Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

THU HOẠCH độc lập, tự chủ, sáng tạo của đảng trong xác định đường lối cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.77 KB, 30 trang )

THU HOẠCH-Độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong xác
định đường lối cách mạng Việt Nam
Độc lập, tự chủ, sáng tạo được biểu hiện ở đường lối và phương
pháp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, không lệ thuộc vào bên
ngồi, khơng bị các lực lượng chính trị bên ngồi chi phối q trình lãnh
đạo cách mạng. Song, đường lối và phương pháp cách mạng đó khơng
phải là biệt lập, khép kín, mà độc lập, tự chủ, sáng tạo trên cơ sở chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có tiếp thu, tham khảo những
kinh nghiệm q báu của các nước trên thế giới, không dập khuôn giáo
điều máy móc đó là truyền thống và sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đây còn là bài học kinh nghiệm quý báu của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đã chứng
minh lúc nào, giai đoạn nào Đảng ta giữ được độc lập, tự chủ, sáng tạo
thì cách mạng tiến lên và giành được thắng lợi, còn lúc nào, giai đoạn
nào bị chi phối không giữ được độc lập, tự chủ sáng tạo thì cách mạng
dậm chân tại chỗ, có lúc, có nơi, có lĩnh vực thất bại. Ngày nay, cơng
cuộc đổi mới của đất nước ta đang trên đà phát triển, trước sự tác động
của tình hình thế giới, khu vực cả tích tích cực lẫn tiêu cực; sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam đang
đặt ra nhiều cơ hội và thách thức lớn và chưa có tiền lệ trong lịch sử; bên
cạnh đó, kẻ thù đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta bằng
chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ. Vì vậy, nghiên cứu


2

quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong xác con đường lối
cách mạng Việt Nam là vấn đề quan trọng, cấp thiết hiện nay.
1. Cơ sở hình thành độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng
trong xác định đường lối cách mạng Việt Nam
Độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong xác định đường lối


cách mạng Việt Nam được xuất phát từ những cơ sở khoa học sau
đây.
- Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tính độc lập, tự chủ của mỗi dân tộc.
Tư tưởng về thời kỳ quá độ lên CNXH C.Mác và Ph.Ăngghen
khơng chỉ “coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên”, mà hai ơng cịn phân các hình thái
kinh tế - xã hội thành các giai đoạn phát triển nhất định. . Mỗi giai
đoạn ấy lại được chia thành các thời đoạn khác nhau. Hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp lên cao, từ giai đoạn
XHCN lên giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khẳng định: Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa mới lọt
lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa, là thời kỳ quá độ, do đó, là thời kỳ
sinh đẻ lâu dài và đau đớn để loại bỏ dần những cái cũ, xây dựng và
củng cố dần những cái mới. Phát triển tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen, Lênin cho rằng: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản
tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xơ viết và qua
những giai đoạn phát triển nhất định tiến tới chủ nghĩa cộng sản,
không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” và tránh


3

được những đau khổ mà phần lớn cuộc đấu tranh mà các nước phát
triển hơn ở Tây âu đã phải trải qua.Trong Luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa Lênin đã đề cập nhiều vấn đề, trong đó có vấn
đề hết sức quan trọng là: Các nước chậm tiến với sự giúp đỡ của giai
cấp vô sản có thể bỏ qua con đường tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên
CNXH, còn bằng phương pháp nào là tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử
cụ thể. Bản Luận cương của Lênin đã trở thành “cẩm nang” thần kỳ

giúp Nguyễn ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đưa cách mạng
Việt Nam đi theo con đường XHCN, giành hết thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Như vậy, với quan điểm đúng đắn, khoa học, các nhà kinh
điển Mác-Lênin đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân dân thế giới thấy
rằng, đi lên CNXH và chủ nghĩa cộng sản là tất yếu khách quan của xã
hội loài người; tuy nhiên, ở từng dân tộc cần có sự vận dụng, phát triển,
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với những hình thức, bước
đi phù hợp, chủ động, sáng tạo khơng rập khn, máy móc; bởi học
thuyết của các ơng là học thuyết mở. Khi bàn về tính độc lập, tự chủ,
C.Mác đã dạy: sự nghiệp con người phải chính do con người tự giải
phóng lấy.
Kế thừa và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen,
Lênin khẳng định “Chừng nào mà giữa các dân tộc và các nước vẫn
còn những sự khác nhau về dân tộc và về chế độ nhà nước - những
sự khác nhau này, ngay cả khi nền chun chính của giai cấp vơ sản
đã được thiết lập trên phạm vi toàn thế giới, cũng vẫn còn tồn tại
trong một thời gian lâu, rất lâu, thì chừng đó, sự thống nhất sách


