3.1. Sự ý thức sâu sắc về đối tượng tiếp nhận – điều kiện đảm bảo tính thuyết
phục của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
3.1.1. Ý thức về đối tượng tiếp nhận trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh
3.1.1.1. Ý thức sáng rõ về đối tượng tiếp nhận – một biểu hiện của quan hệ mới
giữa tác giả và độc giả trong đời sống văn học hiện đại
Sự ý thức sáng rõ về đối tượng tiếp nhận chứng tỏ khả năng nhập cuộc, nắm bắt
và làm chủ tình hình của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trong quan hệ giữa tác giả
và độc giả, đề cao tính thời sự, tính hiệu quả trong hoạt động tuyên truyền khi lấy văn
chính luận làm vũ khí đấu tranh cách mạng. Đây cũng là điều kiện, tiêu chí và cơ sở để
phân loại văn chính luận Hồ Chí Minh theo nhiều dịng chủ đề, đề tài, phạm vi chiến
lược, sách lược và đối tượng khác nhau.
3.1.1.2. Sự thể hiện của ý thức về đối tượng tiếp nhận khi viết văn chính luận
của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh

11


Từ sự cảm thông, hiểu biết đối tượng tuyên truyền, Người tạo nên những diễn
ngơn phù hợp, khi thì hướng đến những mục tiêu chung, khi thì khơi gợi những nhiệm
vụ cụ thể, khi tạo sự đồng cảm với lời động viên, chia sẻ.
Có thể xây dựng thành nhiều cặp đối lập để xác định những dấu hiệu thể hiện
sự ý thức sáng rõ về đối tượng tiếp nhận trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh: nhân dân Việt Nam và kẻ thù xâm lược, nhân dân u chuộng hịa bình
Pháp – Mỹ và chính quyền diều hâu Pháp – Mỹ, giai cấp lao động bị áp bức và kẻ
thống trị, xã hội mới và xã hội cũ, việc làm tốt và chưa tốt trong nội bộ nhân dân ta.
Trong phạm vi cụ thể, những dẫn chứng đối lập ở tầm mâu thuẫn quốc gia, dân tộc,
giữa đấu tranh giải phóng dân tộc và kẻ xâm lược, giá trị nhân văn và tội ác kẻ thù như
đã nêu chính là thử thách ở tầm cao tư tưởng Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh khi

Người xác định đối tượng tiếp nhận trong văn chính luận.
3.1.2. Hệ thống đối tượng tiếp nhận trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh
3.1.2.1. Đối tượng tiếp nhận là kẻ thù giai cấp và tư tưởng
Khi đối diện trực tiếp với các kẻ thù xâm lược, Người sáng tạo diễn ngôn phù hợp
từng đối tượng, khi là từng cá nhân cụ thể, khi chỉ rõ trách nhiệm của cả thể chế tổ chức
chính phủ, khi nhấn mạnh bè lũ, phe nhóm, khi chỉ trích mưu mơ, đường lối sai lầm, hắc
ám.
3.1.2.2. Đối tượng tiếp nhận là quần chúng nhân dân, nhân loại tiến bộ
Trong mọi lĩnh vực công tác, Hồ Chí Minh khẳng định, khơng thể khơng xuất
phát từ quan điểm và lợi ích của nhân dân. Gắn với nhân dân luôn là nguyên tắc tư
tưởng, hành động của Hồ Chí Minh.
Có thể nói, những yếu tố của tình huống giao tiếp, đối tượng giao tiếp trong các
văn bản chính luận Hồ Chí Minh có những đặc điểm vơ cùng quan trọng: từ bối cảnh
lịch sử đến vị thế xã hội người tạo lập diễn thuyết; đối tượng tiếp nhận; mục đích và đề
tài, chủ đề phản ánh. Tất cả những yếu tố này đều có những đặc điểm riêng và thay đổi
qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau: trước và sau năm 1941. Do đó, cùng với các yếu
tố khác của văn chính luận, chúng giữ vai trò quan trọng trong việc chi phối và tác
động mạnh mẽ đến q trình tạo lập diễn ngơn của tác giả, từ việc lựa chọn ngôn từ
đến cách thức tổ chức diễn ngôn sao cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể và trong
từng ngữ cảnh giao tiếp cụ thể để tác động mạnh mẽ đến nhận thức của con người, đưa
con người vào các quá trình cách mạng làm thay đổi bản thân và hoàn cảnh.
12


