Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

“Tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” của PGS,TS Nguyễn Viết Thảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.2 KB, 12 trang )

“Tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” của PGS,TS Nguyễn
Viết Thảo, Phó Giám đốc Học viện.
Mục tiêu của công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội, với tính chất là cuộc đấu
tranh cuối cùng để xóa bỏ mọi chế độ xã hội dựa trên bóc lột lao động, áp bức, bất
cơng, hiển nhiên phải là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng lao động và
giải phóng con người để mọi người đều được phát triển tự do, toàn diện. Trên thực
tế, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội được triển khai trên từng “mảnh đất
hiện thực” với điều kiện, đặc điểm rất cụ thể; với những xuất phát điểm và những
hồn cảnh khơng giống nhau.
Bởi vậy, những mục tiêu nêu trên chỉ là những mục tiêu cuối cùng. Chúng phải
được cụ thể hóa thành những mục tiêu xác định cho từng quốc gia, trong từng thời
kỳ, giai đoạn, bước đi… Chính đây là một trong những vấn đề phức tạp và khó khăn
nhất của những người cộng sản trong quá trình lãnh đạo quần chúng cách mạng thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Lịch sử phong trào cộng sản và cơng
nhân quốc tế đã có nhiều bằng chứng về các kiểu sai lầm trong việc xác định mục tiêu
cụ thể của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: hoặc là giáo điều, máy móc lấy
những mục tiêu cuối cùng làm mục tiêu trước mắt; hoặc tuyệt đối hóa những mục tiêu
trước mắt, coi nhẹ, thậm chí thủ tiêu những mục tiêu cuối cùng, thủ tiêu mục tiêu, lý
tưởng của giai cấp công nhân.
Bổ sung, phát triển mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên cơ sở bảo đảm
các nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học, phù hợp với điều kiện của đất nước
và xu hướng phát triển của thế giới đương đại trở thành yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết cả
về lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở nắm vững, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, đồng thời bám sát
đặc điểm và xu thế vận động của thời đại ngày nay và thực tiễn đất nước, trong quá
trình đổi mới từ năm 1986, Đảng ta đã từng bước có nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa


xã hội và các đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm tám đặc
trưng, tám phương hướng và các mối quan hệ lớn.
Sau năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và các nghị quyết của


Trung ương khóa XI; đồng thời, nhìn lại quá trình 30 năm đổi mới, Dự thảo Báo cáo
Chính trị trình Đại hội XII tiếp tục bổ sung, làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn quan trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta:
Trên những vấn đề chung, Dự thảo Báo cáo Chính trị khẳng định “qua 30 năm
đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; “con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế
phát triển của lịch sử”. Một trong những mối quan hệ lớn cần nhận thức đúng đắn và
xử lý tốt trong suốt quá trình phát triển đất nước là mối quan hệ giữa tuân thủ theo
các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, dự thảo nêu
bài học hàng đầu rút ra từ những thành tựu và hạn chế, khuyết điểm của 30 năm đổi
mới là: “phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa được nhấn mạnh ngay trong tiêu đề của
Dự thảo Báo cáo Chính trị; xác định là một cấu thành của mục tiêu tổng quát trong
năm năm tới và cụ thể hóa: "Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của
quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân,
từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực
hiện". Đồng thời, tiếp tục “hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” được
chú trọng như một trong 12 nhiệm vụ tổng quát trong những năm tới. Lịch sử chính trị
thế giới đã chứng minh, khơng có nhà nước pháp quyền nào thốt ly bản chất giai cấp
và khơng có nền dân chủ nào chung chung, trừu tượng. Mặt khác, thực tế cho thấy,
trên những vấn đề hết sức sống còn này, các thế lực tư bản chủ nghĩa đang ra sức tác