4

lược quốc tế của phong trào công nhân cộng sản tất cả các nước vẫn
khơng địi hỏi phải xố bỏ mọi màu sắc khác nhau, vẫn khơng địi
hỏi phải thủ tiêu mọi sự khác nhau về dân tộc…, mà nó đòi hỏi phải
áp dụng những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng sản…sao cho
những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề
chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với những đặc điểm
dân tộc và đặc điểm nhà nước - dân tộc”. Như vậy, mỗi dân tộc trên
thế giới có đặc điểm riêng, các nước không nên áp đặt con đường đi
cho dân tộc khác. Nhưng mỗi dân tộc cần phải có tinh thần độc lập,

tự chủ, sáng tạo trong việc quyết định vận mệnh của dân tộc mình
với mục tiêu cuối cùng là tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
- Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng
vơ sản.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, các phong trào yêu nước
đã nổ ra mạnh mẽ, nhưng đều bị thất bại do thiếu sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản và khơng có đường lối đúng. Thực tiễn cách mạng
Việt Nam đòi hỏi phải lựa chọn đúng đắn con đường cứu nước.
Nguyễn ái Quốc từ một người yêu nước đã đến với chủ nghĩa MácLênin, được soi sáng bởi những tư tưởng tiến bộ của thời đại, Người
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Trong Chánh cương
vắn tắt của Đảng Nguyễn ái Quốc khẳng định: “Làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Chính vì vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã dứt khoát


5

lựa chọn con đường XHCN, khẳng định sự thống nhất hữu cơ giữa
đấu tranh cho độc lập dân tộc và đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội. Như
vậy, với trí tuệ thiên tài, năng lực hành động thực tiễn sắc sảo, tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo, Nguyễn ái Quốc đã tìm ra con đường cứu
nước cho dân tộc phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, đó
là con đường cách mạng vơ sản; độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
- Xuất phát từ truyền thống của dân tộc Việt Nam
Việt Nam là đất nước có vị trí địa lý chiến lược về chính trị,
kinh tế, văn hố, an ninh, quốc phịng. Từ xưa đến nay, dân tộc Việt
Nam luôn phải đối mặt với thiên tai, địch hoạ. Chính từ những yếu
tố đó đã hun đúc cho dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam bản

lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; luôn tìm ra cho mình một con đường đi đúng đắn,
khơng bị đồng hố, khơng chịu khuất phục trước mọi kẻ thù xâm
lược, đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta.
- Xuất phát từ sự chống phá của kẻ thù
Chủ nghĩa cộng sản từ khi trở thành hiện thực, với sự ra đời tác
phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản(1848) đã thường xuyên phải
đương đầu với sự chống phá quyết kiệt của kẻ thù. Vào những năm
cuối của thập kỷ 80 thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội các nước Đông âu
và Liên Xô sụp đổ, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự
sụp đổ đó là do âm mưu, thủ đoạn thâm độc của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch. Ngày nay, chúng đang tăng cường chống


6

phá các nước XHCN còn lại bằng chiến lược “diễn biến hồ bình”
và bạo loạn lật đổ, trong đó Việt Nam là một trọng điểm; đồng thời,
ra sức xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất
là về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam … .
Từ đó thấy rằng, sự lựa chọn con đường đi lên CNXH Đảng và
nhân dân ta là hoàn toàn đúng đắn và có cơ sở khoa học. Chỉ có tư
duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng
với sức mạnh đoàn kết của toàn dân, đất nước ta mới giữ vững và
phát triển như ngày hôm nay.
- Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng, chỉ có sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối độc lập, tự
chủ, sáng tạo, tự lực tự cường tìm ra con đường đi thích hợp trong

từng giai đoạn cách mạng, với mục tiêu xuyên suốt, bất di bất dịch
là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó cũng chính là sự lựa chọn
của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta, sự lựa chọn của lịch sử,
khơng do một ai áp đặt. Kiên định với con đường đó, dân tộc Việt
Nam mới đứng vững, chiến thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ;
đồng thời, giành được nhiều thành tựu trong 20 năm đổi mới, được
bạn bè trên thế giới đánh giá cao. Ngược lại, cũng có lúc do Đảng ta
không phát huy được tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự
cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, rập khuôn, máy