3.1.2.3.Việc hướng tới đồng thời các đối tượng tiếp nhận khác nhau trong văn
bản chính luận
Thực tế cách thức hướng tới đồng thời các đối tượng tiếp nhận khác nhau trong
cùng một văn bản chính luận phản ánh mối quan tâm của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh tới đối tượng con người, sự kiện, phạm vi đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa

rộng lớn, mn màu mn sắc. Điều này tạo nên khả năng cô đúc trong một bài chính
luận tuyên truyền nhiều nội dung khác biệt nhau, cùng lúc đưa đến cho nhiều đối
tượng tiếp nhận những nhận thức, bài học bổ ích.
3.1.3. Hiệu quả tuyên truyền từ việc thấu hiểu đối tượng tiếp nhận trong văn
chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
Việc thấu hiểu đối tượng tiếp nhận đã tạo cho văn chính luận của Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh đạt được một hiệu quả tuyên truyền rất lớn. Ở bất cứ giai đoạn
hoạt động cách mạng nào Người cũng có những tác phẩm mẫu mực. Việc ghi nhận giá
trị của chúng không chỉ được thực hiện dựa trên sự phân tích văn bản mà chủ yếu dựa
trên sự nghiên cứu về tầm ảnh hưởng lớn lao của tác phẩm đối với đời sống xã hội, kể
từ khi chúng ra đời cho tới hôm nay. Dường như mọi đối tượng, mọi tầng lớp nhân dân
đều rút ra từ trước tác của Người nhưng lời quý báu, được xem như phương châm
hành động, như ngọn lửa soi đường. Điều này chứng tỏ mọi tác phẩm chính luận của
Người đều có một đích đến rất cụ thể và người đã dành cho đối tượng tiếp nhận một sự
quan tâm sâu sắc.
3.2. Công khai mục đích viết và xác lập tư tưởng tiến bộ – nền tảng sức
thuyết phục trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
3.2.1. Xác định công khai mục đích viết như là địi hỏi tất yếu của loại hình
văn học cách mạng
3.2.1.1. Một số đặc điểm cơ bản của loại hình văn học cách mạng
Văn học cách mạng là một loại hình sáng tác ngơn từ rất phổ biến của thời cận
đại và hiện đại trong lịch sử thế giới. Chủ thể của loại hình sáng tác này là những con
người nhiệt thành cổ vũ cho những lí tưởng cách mạng (tư sản hoặc vô sản) hoặc bản
thân là những nhà cách mạng, có ý thức dùng ngịi bút để đấu tranh lật đổ chế độ cũ
nhằm xây dựng nên chế độ mới tốt đẹp hơn. Xét về thi pháp, văn học cách mạng có thể
dùng thi pháp của văn học hiện thực chủ nghĩa, lãng mạn chủ nghĩa, tượng trưng chủ
nghĩa,... đồng thời cũng kiến tạo một hệ thống thi pháp riêng. Tuy nhiên, về nội dung,
tư tưởng được thể hiện là tư tưởng cách mạng. Đặc điểm nổi bật của loại hình văn học
13



cách mạng là công khai về tư tưởng. Tư tưởng chính trị, quan điểm thẩm mĩ thường
được tuyên bố rõ ràng, tác động ngay vào nhận thức của người đọc, nhất là người đọc
đại chúng.
3.2.1.2. Đòi hỏi của văn học cách mạng đối với việc cơng khai mục đích viết
Trên thực tế, bản chất nội dung văn học cách mạng bao giờ cũng gắn với nhiệm
vụ chính trị, với tính dân tộc và nhân dân.
Nội dung văn chính luận thể hiện tinh thần cách mạng và sự đổi mới trong quan
niệm và cả cách thức vận dụng quan điểm chủ nghĩa nhân văn mác-xit vào tìm hiểu,
phân tích, nhận định các đối tượng khác nhau qua các thời kỳ lịch sử. Điều này làm
nên tính định hướng, tính mục đích, ý nghĩa nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ của nền
văn học cách mạng vô sản, chiến đấu, vị nhân sinh và cơng khai đấu tranh vì lợi quyền
giai cấp, quốc gia, dân tộc.
3.2.2. Tinh thần cách mạng và tính nhân văn trong văn chính luận Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh
Tính nhân văn là một phần phẩm chất đặc biệt quan trọng làm nên giá trị tư
tưởng, tinh thần trong văn chính luận Hồ Chí Minh. Trên cơ sở khảo sát nội dung văn
chính luận có thể thấy rõ nền tảng cơ bản cùng giá trị đích thực của chủ nghĩa nhân
văn Hồ Chí Minh trong hiện tại và cả ở tương lai của dân tộc, nhân loại.
Điều thú vị là văn chính luận Hồ Chí Minh đã khẳng định những phương diện
mới mẻ, những đóng góp riêng, độc đáo của phẩm chất nhân văn Hồ Chí Minh cho
chủ nghĩa nhân văn hiện đại. Những nội dung nhân văn đó có thể được đúc kết trên ba
khía cạnh cơ bản: Nhân quyền và quyền độc lập dân tộc – Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội – Xây dựng con người mới phù hợp thực tế cách mạng Việt Nam.
3.2.3. Tính dân tộc và nhân dân trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc –Hồ Chí
Minh
Phù hợp với cuộc đời phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng, vì dân vì nước, văn
chính luận Hồ Chí Minh xem quyền lợi của dân tộc và nhân dân là mục tiêu cao cả,
xem nhiệm vụ tuyên truyền đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và vận động
quần chúng nhân dân là sứ mệnh quan trọng. Chính trên cơ sở đó mà mỗi tác phẩm

