Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Luận văn: Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Campuchia pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 94 trang )




Luận văn
Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
Việt Nam sang thị trường
Campuchia
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính tất yếu của việc nghiên cứu đề tài
Campuchia và Việt Nam là hai nước láng giềng gần gũi với hơn 1.100 km
đường biên giới chung và “sợi dây tự nhiên” - sông Mê Kông liên kết. Trong quá
trình lịch sử hơn 40 năm quan hệ ngoại giao, Việt Nam và Campuchia đều nhận
thức sâu sắc tầm quan trọng của quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Từ nhận
thức ấy, chính phủ hai nước luôn tích cực phát triển mối quan hệ láng giềng truyền
thống tốt đẹp lên một tầm cao mới xứng đáng với tiềm năng cũng như mong đợi của
cả hai quốc gia. Đặc biệt, khi xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay là động lực cho sự phát triển các quan hệ hợp tác cả về kinh tế, chính trị và văn
hóa, thì Việt Nam và Campuchia đang có điều kiện rất lớn để phát triển quan hệ
kinh tế quốc tế nói chung và thương mại quốc tế nói riêng. Tuy nhiên xu thế đó
cũng đặt ra không ít những khó khăn và thách thức cho cả hai nước.
Là một trong những quốc gia gia nhập WTO đầu tiên trong khu vực ASEAN,
Campuchia thể hiện mình là một nước có tiềm lực về kinh tế với mức tăng trưởng
kinh tế hàng năm khá cao, đạt xấp xỉ 8%/năm. Việt Nam trong mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội của mình không thể không liên kết, hợp tác với một láng giềng như
vậy. Vì lẽ đó, Campuchia luôn trong top 3 nước của khu vực ASEAN mà Việt Nam
xuất khẩu hàng hóa nhiều nhất. Vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
sang Campuchia là một trong những mục tiêu phát triển thương mại của Việt Nam
với các nước trong khu vực, và điều đó càng trở nên cấp thiết hơn trong bối cảnh
chính trị khu vực hiện nay.
Từ cuối năm 2008 đến nay, tình hình chính trị của Campuchia và Thái Lan –


hai đối tác kinh tế quan trọng của nhau đang ngày càng trở nên xấu đi vì tranh chấp
biên giới xung quanh ngôi đền cổ Preahvihia. Cùng với những xô xát về mặt quân
sự, những vụ trả đũa nhau về kinh tế của hai nước vẫn diễn ra liên tiếp trong năm
qua. Có lúc tưởng chừng hai bên đóng cửa biên giới không cho người và hàng hóa
qua lại, vì thế hoạt động trao đổi hàng hóa giữa hai nước bị ảnh hưởng nghiêm
trọng. Người dân Campuchia đang dần có xu hướng tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu
từ Việt Nam thay thế cho hàng hóa từ Thái Lan. Ở góc độ Việt Nam, đây là cơ hội
tốt cho hàng hóa nước ta thay thế thị phần của hàng hóa Thái Lan, vốn đóng vai trò
chủ yếu trong thị trường Campuchia. Vì vậy vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam vào thị trường Campuchia trong bối cảnh hiện nay đang trở nên cấp
thiết hơn bao giờ hết.
Nhận thức được điều đó, em đã lựa chọn đề tài “Thúc đẩy xuất khẩu hàng
hóa Việt Nam sang thị trường Campuchia” làm chuyên đề thực tập cuối khóa của
mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích:
Nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị
trường Campuchia, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động này
trong tương lai.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Thứ nhất, nghiên cứu tổng quan tình hình kinh tế thương mại Campuchia
và sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Campuchia
- Thứ hai, nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam
sang Campuchia
- Thứ ba, định hướng và một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam sang thị trường Campuchia

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Campuchia
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Campuchia; các
nhóm mặt hàng xuất khẩu gồm có: nhóm sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, xây
dựng, khoáng sản, thực phẩm chế biến.
- Về thời gian: Từ năm 2001 đến nay (tháng 3 năm 2010)

4. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích và tổng hợp
- So sánh đối chiếu
- Thống kê nghiên cứu
- Kế thừa kết quả nghiên cứu cùng lĩnh vực

5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu đề tài của chuyên đề thực tập cuối khóa được chia làm ba chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình kinh tế Campuchia và quan hệ
thương mại Việt Nam – Campuchia

Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam
sang thị trường Campuchia

Chương 3: Định hướng và một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Campuchia











CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KINH TẾ CAMPUCHIA
VÀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM - CAMPUCHIA

1.1. Tổng quan về đất nước Campuchia và mối quan hệ Việt Nam –
Campuchia
1.1.1. Vài nét về đất nước Campuchia
Campuchia có tên đầy đủ là Vương Quốc Campuchia (the Kingdom of
Cambodia). Diện tích là 181.035 km2. Vị trí địa lý nằm ở Tây Nam bán đảo Đông
Dương, Tây và Tây Bắc giáp Thái Lan, Đông và Đông Nam giáp với Việt Nam,
Bắc giáp với Lào, Nam giáp với Vịnh Thái Lan.
Dân số là 14,4 triệu người (thống kê năm 2007), trong đó người Khmer
chiếm 90%, còn lại là các dân tộc khác. Thủ đô có tên là Phnôm Pênh (dân số
khoảng 1,2 triệu người). Ngoài Phnôm Pênh còn có ba thành phố khác là
Komphong Cham, còn gọi là Sihanoukville, Kep và Pailin. Quốc khánh là ngày
9/11/1953.
Ngôn ngữ chính là tiếng Khmer, ngoài ra Tiếng Pháp, Tiếng Anh được dùng
thông dụng. Tôn giáo chính là đạo Phật (tiểu thừa) chiếm 95%, được coi là quốc
đạo. Đạo Hồi và Thiên chúa giáo chiếm 5%.
Khí hậu đặc trưng nhiệt đới với hai mùa rõ rệt (mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4). Nhiệt độ trung bình dao động từ 21 độ
C đến 35 độ C. Tháng ba và tháng tư là nóng nhất còn tháng Giêng là tháng mát
nhất trong năm.
Đơn vị tiền tệ là Riel, với tỷ giá hối đoái là 0,1 USD = 4.092,5 Riel. Tiền
Đồng của Việt Nam và tiện Baht của Thái Lan có thể dùng được ở các tỉnh biên