7

móc mơ hình của nước ngồi thì lúc đó, thời điểm đó đất nước rơi
vào tình trạng khó khăn, lâm vào khủng hoảng…
Vì vậy, chỉ trên cơ sở độc lập, tự chủ, sáng tạo tìm ra con đường
đắn; kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng cộng
sản Việt Nam mới lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đúng hướng, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
2. Độc lập, tự chủ, sáng tạo, của Đảng trong xác định đường
lối cách mạng Việt Nam
Để xác định con đường đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam, là một quá trình nghiên cứu, tìm tịi độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Đảng ta trên cơ sở thực tiễn, cụ thể ở những nội dung
cơ bản sau:
Một là, quá trình thành lập Đảng và việc xác định đường lối
chiến lược cách mạng ( từ năm 1911 - 1945)
Trước năm 1930, khi Đảng ta chưa ra đời, đất nước ta chìm
trong đêm trường nô lệ, các phong trào yêu nước nổ ra khắp nơi

nhưng đều thất bại. Thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam
lúc bấy giờ do nhiều nguyên nhân , nhưng nguyên nhân cơ bản là do
khủng hoảng về đường lối . Trước tình hình đó việc tìm lối ra cho
cuộc khủng hoảng là nhu cầu nóng bỏng của dân tộc ta.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn ái Quốc, ) đã ra đi tìm
đường cứu nước. Người đã phân tích, đối chiếu, so sánh, tìm ra con
đường cứu nước phù hợp cho cách mạng Việt Nam. Khi so sánh cách


8

mạng tư sản với cách mạng vô sản, Nguyễn ái Quốc khẳng định:
“Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư
bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hồ và dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách
mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nơng Pháp hẵng cịn phải mưu cách
mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp bức”. Người nhấn mạnh:
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do, bình đẳng thật, khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc
chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên an Nam”. Như vậy, quá trình nghiên
cứu, xem xét, so sánh hàng loạt cuộc cách mạng thế giới đã giúp
Nguyễn ái Quốc rút ra được nhiều điều. Người đã đánh giá những
cuộc cách mạng tư sản là “những cuộc cách mạng không đến nơi”.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã giúp
Nguyễn ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: Chỉ có CNXH,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Cách mạng Việt
Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Khác với các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn ái Quốc đã có

một phương pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lí luận
đối chiếu với thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội làm tiêu chuẩn đánh giá các học thuyết và tiếp thu kinh
nghiệm cách mạng thế giới có chọn lọc. Tinh thần độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Nguyễn ái Quốc đã được thể hiện nổi bật trong việc


9

vận dụng học thuyết Mác-Lênin, vạch ra đường lối cứu nước đúng
đắn cho dân tộc ta. Nguyễn ái Quốc đã trả lời được các câu hỏi về
con đường cứu nước cho Việt Nam, đó là: “Cách mạng trước hết
phải có cái gì ? Trước hết phải có Đảng cách mệnh ….Đảng có
vững cách mệnh mới thành cơng, củng như người cầm lái có vững
thì thuyền mới chạy”
Về mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là
CNXH. Muốn xố bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do,
hạnh phúc, bình đẳng thật sự thì phải qua hai cuộc cách mạng, cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN. Hai cuộc cách mạng
này có quan hệ mật thiết với nhau.
Về lực lượng cách mạng: Trung thành và vận dụng sáng tạo tư
tưởng của Mác-Lênin. Nguyễn ái Quốc đã nhìn thấy lực lượng to
lớn của cách mạng Việt Nam: Công nông là gốc của cách mệnh, học
trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ… đều là bầu bạn của công nông. ai
mà bị áp bức càng nặng, thì lịng cách mệnh càng bền, chí cách
mệnh càng quyết. Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ
không phải là việc của một hai người. Nét sáng tạo của Nguyễn ái
Quốc ở chỗ, khơng bó hẹp lực lượng cách mạng chỉ là công nông.
Đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến như ở Việt Nam, khác
với nước Nga. Lực lượng cách mạng ở Việt Nam ngồi cơng nơng

làm nịng cốt, thì lực lượng học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ đều
là bầu bạn, đều là đồng minh với cơng nơng; vì họ đều có kẻ thù
chung đó là đế quốc, phong kiến.


10

Về phương pháp và hình thức của cách mạng:
Quan điểm của Nguyễn ái Quốc là cách mạng bạo lực; đồng
thời, giành chính quyền nhất thiết phải bằng con đường khởi nghĩa.
Nhưng tiến hành khởi nghĩa như thế nào là vấn đề không phải đã trả
lời ngay được. Khởi nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga là dựa
vào giai cấp công nhân, tiến hành khởi nghĩa từ thành thị về nông
thôn. Khởi nghĩa của cách mạng Trung Quốc là lấy nông thôn bao
vây thành thị.
Trong Chánh cương sách lược vắn tắt, Nguyễn ái Quốc, xác
định, cách mạng phải từng bước hình thành, phát triển theo con đường
khởi nghĩa vũ trang; với con đường khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng
khởi nghĩa; hình thái, kết hợp khởi nghĩa cả nơng thơn và thành thị;
lực lượng khởi nghĩa, cả giai cấp công nhân, nông dân lao động đều là
chủ lực quân. Nét đắc sắc của Người là, sử dụng bạo lực cách mạng
với hai lực lượng, quân sự và chính trị; kết hợp hai hình thức đấu
tranh qn sự và đấu tranh chính trị; trong từng trường hợp sử dụng
cho phù hợp. Người đã chỉ ra thiếu sót của những phong trào cách
mạng trước đây là, xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức. Việc
giải phóng gơng cùm nơ lệ cho đồng bào, cho nhân loại là công việc
“to tát”, cho nên phải “dùng hết sức”, nhưng phải “biết cách làm thì
mới chóng”. Tóm lại, là phải có sách lược, mưu chước, kế hoạch, biết
lúc nào nên làm, lúc nào chưa nên làm. Thực tế thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đã chứng minh, với điều kiện và tình hình