chính luận Hồ Chí Minh trong từng giai đoạn đều thể hiện sát sao yêu cầu của thời đại
và của dân tộc mình, phản ánh đầy đủ nội dung và yêu cầu nhiệm vụ trong sự tương
tác, gắn kết với nhau. Hồn tồn có thể khẳng định nội dung thời đại và tinh thần yêu
nước, vì đại nghĩa dân tộc nhân dân lao động đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng
14


văn chính luận Hồ Chí Minh qua mọi giai đoạn cách mạng.
3.2.4. Khả năng vẫy gọi của lập trường tư tưởng cách mạng, tiến bộ trong
văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
Văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ln có sức vẫy gọi lớn lao.
Yếu tố quyết định điều này chính là lập trường tư tưởng cách mạng được Người truyền
tải bằng tất cả tâm huyết và lịng tin. Chính vì vậy, tư tưởng cách mạng khơng cịn tồn
tại như một cái gì thuần lí khơ khan nữa mà như những lời thốt ra từ trái tim. Khơng
phải tác phẩm chính luận nào của Nguyễn Ái Quốc – Hồ CHí Minh cũng là lời kêu
gọi, nhưng tính chất kêu gọi vẫn rất đậm nét. Điều này một phần tuỳ thuộc vào cách
tiếp nhận của người đọc. Rõ ràng, ở đây, tư tưởng cách mạng đã phát huy hiệu lực lớn
của nó đối với quần chúng nhân nhân, thơng qua vai trị truyền bá của một con người
đặc biệt theo cách nhìn nhận của những tầng lớp xã hội đang mong mỏi một sự thay
đổi tích cực trong cuộc sống.
3.3. Sự kết tinh văn hóa Đông – Tây trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc
– Hồ Chí Minh
3.3.1.Tinh hoa văn hóa phương Đơng trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc
– Hồ Chí Minh
Năng lực hấp thụ tinh hoa văn hóa phương Đơng của văn chính luận Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh thể hiện ở sự thấm nhuần sâu sắc bản sắc văn hóa truyền
thống của dân tộc. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã thể hiện diễn ngôn tuyên truyền
các giá trị nhân văn bằng cách thâu thái phẩm chất tốt đẹp của nhiều vĩ nhân, nêu lên
những thực tế giàu tình thuyết phục.
Văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh còn thể hiện khả năng

khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trong bối cảnh chính bản thân hệ thống tư tưởng
này bất lực trước việc nhận thức, tuyên truyền và luận giải hiện thực xã hội Việt Nam
vốn đã biến đổi sâu sắc từ giữa thế kỷ XIX trước sự xâm lược của thực dân phương
Tây.
3.3.2.Tinh hoa văn hóa phương Tây trong văn chính luận của Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh
Văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh khai thác tinh hoa tư
tưởng Nho giáo trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng
mácxít, trên cơ sở vốn văn hố phương Tây phong phú, và luôn gắn liền việc khai thác

15


các di sản tư tưởng - văn hoá, với thực tiễn giải phóng và phát triển đất nước, với việc
giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
3.3.3. Sức hấp dẫn của việc kết nối văn hóa phương Đơng và văn hóa
phương Tây trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh trong tồn bộ trước tác của Người là một di
sản lớn của dân tộc Việt Nam, phản ánh sinh động q trình hồn thiện của hệ giá trị
tinh thần Việt Nam trong lịch sử và trong thế kỷ XX. Đó là sự kết tinh những tinh hoa
của tư tưởng đạo đức truyền thống và tư tưởng đạo đức cách mạng, thơng qua vai trị
tổng hợp của một cá nhân xuất chúng. Cho đến nay, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
vẫn được xác định là một giá trị nền tảng, làm chỗ dựa cho toàn bộ hoạt động, ứng xử
của con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Có thể nói tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh vừa mang đặc thù dân tộc vừa có tính phổ biến tồn nhân loại.
Tiểu kết chương 3
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đều lấy nhân dân làm
đối tượng phục vụ, lấy quan điểm quần chúng làm phương châm cơng tác, lấy chính
nghĩa u nước và chân lý của học thuyết Mác - Lênin làm sức mạnh tuyên truyền,
động viên, cổ vũ và dìu dắt quần chúng tham gia cách mạng và quản lý đất nước theo

con đường chủ nghĩa xã hội khoa học. Khi viết hay nói chuyện với bất kỳ đối tượng
nào, Người cũng ln tìm những mẫu số chung giữa đối tượng với mình để thuyết
phục cùng nhất trí về quan điểm, cách giải quyết các vấn đề thực tiễn đời sống (hịa
bình, quyền độc lập và tự quyết dân tộc, quyền con người, chính nghĩa, tiến bộ xã hội).
Người rất khéo tìm điểm gặp gỡ giữa các đối tượng ở mọi miền Đông – Tây trên thế
giới với nhiều cấp độ cao thấp, rộng hẹp khác nhau từ tuổi tác, tâm lí, văn hóa, hồn
cảnh riêng, từ các quan hệ đồng hương, đồng bào, đồng chí đến đồng bang, đồng
chủng đến các vùng miền, dân tộc, ngành nghề, lứa tuổi hoặc các phẩm cấp thuộc
phạm trù toàn nhân loại, quy luật của tự nhiên tạo hóa. Từ đó Người ln giải quyết
các vấn đề cụ thể, có khi chỉ của một nơi, một người trong tương quan hài hòa với cái
chung rộng lớn, gắn bó tự nhiên, hợp lẽ với nhiều đối tượng, nhiều việc, nhiều nơi và
nguyện vọng, suy nghĩ tiến bộ của hàng triệu triệu con người.