động, gây ảnh hưởng, giành giật không gian cho dân chủ và pháp quyền tư sản. Bởi
vậy, thường xuyên nhấn mạnh những điều vừa nêu là một điều cần thiết và đúng đắn.
Tiếp tục thống nhất về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Dự thảo Báo cáo Chính trị nêu rõ: đó là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng

bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước". Trên vấn đề căn cốt
nhất của thể chế kinh tế là vấn đề sở hữu, bản Dự thảo đề cập: "có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế". Về vị thế của Nhà nước và vị trí
của người lao động trong thể chế kinh tế, Dự thảo nêu: "Nhà nước đóng vai trị định
hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế... thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội". Để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa như vậy, Dự thảo Báo cáo Chính trị vạch rõ một trong những nhiệm vụ
then chốt là Đảng phải "tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa và việc tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh
tế - xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện
đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trí cán bộ và lãnh
đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh
tế - xã hội".
Các nội dung bổ sung, phát triển nêu trong Dự thảo đã cụ thể hóa thêm một
bước các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nói
riêng và trong phát triển văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng, đối ngoại… nói chung
của đất nước.
Xây dựng, hoàn thiện nhận thức về chủ nghĩa xã hội và làm sáng tỏ con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội là công việc rất lớn, phải làm từng bước, không được nóng


vội, duy ý chí; tuy nhiên, cũng khơng được chậm trễ so với yêu cầu của thực tiễn.
Trong tình hình hiện nay, Dự thảo văn kiện Đại hội XII cần luận chứng sáng rõ hơn
nữa một số vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản, trước hết là chung quanh “các quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp”.
Quan hệ sản xuất có ý nghĩa sống cịn đối với chế độ xã hội vì nó chính là cơ

sở hạ tầng mà trên đó một thượng tầng kiến trúc tương ứng sẽ được xây dựng. “Các
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” là một khái niệm hay một phạm trù kinh tế chính trị
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta? Chúng có nội hàm, tiêu chí cụ
thể gì? Dự thảo Báo cáo Chính trị nêu “phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất”. Các quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của các lực lượng
sản xuất - hiển nhiên đây là một trong những quy luật nền tảng của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, nó đều có cuộc sống riêng trên từng mảnh đất hiện thực. Vận dụng quy luật
này vào điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, theo chúng tôi, cần xác định đầy đủ
hơn là: “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các đặc điểm lịch
sử - văn hóa dân tộc và mục tiêu của sự nghiệp cách mạng”. Chỉ trong chừng mực
phải phù hợp với đầy đủ những tiêu chí vừa nêu, nền kinh tế nước ta mới không trở
thành mảnh đất cho các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chiếm vai trị, vị trí chủ
đạo; chuỗi sản xuất - kinh doanh và các nguồn lực quốc gia mới thật sự do nhân dân
làm chủ; mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mới có đầy đủ cơ sở vật chất để
duy trì, củng cố, phát triển.


TẠP CHÍ ĐẢNG CỘNG SẢN
Sau khi mơ hình chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XX (1917-1991) được coi là
quan liêu, bao cấp, duy ý chí bị sụp đổ, những nước xã hội chủ nghĩa cịn lại đều đưa
ra mơ hình riêng. Là một trong những nước kiên định con đường xã hội chủ nghĩa và
tìm kiếm mơ hình chủ nghĩa xã hội đích thực, sau 30 năm đổi mới, Đảng ta đã hình
thành nên một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát
triển đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Từ xác định hệ mục tiêu...
Hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam được hình thành và phát triển trong
thực tiễn 30 năm đổi mới. Qua mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta luôn nhận thức, bổ sung, phát
triển và dần dần hoàn chỉnh hệ mục tiêu ấy. Từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới, trải qua

7 kỳ Đại hội, với 2 lần xây dựng Cương lĩnh phát triển đất nước, Đảng ta đã xác định
được hệ mục tiêu tương đối hoàn chỉnh ghi trong Văn kiện Đại hội XI và XII (dự
thảo) là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tại Đại hội XI (năm
2011), Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa các mục
tiêu, vị trí, vai trị của các mục tiêu với tư cách là những thuộc tính giá trị của sự
nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức lý luận của Đảng ta tại Đại hội XI về hệ mục tiêu có hai điểm nhấn
quan trọng: (1) Khẳng định vị trí, vai trị của “dân chủ”, tác dụng to lớn của dân
chủ đối với các mục tiêu khác như dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh. Xây
dựng xã hội Việt Nam thành một xã hội dân chủ với kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là
những điểm cốt yếu, quan trọng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. (2) Xác định hệ giá
trị mục tiêu của đổi mới cũng là đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng dưới sự lãnh đạo của