thực tiễn của Việt Nam lúc đó, sử dụng phương pháp và hình thức


11

cách mạng mà Nguyễn ái Quốc đưa ra là phù hợp. Tiến hành khởi
nghĩa của quần chúng làm lực lượng chủ yếu, đấu tranh vũ trang là hỗ
trợ; tiến hành khởi nghĩa từ nông thôn tiến về thành thị. Biểu hiện của
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường của Nguyễn ái
Quốc về phương pháp và hình thức cách mạng, là khơng bê ngun xi
con đường cách mạng của Nga, Trung Quốc hay nước khác, mà đã
vận dụng sáng tạo những phương pháp, hình thức đó phù hợp với điều
kiện của Việt Nam.
Về đối tượng của cách mạng: Giữa thực dân và phong kiến thì
kẻ thù nào lớn nhất và cần đánh kẻ thù nào trước ? Đây là vấn đề
không phải ngay từ đầu đã trả lời ngay được. Đảng ta có lúc xác
định: tập trung đánh đế quốc, lúc cho rằng, tiến hành đồng thời đánh
đế quốc và đánh phong kiến. Nghĩa là, ngay từ đầu Đảng chưa thể
nhận thấy đâu là kẻ thù chủ yếu, trước mắt, đâu là kẻ thù cơ bản lâu
dài của dân tộc để có phương pháp, hình thức tiến hành cách mạng,
tiến hành quy tụ lực lượng phù hợp. Đến năm 1939, với Nghị quyết
Trung ương 6, câu trả lời mới đầy đủ: Đánh đế quốc và đánh phong
kiến không nhất loạt ngang nhau. Đánh đế quốc là nhiệm vụ hàng
đầu, đánh phong kiến phục vụ cho nhiệm vụ đánh đế quốc. Bởi vì,
mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam lúc này là đấu tranh
giành độc lập cho dân tộc sau đó tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa.
Về mục tiêu độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, đều là cơ
bản thiết yếu, nhưng mục tiêu nào là quan trọng hàng đầu ? Đây cũng



12

là vấn đề được Đảng ta và Hồ Chí Minh trăn trở, tìm tịi, đấu tranh cả
trong nhận thức và cả trong thực tiễn. Từ năm 1930-1945 đã từng bước
cụ thể hố. Đảng ta và Hồ Chí Minh đã xem độc lập dân tộc là mục tiêu
quan trọng hàng đầu. Giành được độc lập cho dân tộc không chỉ đáp
ứng được nguyện vọng cho cơng nơng mà cịn đáp ứng được nguyện
vọng cho các tầng lớp nhân dân khác. Mục tiêu ruộng đất cho dân cày
sẽ được giải quyết từng bước trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân.
Như vậy, để tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng Việt
Nam, Nguyễn ái Quốc đã bôn ba hải ngoại, với tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo, tự lực tự cường, khơng sao chép rập khn máy móc.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức lãnh đạo nhân dân tiến
hành Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, đưa lịch sử Việt
Nam sang một trang mới.
Hai là, xác định đường lối giữ nước và giải phóng dân tộc trong
những năm 1945-1975
Từ Hội nghị toàn quốc ở Tân Trào (13/8/1945), Đảng ta đã xác định
được con đường giữ nước cho dân tộc, gồm 10 chính sách lớn. Trong đó,
chính sách đối ngoại căn bản của ta là thêm ban bớt thù; hết sức tránh
trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc; tranh
thủ được sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xơ và Mỹ. Đảng đã khẳng định
được nguyên tắc: phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo để tiến hành
giữ nước. Như Hồ Chí Minh đã nói: đem sức ta giải phóng cho ta; chỉ có
độc lập, tự chủ, sáng tạo mới quyết định thắng lợi của cách mạng.