16


Chương 4
ĐẶC TÍNH TUYÊN TRUYỀN TRONG VĂN CHÍNH LUẬN
NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH
XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
4.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sử dụng ngôn từ nghệ thuật trong văn
chính luận
4.1.1. Hồ Chí Minh với việc trau dồi nghệ thuật viết văn chính luận
Trong cả cuộc đời viết văn, viết báo và sử dụng ngôn từ nghệ thuật trong văn
chính luận, Hồ Chí Minh thường xuyên học hỏi, trau dồi kiến thức và rèn luyện kỹ
năng viết. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trau dồi nghệ thuật viết văn chính luận
khơng phải trong nhà trường mà được rèn luyện từ thực tế cuộc sống, kể cả các bài báo
tiếng Pháp, bắt đầu từ những tin ngắn rồi nhờ người có chun mơn sửa chữa, qua đó
học lấy kinh nghiệm. Đến khi trở về nước, Người vẫn giữ thói quen này, thậm chí với
những đối tượng trình độ học vấn thấp lại cần đọc cho họ xem đã hiểu rõ chưa rồi tìm

cách viết cho thật bình dân, quần chúng. Chính nhờ trau dồi ngịi bút bằng chính sự
trải nghiệm cuộc sống sâu rộng, đa diện mà văn chính luận của Người trở nên uyên
bác, sinh động, đủ sức đáp ứng với mọi đề tài, phạm vi nội dung và đối tượng tiếp
nhận.
4.1.2. Tương hợp giữa ngôn từ nghệ thuật và hệ thống chủ đề trong văn
chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
Về bản chất, tương hợp giữa ngôn từ nghệ thuật và hệ thống chủ đề trong văn
chính luận Hồ Chí Minh nói riêng cũng như trong văn học, nghệ thuật nói chung chính là
khả năng tự ý thức trước trang viết, việc xác định mục đích, đặc biệt gắn với nhiệm vụ
hoạt động tuyên truyền, giáo dục, định hướng tư tưởng cách mạng.
Theo một nghĩa rộng, sự tương hợp, phù hợp, gắn kết ngôn từ nghệ thuật và hệ
thống chủ đề trong văn chính luận Hồ Chí Minh trước hết là sự qui định của đặc điểm
nội dung chủ đề, đề tài đến thể tài, thể loại, tiểu loại khác nhau.
4.2. Vấn đề tích hợp thể loại trong văn chính ḷn của Nguyễn Ái Q́c – Hồ
Chí Minh
4.2.1. Diễn ngơn “người quan sát”
Có thể thấy khá rõ văn chính luận Hồ Chí Minh giai đoạn trước 1941 thường
trung tính, chủ thể ẩn, thiên về thông tin sự kiện, sự vụ, tin tức; chiếm tỉ lệ cao là lối
17


văn chức năng hành chính, nghị luận, báo cáo qua các nhan đề kiểu như chỉ ngắn gọn
có địa danh.
Bước sang giai đoạn từ 1941, diễn ngôn chủ thể tác giả và người quan sát trong
văn chính luận Hồ Chí Minh cũng trở nên rộng mở, đa phương, đa diện, phong phú,
sinh động hơn nhiều. Bên cạnh các hoạt động đối ngoại với cương vị chính khách, Chủ
tịch Đảng, Chủ tịch Nước, trên thực tế, Hồ Chí Minh đã chủ ý chuyển hóa nhiều mối
quan hệ ngoại giao quốc tế thành quan hệ gia đình, thân tộc, bằng hữu, anh em, bạn bè.
Từ nhận thức trên có thể soi chiếu vào văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh để hiểu góc độ chủ thể “người quan sát” – khi là tiếng nói vơ nhân xưng đại