Đảng Cộng sản Việt Nam là một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Đến Văn kiện Đại hội XII (dự thảo), Đảng ta tiếp tục khẳng định đường lối đổi
mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta là
phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Bài học đầu tiên
trong 5 bài học thành công là “không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”. Quan
niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa như vậy đã thể hiện rõ tính dân tộc và tính thời đại,
lấy lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc là cốt lõi, là mục tiêu hàng đầu của phát triển đất
nước, vừa đúng quy luật, vừa hợp lòng dân và xu thế phát triển của thế giới đương
đại.
Đến những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở khái quát, tổng kết thực tiễn đổi mới, tư duy, nhận thức lý luận của

Đảng ta về các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được phát triển qua các nhiệm
kỳ Đại hội, nhất là trong Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm
2011. Từ những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đảng Cộng sản
Việt Nam xây dựng, được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua tại Đại hội VII (năm 1991) và Cương lĩnh
bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khái quát thành 8 đặc
trưng là: (1) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ (đưa dân chủ lên trước công bằng), công
bằng, văn minh; (2) do nhân dân làm chủ; (3) có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; (4) có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (5) con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; (6) các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đồn kết, tơn trọng, giúp nhau cùng phát triển; (7) có Nhà nước pháp


quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo; (8) có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Tám đặc trưng này vừa phản ánh quan niệm tổng quát về chủ nghĩa xã hội vừa
làm rõ nội dung các lĩnh vực của đời sống xã hội phải thực hiện, từng bước hình
thành, từ định hướng tới định hình, bảo đảm yêu cầu phát triển hài hòa, bền vững của
chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Trong đó, những bước tiến của nhận thức lý luận về chủ
nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện ở 5 điểm: (1) Nhân dân làm
chủ; (2) Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; (3) Quan hệ dân tộc trong quốc gia đa dân tộc là quan hệ bình đẳng, đồn kết,
tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; (4) Quan hệ quốc gia - dân tộc với cộng đồng
quốc tế trong hội nhập là quan hệ hữu nghị, hợp tác; (5) Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đặc biệt là vai trò lãnh
đạo của Đảng với tư cách là lực lượng tiên phong, lãnh đạo và cầm quyền đã được
hiến định trong Điều 4, Chương 1, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013.
…con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

Trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, đã có những phát triển mới
so với Cương lĩnh năm 1991, với 8 phương hướng bao quát các mặt, các lĩnh vực
của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gồm: (1) Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
(2) xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; (3) đảm bảo vững chắc quốc phịng và an ninh, trật tự, an tồn xã hội; (4) thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; (5)
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; (6) xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống
nhất; (7) xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; (8)
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.


Những phương hướng này vừa phản ánh đặc điểm nước ta quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, vừa tính đến xu thế phát triển của thế giới
đương đại. Cùng với đó, việc thực hiện 8 phương hướng sẽ cơ bản tạo cơ sở để đạt
được 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là quan hệ giữa
định hướng xã hội chủ nghĩa với định hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, được thực
hiện trong một quá trình lâu dài, phản ánh những đặc điểm, yêu cầu của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó cũng là những tất yếu
khách quan có tính quy luật đối với Việt Nam.
Và trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản, chúng ta phải giải
quyết tốt 8 mối quan hệ lớn tồn tại khách quan trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc
tế để phát triển và hiện đại hóa đất nước, được Đảng ta nhận thức, khái quát hóa thành
lý luận, có giá trị và ý nghĩa to lớn, quan trọng, gắn 8 đặc trưng xã hội xã hội chủ
nghĩa với 8 phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo thành hệ thống quan điểm
lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam, phản ánh quy luật và tính quy luật của đổi mới phát triển, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam trong điều kiện bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, trong thế giới đương đại. Đó là: (1) mối quan hệ giữa đổi
mới, ổn định và phát triển; (2) giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; (3) giữa kinh
tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; (4) giữa phát triển lực lượng sản xuất và

xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; (5) giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; (6) giữa
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; (7) giữa độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế; (8) giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý với nhân dân làm
chủ…
Và những bài học dẫn đến thành công
Kiên định con đường “xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam nỗ lực phấn đấu,
giành được những thành tựu to lớn, tạo ra những tiền đề quan trọng cho sự phát triển
trong thời gian tiếp theo. Trong nhiều năm liền, Việt Nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao (trừ năm 2013, 2014); đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng
được cải thiện, Việt Nam đã là điểm sáng về thành tựu xóa đói, giảm nghèo; trở thành
“điển hình về phát triển và bảo đảm quyền con người”; do thực hiện tốt chính sách
“hịa hợp dân tộc”, nên các dân tộc đều đoàn kết, đồng sức, đồng lịng xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tình hình an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội được giữ vững,
chính trị ổn định, Việt Nam có mơi trường đầu tư an toàn cho các nhà đầu tư nước
ngoài, là điểm hấp dẫn khách du lịch quốc tế.
Thực tiễn trên không những được nhân dân trong nước thừa nhận, mà còn được
các tổ chức, cộng đồng quốc tế như Liên hợp quốc đánh giá cao. Đó là một trong
những cơ sở quan trọng để Việt Nam tiếp tục sự kiên định con đường phát triển đất
nước một cách có cơ sở lý luận và thực tiễn. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
ngày nay diễn ra trong bối cảnh đất nước và quốc tế có những thời cơ và thách thức
đan xen. Việt Nam phải tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, kiên định con đường
xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục khẳng định độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Đây là bài học rất cơ bản, xuyên suốt, bảo đảm cho cách mạng Việt Nam
giành được thắng lợi trong giai đoạn trước đây cũng như từ nay về sau. Để xây

dựng đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”,
Việt Nam khơng có con đường nào khác ngoài con đường xã hội chủ nghĩa. chủ nghĩa
xã hội đích thực vẫn là tương lai của nhân loại, vẫn là xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản
hiện đại; vì chủ nghĩa tư bản hiện đại tuy có một số ưu điểm, thành tựu nhưng khơng
thể khắc phục được quy luật vốn có của lịch sử mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra. Sự sụp đổ của nền tài chính Mỹ và


các nước tư bản phát triển ở Tây Âu từ hồi năm 2008 đến nay phải chăng báo hiệu sự
tất yếu sẽ bị thay thế của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Bằng chứng là, tại khoá họp thường niên lần thứ 63 Đại hội đồng Liên hợp
quốc ngày 23-9-2008, Tổng thống Pháp N. Xác-cô-di - Chủ tịch luân phiên của EU đã
kêu gọi các nhà lãnh đạo chủ chốt của thế giới tổ chức một cuộc họp thượng đỉnh để
rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu; đồng thời, “tái xây dựng một
chủ nghĩa tư bản điều chỉnh”. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chủ nghĩa tư bản hiện
đại đã không thể tránh được các cuộc khủng hoảng chu kỳ mà nó cịn làm sâu sắc
thêm các cuộc khủng hoảng, biến khủng hoảng kinh tế quốc gia (Mỹ) thành cuộc đại
khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Cuộc khủng hoảng sâu sắc đến mức sự can thiệp của
nhà nước có nền kinh tế lớn nhất hành tinh như Mỹ với hàng ngàn tỉ USD nhưng đã 7
năm trôi qua, hiệu quả vẫn rất thấp, buộc FED phải duy trì lãi suất gần 0% kéo dài và
người ta vẫn còn đang lo ngại về nguy cơ tái khủng hoảng. Cuộc khủng khoảng đầu
tiên của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong thế kỷ XXI đã làm “sống lại” học thuyết
Mác - Lênin. Như vậy, trong sự bất lực của thể chế kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện đại,
nhân loại đã trở về với học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để tìm lời giải đáp.
Thêm vào đó, những năm gần đây sự xuất hiện trào lưu mới (cánh tả) hay còn gọi
là chủ nghĩa xã hội Mỹ La-tinh, chứng tỏ con đường xã hội chủ nghĩa vẫn là xu
thế phát triển của thời đại.
Ngày nay, khi mà nhân loại đang tiến tới thời đại kinh tế tri thức thì những tiêu
chí của chủ nghĩa xã hội có nhiều cơ sở để trở thành hiện thực; mặc dù, thời gian có
thể phải nhiều năm, thậm chí nhiều chục năm. Thực tiễn trên đây cũng là cơ sở để lý