13


Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Khi
thực dân Pháp đánh chiếm Nam Bộ. Hồ Chí Minh đã kêu gọi: “Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Trong suốt
chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tinh thần ấy được thể hiện
rõ nét: kháng chiến tồn dân, tồn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính; vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng lực lượng.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước: đặt ra nhiều câu hỏi cần
phải giải đáp: Cách mạng miền Nam có trường kỳ mai phục hay làm
tiếp ngay cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; cách mạng miền Nam
phải tiến hành bằng con đường nào; làm thế nào giữ được hồ bình ở
miền Bắc vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất ở miền Nam mà
không gây ra nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ ba; cách mạng miền
Bắc chờ cách mạng miền Nam thắng lợi rồi cùng đi lên CNXH, hay
vẫn tiến hành xây dựng CNXH trên miền Bắc ? Những câu hỏi đó
khơng thể trả lời ngay được, mà phải trải qua quá trình cân nhắc, tìm tòi
trong thực tiễn và được thể hiện ở các Hội nghị Trung ương, đó là:
Thực hiện tồn quốc kháng chiến, cả nước đánh Mỹ; đồng thời, tiến
hành hai chiến lược cách mạng nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ
miền Bắc. Dùng sức mạnh tổng hợp, chiến tranh toàn dân, toàn diện,
lựa chọn phương thức tiến hành thích hợp cho tồn bộ cuộc chiến tranh
và từng thời kỳ. Đại hội IV của Đảng đã tổng kết trên 9 vấn đề có tính
quy luật. Trong đó, nét đặc sắc, nổi bật là, phải luôn luôn sử dụng hai
lực lượng: quân sự và chính trị, hai hình thức đấu tranh: đấu tranh qn


14

sự và đấu tranh chính trị; tiến hành đấu tranh quân sự song song với

đấu tranh chính trị trong chiến tranh cách mạng, nhưng không nhất loạt
ngang nhau và được vận dụng sáng tạo trên từng vùng chiến lược để có
hình thức, lực lượng qn sự hay chính trị cho thích hợp. Vùng rừng
núi, đấu tranh quân sự là chủ yếu, đấu tranh chính trị là hỗ trợ; vùng
nơng thơn, đồng bằng, do tương quan lực lượng giữa ta và địch ngang
nhau nên Đảng ta vận dụng đấu tranh quân sự song song với đấu tranh
chính trị; vùng thành thị, đấu tranh chính trị là chủ yếu, đấu tranh quân
sự hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy.
Đây là những vấn đề phản ánh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo
của Đảng trong lãnh đạo đấu tranh cách mạng, đưa cách mạng đi
đến thành cơng. Đồng chí Lê Duẩn đã nói: Sau đường lối và phương
pháp cách mạng thì địi hỏi tư duy, sáng tạo nhiều nhất, nếu không
huy động được sự sáng tạo thì cách mạng khơng thể thắng được.
Cùng với những nét sáng tạo ở trên, Đảng ta đã thực hiện được ba
tầng mặt trận trong chống đế quốc Mỹ xâm lược, đó là: Mặt trận
thống nhất trong nước, Mặt trận liên minh ba nước Đông Dương,
Mặt trận của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam. Trong đó,
Mặt trận của nhân dân thế giới đồn kết với Việt Nam chống đế
quốc Mỹ đã thu hút được lực lượng to lớn ủng hộ cách mạng Việt
Nam, gây tiếng vang lớn phản đối chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế
giới. Qua đó cho thấy, Đảng đã phát huy tối đa sức mạnh trong nước
và sức mạnh thời đại, giải quyết hài hoà giữa sức mạnh bên trong
với sức mạnh bên ngồi, trong đó sức mạnh bên trong là chủ yếu,


15

quyết định; độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường nhưng không
bài ngoại.
Đảng ta đã được xây dựng ngang tầm đòi hỏi sự nghiệp chống

Mỹ cứu nước, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nhờ có sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn của Đảng mà cách mạng miền
Nam không những không bị tan rã bởi luật 10/59 của Diệm. Đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng được cài cắm sau Hiệp định Giơnevơ đã
hoạt động có hiệu quả. Các tổ chức cơ sở đảng được củng cố, kiện
tồn, làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc. Đây cũng là một nét thể
hiện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta, khác với Đảng dân
chủ nhân dân Triều Tiên lúc bấy giờ, cùng có điều kiện, hồn cảnh
như Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có lúc, có thời điểm, chúng ta đã quá
hữu khuynh, chỉ nhấn mạnh đấu tranh chính trị, coi nhẹ hình thức
qn sự; hoặc mắc phải bệnh dập khn, máy móc, bê ngun xi nội
dung, hình thức, biện pháp tiến hành cải cách ruộng đất của Trung
Quốc vào Việt Nam không phù hợp, nên đã dẫn đến những sai lầm
không đáng có. Có thể nói trong giai đoạn 1954-1975, tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường của Đảng ta được phát triển lên
một tầm cao mới trong hoạch định đường lối, tìm ra con đường đi
thích hợp cho hai miền Nam, Bắc và con đường chung cho cách mạng
Việt Nam nên đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ba là, Quá trình xác định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội


16

Sau thắng lợi năm 1975, đất nước thống nhất, non sơng thu về
một mối. Lúc này, có ý kiến cho rằng, nên để miền Nam dừng lại khôi
phục sau chiến tranh, chứ chưa vội tiến lên CNXH như miền Bắc. Có
thể nói, đây cũng là một sự thử thách lớn đối với Đảng ta. Nhưng với
sự sáng suốt, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng và nhân dân ta

quyết tâm đưa cả nước tiến lên CNXH, đây là một quyết định đúng
đắn. Nhưng để đưa cả nước quá độ đi lên CNXH bằng hình thức, mơ
hình nào ? địi hỏi phải có câu trả lời. Thực tiễn các nước Đông âu,
sau khi kết thúc chiến tranh đều đi lên CNXH theo mơ hình của Liên
Xơ. Bên cạnh đó, hàng loạt vấn đề về xây dựng CNXH trong thời kỳ
mới đang đặt ra phải giải quyết, như: con đường cơng nghiệp hố,
hiện đại hố ?, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN là như thế nào ?. Trong bối cảnh đó có những người
nhân danh góp ý cho Đảng là: Đảng Cộng sản Việt Nam không nên
bắt cá hai tay, không nên vừa là CNXH, vừa là nền kinh tế thị trường,
vì lợi ích dân tộc, nên theo kinh tế thị trường, có nghĩa là không thừa
nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta. Hay có ý kiến cho rằng: Việt
Nam nên đi theo con đường tư bản chủ nghĩa để phát triển kinh tế
mạnh, sau đó xây dựng CNXH cũng chưa muộn !. Đó là những quan
điểm hết sức sai trái, phản động, lệch lạc.
Thẳng thắn nhìn vào sự thật là, trong một thời gian, chúng ta đã ảnh
hưởng tư tưởng sao chép, dập khn theo mơ hình CNXH của Liên Xơ;
khơng kịp thời rút kinh nghiệm công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc
trong những năm chiến tranh, nên sau khi thống nhất đất nước, chúng ta


17

vẫn tiến hành xây dựng CNXH theo quy luật của chiến tranh trong một
thời gian dài. Dẫn đến, nền kinh tế của nước ta lâm vào khủng hoảng
nghiêm trọng, lạm phát có lúc đã lên đến 774,7%. Khi chế độ XHCN ở
Liên Xô và các nước Đông âu sụp đổ, đã đặt đất nước ta vào những thử
thách khó khăn chưa từng thấy; bên cạnh đó, kẻ thù tăng cường chống
phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo
loạn lật đổ; tiêu cực, tệ nạn xã hội không giảm …Một bộ phận cán bộ,

đảng viên và nhân dân dao động, hoài nghi về CNXH; cho rằng, Liên
Xô với thành tựu xây dựng CNXH hơn 70 năm cịn bị tan vỡ, huống gì
đất nước ta mới xây dựng CNXH chưa đầy 15 năm.
Để lãnh đạo đất nước thốt ra khó khăn, Đại hội VI (12/1986)
của Đảng đã chủ trương đổi mới toàn diện, từng bước đưa đất nước
vượt qua khó khăn, kiên định con đường đi lên CNXH và đã giành
được nhiều kết quả quan trọng; không những đưa nước ta vượt qua
khỏi khủng hoảng mà còn phát triển đi lên, được bạn bè quốc tế
đánh giá cao. Đại hội IX đã tổng kết: “Công cuộc đổi mới xuất
phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo
kinh nghiệm tốt của thế giới, khơng sao chép bất cứ một mơ hình
có sẵn nào”. Đó là là một thực tế khách quan, nhưng có người với
âm mưu xuyên tạc, đã cho rằng: Trong thời điểm đó, Việt Nam vẫn
phát triển bình thường, khơng có dấu hiệu gì về đổi mới, mà do sức
ép cải tổ, cải cách của Liên Xơ và Trung Quốc. Đó là quan điểm
sai trái nhằm đánh lừa dư luận. Qua đó, thể hiện Đảng ta có một
bản lĩnh chính trị vững vàng, độc lập, tự chủ, sáng tạo; tư duy lí


18

luận sắc sảo trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Đổi mới nhưng không rơi vào vết xe đổ của các nước khác.
Để kịp thời định hướng nhận thức, tư tưởng trong toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân, Đại hội lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại
hội đã đánh dấu “quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta có thể hình thành những nét chủ yếu”.
Cương lĩnh đã chỉ rõ 6 đặc trưng và 7 phương hướng về con đường đi

lên CNXH mà nhân dân ta cần xây dựng. Tổng kết thực hiện giai đoạn
đầu của thời kỳ quá độ, tại Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Cương lĩnh
là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt
Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt
động của Đảng ta hiện nay và những thập kỷ tới”. Có thể nói, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tư
duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta về CNXH đã được phát triển
lên một tầm cao mới và được khẳng định trên thực tế. Từ đây, nhân dân
ta, đất nước ta đã có một con đường rộng mở, đó là con đường đi lên
CNXH, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đại hội VII kết luận:
Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của cách mạng Việt Nam
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho toàn bộ mọi hoạt
động của Đảng ta hiện nay và trong tương lai; tuy còn nhiều khó khăn,
thử thách, nhưng đã tránh được mọi sự hồi nghi dao động và là vũ khí
sắc bén đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm thù địch.