diện cho cộng đồng, quốc gia, dân tộc, khi đại diện cho giai cấp những người cùng
khổ; có khi ở cương vị Chủ tịch nước và tổ chức chính đảng, có khi là ngơn ngữ nhà
chính trị, nhà qn sự, nhà ngoại giao, có khi kết hợp ngơn ngữ đồng chí, bạn bè, gia
đình, bác cháu.
4.2.2. Diễn ngơn thơng tin tư liệu
Trong thể loại văn chính luận, diễn ngơn thơng tin tư liệu có một vai trị đặc
biệt quan trọng bởi đó là “những con số biết nói”. Vào giai đoạn đầu, trong các bài báo
chính luận tiếng Pháp, Hồ Chí Minh triệt để vận dụng các phương pháp, thao tác dẫn
giải tư liệu và thống kê để đi đến các kết luận cần thiết.
Tập phóng sự điều tra Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) của Nguyễn Ái
Quốc có 12 chương. Có thể thấy chương nào cũng đậm đặc các con số, những thống
kê về số lượng rượu, số tiệm thuốc phiện, địa chỉ lính thuộc địa chết trận, số phu dịch,
số thuế, số chi tiêu ngân sách, số thuế thân, số tiền phạt, số vụ đàn áp, số vụ tàn sát, số
vụ đánh đập, số vụ tù tội, số vụ nổi dậy, số “nô lệ thức tỉnh”.
Trong suốt các chặng đường hoạt động sau này, Hồ Chí Minh khi viết văn
chính luận vẫn ln đề cao diễn ngơn thơng tin tư liệu, xác định từ số máy bay Mỹ bị
bắn rơi đến số nhà máy, xí nghiệp, số cây trồng, con người, địa chỉ, thời gian, sự việc
cụ thể. Có thể nói tư duy con số, tư duy định lượng đã trở thành một kỹ năng phản ánh
hiện thực trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, khiến cho văn
chính luận giàu chất ký sự, phóng sự và cũng là những sự kiện, con số mang tính lịch
sử, khơng thể phản bác, chối cãi.
4.2.3. Diễn ngơn luận chiến
Diễn ngơn luận chiến trong văn chính luận Hồ Chí Minh chủ yếu được thực
hiện khi đối diện với kẻ địch, với cái sai, cái xấu. Có thể tìm thấy rất nhiều những dẫn
18


chứng cụ thể sinh động về cách sử dụng ngôn từ nghệ thuật sâu cay, mạnh mẽ, quyết
liệt trong việc đả kích quân xâm lược và mọi loại kẻ thù cũng như nhắc nhở, góp ý,
phê phán những việc làm chưa tốt.

Có thể khẳng định tiếng nói luận chiến Hồ Chí Minh thể hiện tính chiến đấu
trên cơ sở quan điểm đấu tranh vì tiến bộ xã hội, vì các giá trị nhân văn, vì tính kỷ luật
trong tổ chức Đảng, vì lẽ phải, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước
phát triển vững mạnh và cuộc sống nhân dân ấm no, hạnh phúc.
4.2.4. Diễn ngôn trữ tình
Diễn ngơn trữ tình trong văn chính luận Hồ Chí Minh thể hiện các giá trị nhân
văn, tình yêu thương con người, niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Diễn ngơn trữ
tình có thể là tiếng nói trực tiếp, thể hiện trực diện hoặc là tiếng nói trữ tình ngoại đề,
đan xen giữa các sự kiện, lời bình luận. Diễn ngơn trữ tình trong văn chính luận Hồ
Chí Minh chủ yếu dành cho những người cùng cảnh ngộ, những số phận bị chà đạp,
những người cùng chí hướng, đơi khi là những đối tượng lầm đường lạc lối.
Diễn ngôn trữ tình đã trở thành phẩm chất và một thành phần ngơn từ nghệ
thuật trong mỗi tác phẩm văn chính luận Hồ Chí Minh. Tùy thuộc vào từng đối tượng
mà Người biểu thị những mức độ tiếng nói trữ tình khác nhau, trước sau nhằm thức
tỉnh lương tri con người, phân hóa lực lượng và tranh thủ sự đồng tình của lớp người
u chuộng hịa bình. Sau này, tiếng nói trữ tình ấm áp tạo nên phong cách diễn ngơn
trữ tình trong văn chính luận Hồ Chí Minh càng thể hiện sâu sắc trong các bức thư gửi
đồng chí, đồng bào, các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên, nhi đồng, thư chúc tết hàng
năm, kể cả cho đến Di chúc.
4.3. Hệ thống biện pháp tu từ trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh
4.3.1. Hệ thống biện pháp trùng điệp
Biện pháp trùng điệp trong văn chính luận Hồ Chí Minh thể hiện trong việc sử
dụng hình ảnh, biểu tượng, từ ngữ lặp đi lặp lại, có khi tăng tiến nhằm tập trung nhấn
mạnh vấn đề. Biện pháp trùng điệp có thể được thực hiện bằng láy chủ ngữ, láy từ, láy
đối tượng, láy ý nghĩa và có thể kết hợp với hình thức câu hỏi, câu phản biện, giải
thích.
Hệ thống biện pháp lập luận trùng điệp trong văn chính luận Hồ Chí Minh
thường được thể hiện ở những văn bản cần được nhấn mạnh, tạo ấn tượng. Tính chất