giới.
Tài nguyên chính của Campuchia là rừng, nước và khoáng sản. Rừng chiếm
khoảng 70% diện tích. Khu vực sông Mekong và Tonle Sap là những khu vực màu
mỡ nhất, chiếm khoảng 20% tổng diện tích của Campuchia. Đường bờ biển và vịnh
Thái Lan cũng rất nổi tiếng với rừng đước ngập mặn. Khoáng sản có đá quý như đá
sa-phia, ruby, quặng sắt, quặng mangan, bôxít, dầu mỏ…
Về phong tục tập quán, người Campuchia sống kín đáo, giản dị và nhã nhặn.
Họ thường chào nhau theo kiểu truyền thống là chắp hai tay vào nhau như cầu
nguyện, đầu hơi cúi. Họ coi trọng gia đình hạt nhân, trong đó người phụ nữ đóng
vai trò chính; gia đình bên vợ cũng quan trọng hơn gia đình bên chồng.
Về chính trị, Campuchia là quốc gia quân chủ lập hiến. Hiến pháp
Campuchia quy định Campuchia thực hiện chính sách dân chủ, đa đảng. Hệ thống
quyền lực được phân định rõ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp bao gồm: Vua,
Hội đồng ngôi Vua, Thượng viện, Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Hội đồng Hiến
pháp và cơ quan hành chính các cấp. Lãnh đạo chính là Thủ tướng chính phủ Hoàng
gia Samdech Techo Hun Sen. Vào năm 2009, Campuchia đã tổ chức thành công
cuộc bầu cử Hội đồng lãnh đạo cơ sở cấp thủ đô, tỉnh, thành, quận, huyện (ngày
17/05). Kết quả là hầu hết các vị trí lãnh đạo Chủ tịch Hội đồng cấp thủ đô, tỉnh,
thành, quận, huyện đều do Đảng nhân dân đảm nhiệm. Hiện nay vấn đề chính trị
của Campuchia đang gặp rất nhiều vấn đề do sự mâu thuẫn giữa Đảng nhân dân
đảm nhiệm và Đảng đối lập Sam Rainsy. Với những diễn biến bất lợi về chính trị
trong nước, Campuchia vẫn cần ổn định và hoàn thiện bộ máy lập pháp và hành
pháp của mình để bắt tay vào phát triển kinh tế xây dựng đất nước. Bên cạnh đó,
Campuchia còn đứng trước nhiều trắc trở, hiểm họa từ bên ngoài, đe dọa sự hòa hợp
dân tộc, sự ổn định về chính trị - xã hội, tiền đề cơ bản của sự phát triển đất nước.
1.1.2. Tình hình phát triển kinh tế thương mại Campuchia
Campuchia là nước nông nghiệp với 20% diện tích là đất nông nghiệp, 75%
dân số làm nghề nông. Sản phẩm chủ yếu là lúa, ngô, lạc, cau su, thuốc lá…; tài
nguyên quý hiếm như dầu mỏ, gỗ, đá quý, hồng ngọc, vàng, bôxít… Campuchia
còn có khu đền Angkor được xếp hạng là một trong số các kỳ quan của thế giới.

Kinh tế Campuchia bắt đầu phát triển vào những năm 90 khi nền kinh tế thị
trường được thiết lập. Từ năm 2000 đến năm 2004, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung
bình đạt 6,4%; năm 2005 đạt 8,4%, trong đó có bốn lĩnh vực phát triển mạnh là dệt
may, nông nghiệp, du lịch và xây dựng. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
9,1%, năm 2007 là 9,6%, năm 2008 là 7,5%. Có sự giảm đáng kể của năm 2008 so
với năm 2007 là do xuất khẩu của Campuchia giảm, đặc biệt là ngành dệt may do
có sự cạnh tranh gay gắt của hàng dệt may Trung Quốc khi rào cản đối với hàng
hóa Trung Quốc được bãi bỏ vào cuối năm 2008. Minh họa ở bảng biểu sau đây:

Bảng 1.1: GDP và tốc độ tăng trưởng GDP của Campuchia năm 2003 – 2009
Đơn vị: tỷ USD
Năm GDP Tốc độ tăng trưởng (%)
2003 28,87
7,0
2004 31,10
7,7
2005 33,69
8,4
2006 36,78
9,1
2007 40,31
9,6
2008 43,33
7,5
2009 46,29
6,8
(Nguồn: Quỹ tiền tệ thế giới và Ngân hàng phát triển Châu Á)
Biểu 1.1: Tốc độ tăng trường GDP của Campuchia năm 2003 – 2009

(Nguồn: Quỹ tiền tệ thế giới và Ngân hàng phát triển Châu Á)