giải về mối quan hệ gắn kết giữa yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội. Sự khủng hoảng
của chủ nghĩa tư bản hiện đại, sự “trở về” của nhân loại với học thuyết Mác - Lê-nin
đang làm cho vấn đề “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” không chỉ là bài
học lịch sử mà còn là yêu cầu khách quan của cả hiện tại và tương lai.
Tiếp thu những thành tựu tiên tiến cho xây dựng chủ nghĩa xã hội


Trên cơ sở kiên định con đường đã chọn, biết tiếp thu, vận dụng những thành
tựu của nhân loại vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là một trong những bài học về
xây dựng mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cho đến nay, đường lối đổi mới của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa lại những thành tựu to lớn, được cả các nước theo
con đường tư bản chủ nghĩa và con đường xã hội chủ nghĩa tán thành, ủng hộ nhưng
với động cơ và nhận thức khác nhau như vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,
xây dựng nền kinh tế thị trường... Nhưng, thực chất đó là sự vận dụng những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được trong giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại
vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, chứ không phải là xa rời học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện ngay trong quá trình xây
dựng
Thực tế qua 30 năm đổi mới và phát triển đất nước Việt Nam đã thu được
những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, nhận thức và đánh giá về tình hình đó lại có
sự khác nhau. Điều này địi hỏi Việt Nam vừa phải kiên định định hướng xã hội chủ
nghĩa, vừa phải cụ thể hóa mơ hình xã hội chủ nghĩa để mọi người dân thấy rõ và cảm
nhận được tính ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân đang xây dựng.
Những thành tựu của đất nước như: xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an ninh, ổn định
chính trị - xã hội, kinh tế phát triển với tốc độ tương đối nhanh, hạn chế và khắc phục
có hiệu quả những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính tồn
cầu, được thế giới cơng nhận, cần được tiếp tục phát huy. Bên cạnh đó, Việt Nam
cũng cần đầu tư thoả đáng hơn nữa vào các chính sách xã hội, như: trợ cấp thất
nghiệp, bảo đảm y tế cộng đồng, phúc lợi xã hội... để cho người dân Việt Nam có thể
cảm nhận được tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa so với tư bản chủ nghĩa ngay trong

quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, trong thời đại ngày nay khi mơ hình chủ nghĩa xã hội quan liêu bao
cấp đã sụp đổ (năm 1991), mơ hình chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng đang lún sâu trong


cuộc đại khủng khoảng, bắt nguồn từ Mỹ năm 2008 kéo dài cho đến nay, hiện vẫn
đang trong giai đoạn “tiêu điều” chưa có dấu hiệu phục hồi và phát triển, thì việc Việt
Nam kiên định sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách
quan của thời đại, được nhân dân Việt Nam và nhân loại tiến bộ đồng tình ủng hộ. Sau
30 năm đổi mới, Đảng ta đã hình thành được một hệ thống quan điểm lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở khoa học cho hoạch
định đường lối, chính sách, phát triển đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh”, góp phần bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong
30 năm đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong lãnh đạo dân tộc Việt Nam kiên định con đường xã hội chủ nghĩa và lựa chọn
mơ hình chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng vừa phù hợp với những đặc điểm của
đất nước và con người Việt Nam vừa phù hợp với tính chất của thời đại mới - thời đại
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế./.



×