19


trùng điệp này có thể tạo sự liên kết ở một số ngôn từ dùng trong nhiều văn cùng
chung một chủ đề, một đối tượng, một loại tác giả và đặc biệt thể hiện sâu sắc ngay ở
từng tác phẩm.
4.3.2. Hệ thống biện pháp ghép mảnh
Biện pháp ghép mảnh trong văn chính luận Hồ Chí Minh chính là cách thức
đan xen các ý, câu chữ có tính độc lập tương đối xếp chồng bên cạnh nhau, tiếp nối
nhau, hình dung như một bức tranh nhiều đường nét, hình khối, màu sắc. Biện pháp
ghép mảnh trong văn chính luận Hồ Chí Minh thể hiện rõ ở những tác phẩm dài, đề
cập đến nhiều vấn đề rộng lớn. Ở cấp độ cấu trúc, có thể coi Bản án chế độ thực dân
Pháp (1925) của Nguyễn Ái Quốc với các mảnh ghép 12 chương, mỗi chương theo
một chủ điểm, một đối tượng, phạm vi và liên kết trong một chỉnh thể thống nhất.
Biện pháp ghép mảnh thể hiện trong nhiều tác phẩm văn chính luận Hồ Chí
Minh và đã được Người đúc kết thành quan điểm, bài học kinh nghiệm qua các bài
phát biểu, nói chuyện, bài báo, trả lời phỏng vấn nổi bật như Vừa đi đường vừa kể
chuyện, Thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng (I và II, 1949), Bài nói chuyện
tại Đại hội lần thứ hai của Hội Nhà báo Việt Nam (1959), Nhân kỷ niệm 50 năm ngày
mất của Đại văn hào Nga L.N. Tônxtôi (1960), Bài nói chuyện tại Đại hội Văn nghệ
tồn quốc lần thứ ba (1962).
4.3.3. Hệ thống biện pháp chơi chữ
Hệ thống biện pháp chơi chữ trong văn chính luận Hồ Chí Minh thể hiện sâu
rộng với số lượng lớn, đưa lại hiệu quả nghệ thuật cao và sự tiếp nhận thú vị. Với vốn
ngoại ngữ và kiến văn sâu rộng, bên cạnh tiếng Việt, Hồ Chí Minh cịn thực hiện chơi
chữ qua nguồn tiếng Pháp, Anh, Hán… Các thủ pháp chơi chữ thể hiện chủ yếu từ
cách đặt nhan đề, cách đọc chệch từ cận âm, cách hiểu lệch nghĩa, cách nói ngược
nghĩa, cách nói nhấn, nói láy, cách mượn hình ảnh, ngữ nghĩa phái sinh và thành ngữ,
tục ngữ, ca dao, lẩy Kiều để triển khai, mở rộng nghĩa gốc.
Cách đặt nhan đề trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh in đậm

dấu ấn phong cách nghệ thuật chơi chữ. Trong một số bài báo, Hồ Chí Minh sử dụng
lối chơi chữ rất đắt, như gọi chệch tên của Bộ trưởng thuộc địa Pháp Lơtuốcnô thành
“Lơ nhuốc nhơ”, hoặc viết “Trên trần ai, ai cũng ghét ai” để chế giễu việc Aixenhao bị
mất ghế tổng thống năm 1961.
Có thể khẳng định Hồ Chí Minh quả là một bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ báo

20


chí, bởi ở Người hội tụ được vốn tri thức văn hóa Đơng - Tây, một sự trải nghiệm
trong cuộc sống, một tinh thần chiến đấu cao cùng với một nghệ thuật viết báo cao
cường.
4.3.4. Hệ thống biện pháp phản vấn
Theo cách hiểu phổ thông, biện pháp phản vấn là thao tác đặt câu “cách hỏi
ngược”, “hỏi vặn lại”, “dùng đại từ nghi vấn để hỏi ngược” và là “hình thức khẳng
định để nhấn mạnh phủ định”. Trước hết, chủ thể thực hiện cú nghi vấn là tác giả,
hướng đến đối tượng tiếp ngôn là kẻ thù. Với đối tượng này, thái độ của người viết
thường mang sắc thái mỉa mai, châm biếm, mục đích để khẳng định thơng tin và
hướng đến vạch trần tâm địa và tội ác của “tiếp ngơn thể”. Theo kết quả khảo sát của
Trần Bình Tuyên trong Văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh từ góc
nhìn lý thuyết phân tích diễn ngơn, trước năm 1945, các diễn ngơn chính luận của
Nguyễn Ái Quốc xuất hiện bao gồm các câu hỏi, câu phản vấn xuất hiện đậm đặc hơn
hẳn giai đoạn sau. Tuy nhiên, những cú nghi vấn này, người hỏi là tác giả hoặc chuyển
vai hỏi cho đối tượng là người dân bản xứ, người dân các nước thuộc địa và tiếp ngơn
thể thực dân Pháp nói chung hoặc những đối tượng cụ thể với mục đích cơ bản khơng
phải là mong muốn nhận sự phản hồi của đối tượng được hỏi.
Trong một số trường hợp, nghệ thuật phản vấn trong văn chính luận Hồ Chí
Minh được thể hiện ngay từ cách đặt nhan đề và triển khai như một cấu trúc hình thức
lơgic trong tồn bài.
Nhìn từ phương diện diễn ngơn, các biện pháp phản vấn trong văn chính luận