19

Hội nghị Đảng giữa nhiệm kỳ (khoá VII, 1/1994) đã tiếp tục
làm sáng tỏ thêm một số vấn đề quan trọng trong quá trình xây
dựng CNXH ở nước ta. Hội nghị đã xác định những chủ trương,
giải pháp lớn để thực hiện Nghị quyết Đại hội VII. Vấn đề quan
trọng là, Hội nghị đã đi sâu phân tích thời cơ, thách thức và chỉ ra
bốn nguy cơ, trong đó có nguy cơ “chệch hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đồng thời, còn chỉ ra cho đất nước ta đang ở vị trí nào, giai đoạn
nào trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tránh được sự thoả mãn dừng
lại, hay “lạc quan tếu”. Đó là: “Mặc dù cịn nhiều mặt yếu kém
phải khắc phục, những thành tựu quan trọng đã đạt được đã và
đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang thời kỳ

phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước”.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) trên cơ sở phân tích, đánh giá tình
hình đã rút ra kết luận: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và
cơ bản hoàn thành nhiệm vụ chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, đất
nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố. Đại hội nhận định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta ngày càng xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định
và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn,
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tháng 4/2001 Đảng ta tiến hành Đại
hội IX. Một trong những vấn đề rất quan trọng là, Đại hội đã tiếp tục
khẳng định và làm rõ hơn về lí luận và thực tiễn con đường đi lên CNXH
ở nước ta trên một số nội dung cơ bản mà các Đại hội trước đây chưa làm


20

rõ. Đó là những nội dung: Về mục tiêu của cách mạng và lý tưởng của
Đảng. “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”. Về nội dung đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, Đại hội đã chỉ rõ: “Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp
trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước
nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất
công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những và hành động tiêu cực, sai
trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các
thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”. Cùng với những nội dung trên, Đại
hội đã xác định động lực chủ yếu của cách mạng, xác định mơ hình kinh

tế tổng qt trong thời kỳ q độ lên CNXH …Sự khẳng định trên là hết
sức quan trọng trong thời điểm hiện nay. Bởi, “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có
nhiều biến đổi…Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu
tranh để lựa chọn và quyết định con đường phát triển của mình. Chủ
nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng
như từ khát vọng và thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng
tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Đại hội tiếp tục khẳng định: “Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa” .


21

Những nội dung cơ bản trên được Đại hội IX làm sáng tỏ, bổ
sung, hồn chỉnh là những về lí luận và thực tiễn rất quan trọng liên
quan trực tiếp về con đường đi lên CNXH ở nước ta trong thời kỳ
quá độ. Đại hội đã cho chúng ta thấy rõ hơn tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo trong việc tìm tịi, phát triển lí luận về thời kỳ quá độ lên
CNXH trên cơ sở những nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam.
Quá độ đi lên CNXH được Đảng ta đề ra trong công cuộc đổi mới đã
đem lại những kết quả thành công rất quan trọng, nhưng “đất nước ta phải
đối mặt với nhiều thách thức” và bốn nguy cơ đang tồn tại. Với bản lĩnh
của người cộng sản, với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự
cường; cùng với sức mạnh của khối “đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”. Chúng
ta tin tưởng công cuộc đổi mới của đất nước sẽ đi đến thành công.
3. ý nghĩa trong công cuộc đổi mới đất nước
Công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo đang trên đà phát triển, đẩy

mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Những thành tựu
mà đất nước ta đạt được trong 20 năm đổi mới vừa qua rất to lớn và có ý
nghĩa quan trọng. “Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Mơi trường
hồ bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới
tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh
thủ ngoại lực. Đó là cơ hội lớn. Đồng thời, đất nước ta phải đối mặt với
nhiều thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ - tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã


22

hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến hồ bình” do các
thế lực thù địch gây ra - đến nay vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan
xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào”. “Nhận thức về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mới dừng lại ở
những nét khái qt chung; cịn khơng ít vấn đề cụ thể đặt ra từ thực tiễn
chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục. Nhiều cán bộ,
đảng viên nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
cịn giản đơn; hiểu biết về chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa sâu sắc, phương
pháp tư duy chưa vươn tới tầm duy vật biện chứng, cịn dừng lại ở trình độ
cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm”.
Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ
mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống cịn đối với Đảng và nhân dân ta. Vì vậy,
chúng ta cần:
Một là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời, Đảng
phải có một trình độ lí luận ngang tầm địi hỏi của cách mạng Việt
Nam
Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là tất yếu khách quan. Chỉ
có sự lãnh đạo của Đảng với đường lối đúng đắn thì mới phát huy

được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, cả trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và ngày nay là cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Để Đảng có đường lối đúng, nhất là trong cơng cuộc đổi mới,
địi hỏi Đảng phải có một trình độ lí luận ngang tầm. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng


23

định: “Khơng có lí luận cách mệnh, thì khơng có cách mệnh vận
động …Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí
khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”.
Thực tiễn cách mạng thế giới và trong nước đã chứng minh tính
tất yếu Đảng phải lãnh đạo cách mạng và vận dụng sáng tạo lí luận
chủ nghĩa Mác-Lênin thì cách mạng mới thành công. Các nước
XHCN Đông âu và Liên Xơ là ví dụ điển hình, do từ bỏ vai trị lãnh
đạo của Đảng, từ bỏ lí luận chủ nghĩa Mác-Lênin nên đã dẫn tới sự
sụp đổ. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi
mới đất nước, cần phải: Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, đây là vấn đề có tính ngun tắc đối với tất cả
các Đảng chân chính; bên cạnh đó, thường xun nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất và năng lực của cán bộ, đảng viên của Đảng;
thường xuyên củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng; do đó cần tránh, bng lỏng vai trò lãnh
đạo của Đảng, hoặc Đảng bao biện làm thay.
Để Đảng có một trình độ lí luận ngang tầm địi hỏi của cơng
cuộc đổi mới, cần phải: Mở rộng dân chủ, phát huy tự do tư tưởng,
khai thác mọi tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, nghiên

cứu lí luận; đồng thời, giữ nghiêm kỷ cương trong việc phổ biến kết
quả nghiên cứu; bên cạnh đó, phải tích cực đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ tư tưởng lí luận của Đảng; thường xun đổi mới cơng
tác giáo dục chính trị tư tưởng cả trong Đảng và trong nhân dân;


24

kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện và nhận thức sai trái, như:
cán bộ đã được đào tạo lí luận cơ bản rồi thì khơng cần bồi dưỡng
thêm làm gì; hoặc lí luận khơng gắn với thực tiễn, nói không đi đôi
với làm.
Hai là: Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi
mới
Đây là vấn đề rất quan trọng quyết định sự thành bại của cách
mạng XHCN ở Việt Nam. Đảng ta đã xác định, chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động; đồng thời, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra tại Hội
nghị giữa nhiệm kỳ (khố VII) vẫn ngun giá trị, trong đó có nguy
cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổng kết mười năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội VIII của
Đảng nhận định: “Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện
đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định
hướng XHCN, tuy trong q trình thực hiện có một số khuyết điểm,
lệch lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh
vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác”. Vì vậy, kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong q trình đổi mới là vấn đề có tính nguyên tắc, thể hiện bản
lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường của Đảng ta. Để Đảng
ln kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cần: Nắm

chắc bản chất cách mạng khoa học và vận dụng sáng tạo vào điều kiện


25

cụ thể của Việt Nam, khơng rập khn máy móc; đồng thời, phải biết
chắt lọc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của dân tộc, của nhân loại;
kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu thù địch, bảo vệ sự trong
sáng, đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để giữ vững định hướng XHCN trong q trình đổi mới, điều
quan trọng hàng đầu là Đảng phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chiến lược và sách lược. Về chiến lược, là phải giữ vững nguyên
tắc, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Về sách
lược, phải mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo, chủ động nắm bắt cái
mới cái tiến bộ; thận trọng giải quyết những vấn đề mới nảy sinh;
nhưng không vi phạm nguyên tắc, mục tiêu; nghĩa là “dĩ bất biến,
ứng vạn biến”, nhằm giữ vững ổn định chính trị, tạo mơi trường
hồ bình để đất nước phát triển. Đảng không được sai lầm về
đường lối; phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản
lý của Nhà nước bằng pháp luật; khai thác triệt để vai trị tích cực
đi đơi với khắc phục ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực
của cơ chế thị trường theo định hướng XHCN; bảo đảm sự bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi doanh nghiệp
và cá nhân, không phân biệt thành phần kinh tế; đồng thời, phải
giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc
trong quan hệ kinh tế với bên ngoài.
Ba là: Đảng phải thường xuyên bám sát, nắm chắc thực tiễn
thế giới và trong nước để có đường lối lãnh đạo đúng đắn



×