Hồ Chí Minh thể hiện như một thủ pháp tâm lý nghệ thuật, một năng lực dẫn giải,
tuyên truyền, thuyết minh ở trình độ cao. Khơng đơn thuần chỉ là câu hỏi, các hình
thức phản vấn thấm sâu trong cấu trúc văn bản, liên hệ chặt chẽ với các thành phần
nghệ thuật khác làm thành kiểu diễn ngơn chính luận Hồ Chí Minh thực sự độc đáo,
sinh động, giàu tính biểu cảm thẩm mỹ, có tính thuyết phục cao và dễ đi vào lịng
người.
Tiểu kết chương 4
Hình thức ngơn từ nghệ thuật trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh thể hiện thực sự sâu sắc, sinh động, tạo thành những văn bản đa dạng, sinh
động, tương hợp với từng nội dung cụ thể. Người từng nhiều lần nói rõ về kinh nghiệm
viết văn chính luận cũng như viết báo và sáng tác nói chung. Về nội dung văn chính
21


luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh có thể phân loại tương đối lớp lang các khía
cạnh phạm vi chủ đề, đề tài, mục đích và đối tượng phục vụ thì vấn đề các phương
diện hình thức ngơn từ nghệ thuật lại thực sự đa dạng, giao hòa uyển chuyển, liên kết
và chuyển hóa đặc biệt sinh động. Đặc điểm nổi trội ở đây là sự tích hợp, đan xen
phong cách thể loại và khả năng sử dụng linh hoạt các kiểu diễn ngơn chính luận tun
truyền, việc nắm bắt và tuyển lựa thông tin tư liệu, tiếng nói duy lý luận chiến và giọng
điệu trữ tình căn cứ theo từng đối tượng cụ thể. Đi sâu vào từng văn bản văn chính luận của
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sẽ thấy rõ hơn các thủ pháp nghệ thuật trùng điệp
như những lớp sóng ngơn từ, kết hợp ghép mảnh, chơi chữ và phản vấn, kể từ cách đặt
nhan đề đến cấu trúc và cách thức lập luận. Đương nhiên đây chỉ là một cách hiểu, một
cách tạo dựng mơ hình, một cách lựa chọn những phương diện biểu cảm ngôn từ nghệ
thuật cơ bản, tiêu biểu và hồn tồn vẫn cịn những phương án tiếp cận khác nữa.
KẾT LUẬN
1. Bộ phận văn chính luận có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp trước tác và sự
nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Tìm hiểu đối tượng này
khơng đơn thuần là việc tìm hiểu những thao tác, kỹ thuật tuyên truyền mà là việc lý

giải, chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa tác phẩm với tác giả trong tư cách là nhà cách
mạng vĩ đại, cũng như mối quan hệ giữa hình thức ngôn từ nghệ thuật – “cái biểu đạt”
– và nội dung chính luận tuyên truyền – “cái được biểu đạt”.
2. Trong bối cảnh hiện nay, khi nghiên cứu văn chính luận của Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh, trước hết cần đặc biệt coi trọng tính lịch sử của từng sáng tác và
biết đặt chúng trong các mối quan hệ địa – lịch sử, địa – chính trị cụ thể. Tiếp đó, cần
khắc phục sự phân định cứng nhắc giữa “chính luận tuyên truyền” và “chính luận
nghệ thuật”. Về cơ bản, nói đến văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
là nói đến sự thống nhất giữa nghệ thuật và tuyên truyền.
3. Để hiểu rõ văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, cần đặt nó
trong mối liên hệ với dịng văn chính luận, nghị luận, hành chính, chức năng phi hư
cấu thời trung đại và với mảng văn chính luận của thời kì văn học Việt Nam bước vào
quá trình hiện đại hóa. Tiếp thu cội nguồn văn hóa – văn học truyền thống dân tộc và
khởi đầu sự nghiệp hoạt động cách mạng và viết văn chính luận từ chính nước Pháp,
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã phản ánh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lại
22


chính từ nước Pháp và các nước phương Tây, từ phong trào giải phóng dân tộc thế
giới rộng lớn để vận dụng sáng tạo trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất
nước Việt Nam.
Căn cứ theo Hồ Chí Minh tồn tập (15 tập, 2011), qua nửa thế kỷ, Người đã viết
tổng cộng khoảng 3.300 tác phẩm chính luận với nhiều thể thức, kiểu loại và dung lượng
khác xa nhau. Việc nghiên cứu định lượng chính là nhằm nhận diện các đặc điểm chung
về thể loại, tiểu loại, thể tài, đề tài, chủ đề; nhấn mạnh sự vượt trội về số bài chính luận so
với truyện ký và thơ ca; tính thống nhất trong mục đích sáng tác cũng như phong cách
nghệ thuật; tiếp đó thực hiện phân loại nhằm xác định sự khác biệt tương đối cả về vai trò
chủ thể tác giả, đối tượng phản ánh, mục tiêu, phạm vi, phương thức tuyên truyền cũng
như bản thân cấu trúc, dung lượng, cách thức tổ chức tác phẩm và hình thức ngơn từ nghệ
thuật tương ứng. Sự phân định di sản văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí

Minh thành hai giai đoạn trước và sau 1941 nhằm xác định những chủ đích chiều hướng
và nội dung khác biệt thống nhất trong một tác giả, một cây bút, một phong cách trong
những điều kiện và hoàn cảnh, nhiệm vụ cụ thể khác biệt nhau.
4. Nội dung văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh gắn với đặc
tính tuyên truyền, thiên về tư duy lơgíc mang tính thời đại và nhân văn sâu sắc, đưa ra
những lý lẽ đanh thép, lập luận chặt chẽ, luận cứ hùng hồn, đồng thời lại thực sự sinh
động, truyền cảm, giàu sức thuyết phục, dễ đi vào lịng người.
Việc xác định đặc tính tun truyền trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh cho thấy các phương diện nội dung có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trước
hết để trả lời cho câu hỏi “Viết cho ai? ” rồi đến “Viết để làm gì? ”. Ngay từ khi mới
cầm bút cho đến cuối đời, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ln nung nấu, thường
trực ý thức sử dụng văn chính luận như một phương tiện, vũ khí đấu tranh cách mạng
để giành quyền độc lập, xây dựng bảo vệ đất nước. Đây cũng chính là cơ sở nền tảng
qui định các đặc điểm nội dung tính dân tộc, tính nhân dân, tính nhân văn, khả năng
học tập, hấp thu, vận dụng, dung hòa tri thức văn hóa Đơng – Tây trong văn chính
luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, đặc biệt được kết tinh sâu sắc trong Di
chúc – tác phẩm được xếp loại “di sản”, “báu vật quốc gia” – thể hiện đầy đủ tầm cao
lý tưởng thời đại, dân tộc và phẩm chất “để lại mn vàn tình thân yêu” cho toàn thể
dân tộc Việt Nam. Toàn bộ các trước tác chính luận tuyên truyền của Người chính là
nguồn di sản tinh thần to lớn, phản ánh sinh động, tồn diện q trình phát triển, hồn

23


thiện hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong lịch sử đấu tranh cách mạng thế kỷ XX.
5. Khác với việc khảo sát định lượng thiên về quan sát, thống kê, phân loại các
đặc điểm nội dung tương đối rõ ràng, rành mạch thì việc tìm hiểu hệ thống ngơn từ
nghệ thuật văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh thuộc về phạm vi hình
thức “cái biểu đạt” và thiên về cách thức trả lời cho câu hỏi “Viết như thế nào” lại
không dễ nắm bắt. Đi sâu tìm hiểu đặc điểm hệ thống ngơn từ chính là nhằm xác định

các giá trị thẩm mỹ để thấy dịng chủ lưu văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh thực sự giàu tính nghệ thuật và thuộc về đỉnh cao của dịng văn nghị luận,
chính luận cổ kim.
Ngơn từ nghệ thuật tun truyền trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh bao quát nhiều cấp độ, thể hiện tính phong phú, sinh động từ vị thế chủ thể
“người quan sát”; việc nắm bắt, chọn lọc thống kê, thông tin rộng khắp, nhanh nhạy,
giàu tính thời sự; trình độ tư duy lý luận và giọng điệu trữ tình phù hợp theo từng đối
tượng cụ thể. Đặc điểm nổi bật ở đây là hệ thống thủ pháp nghệ thuật trùng điệp, tu từ
ở nhiều cấp độ (nhan đề, chữ, câu, bài, cụm bài, cụm đề tài...), khả năng sáng tạo của
các hình thức ngơn từ mang tính nội dung (kết hợp ghép mảnh, chơi chữ và phản vấn,
sử dụng các từ ngữ giàu hình ảnh, các phương thức ẩn dụ, hốn dụ, nhân hóa...). Đây
cũng là cơ sở làm nên giọng điệu văn chính luận tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh với đặc thù là nghị luận các vấn đề chính trị xã hội, khả năng đặt vấn đề,
vận dụng linh hoạt các kiểu câu khác nhau (câu đơn, câu ghép, câu cảm thán, phản
vấn), tạo sức mạnh thuyết phục cho đối tượng tiếp nhận.
6. Di sản văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đến nay vẫn cịn
ngun tính thời sự mà đề tài này cịn nhiều khả năng phát triển, cần được khảo sát,
nghiên cứu một cách tồn diện, sâu sắc hơn nữa. Có thể hướng tới ba cấp độ: 1) Trên
nền tảng đặc sắc nghệ thuật tuyên truyền của văn chính luận sẽ mở rộng nghiên cứu
toàn bộ thành tựu nghệ thuật viết văn của Hồ Chí Minh; 2) Nghiên cứu nghệ thuật
tuyên truyền của văn chính luận Hồ Chí Minh trong tổng thành di sản lịch sử văn
chính luận dân tộc; 3) Nghiên cứu nghệ thuật tuyên truyền của văn chính luận Hồ Chí
Minh như một hiện tượng, trường hợp xuất sắc đặt trong tương quan văn chính luận
thế giới hiện đại.

24


×