Về nông, lâm, ngư nghiệp: Giá trị ngành này chiếm 28,5% trong GDP. Năm
2003 giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng 10,2% ; năm 2004 giảm 1,0% ; năm
2005 tăng 15,5% ; năm 2006 tăng 5,5% và năm 2007 tăng 5,2%. Campuchia là
nước nông nghiệp với hơn 75 % dân số sống bằng nghề nông, sản phẩm chủ yếu là
lúa, ngô, đậu các loại, cao su, lá thuốc lá, hải sản.v.v…và nhiều loại khoảng sản
khác. Trị giá của ngành nông nghiệp là 31% GDP năm 2007, thấp hơn so với năm
2006 là 35% do sự nông nghiệp gặp nhiều khó khăn về thiên tai, dịch họa… Đồng
thời cũng là do có sự gia tăng mạnh mẽ ở ngành sản phẩm chế biến và may mặc.
Về công nghiệp và xây dựng: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2003
tăng 12,4 % ; năm 2004 tăng 17,0 % ; năm 2005 tăng 12,9 % ; năm 2006 tăng 18,4
% và năm 2007 tăng 8,0 %. Ngành công nghiệp của Campuchia còn yếu kém, chủ
yếu dựa vào đầu tư và viện trợ của nước ngoài. Hàng năm Campuchia phải nhập
siêu hàng trăm triệu USD. Tuy vậy, ngành công nghiệp của Campuchia cũng có sự
phát triển đáng kể trong những năm trở lại đây, chủ yếu là hàng công nghiệp nhẹ
dệt may, da giày; công nghiệp nặng gần như chưa có chuyển biến đáng kể.
Về dịch vụ: Thế mạnh của ngành du lịch Campuchia là quần thể các ngôi đền
Angkorwat, kỳ quan nổi tiếng của thế giới đã được công nhận. Giá trị gia tăng
ngành du lịch của Campuchia đạt 43% GDP trong năm 2007, lớn hơn hẳn ngành
nông nghiệp và công nghiệp, điều đó cho thấy tiềm năng du lịch của vương quốc
này là rất lớn.
Về đầu tư: Năm 2007 Hội đồng phát triển Campuchia cấp phép 130 dự án
đầu tư với tổng số vốn 2,7 tỷ USD, tăng 31,3 % so với năm 2006. Đầu tư từ phía
Campuchia chỉ yếu là từ khu vực cá thể với các xí nghiệp vừa và nhỏ, tập trung vào
các lĩnh vực như lương thực thực phẩm; thêu, dệt, đồ da; sản phẩm hóa chất như xà
fòng, hương liệu…; sản phẩm tái chế… Đầu tư từ nước ngoài tập trung chủ yếu ở
lĩnh vực dệt may; nhà hàng khách sạn; bảo hiểm; viễn thông; phân phối, tiếp thị dầu
khí… Hiện đầu tư nước ngoài chiếm 16% GDP của Campuchia. Các nhà đầu tư lớn
vào Campuchia gồm có: Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Pháp,
Mỹ… Tuy nhiên do tình hình chính trị chưa ổn định, bộ máy hành chính cồng kềnh
và tệ tham nhũng, hối lộ nặng nề nên đầu tư nước ngoài vào Campuchia còn bị hạn

chế.
Về thương mại: Trong giai đoạn 5 năm trở lại đây, hoạt động xuất khẩu của
Campuchia có nhiều tiến triển vượt bậc, đạt những kết quả cao. Gần 75 % kim
ngạch xuất khẩu của Campuchia là hàng may mặc, năm 2003 xuất khẩu đạt 2,087 tỷ
USD ; năm 2004 đạt 2,589 tỷ USD ; năm 2005 đạt 2,910 tỷ USD ; năm 2006 đạt
3,694 tỷ USD và năm 2007 đạt 4,042 tỷ USD tăng 9,4 % so với năm 2006. Mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu của Campuchia là quần áo, giày dép, cao su, gạo, cá, thuốc
lá. Đối tác xuất khẩu chủ yếu là Mỹ chiếm 42,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, Hồng
Kông chiếm 29,4%, Đức chiếm 8,6%, Canada chiếm 6,6% năm 2008. Về nhập
khẩu, năm 2003 nhập khẩu đạt 2,087 tỷ USD ; năm 2004 đạt 3,269 tỷ USD ; năm
2005 đạt 3,928 tỷ USD ; năm 2006 đạt 4,749 tỷ USD và năm 2007 đạt 5,377 tỷ
USD tăng 13,2 % so với năm 2006.
1.1.3. Tổng quan chung về mối quan hệ Việt Nam – Campuchia
Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 24/6/1967. Năm 1930, Đảng
Cộng Sản Đông Dương ra đời, sau một thời gian lãnh đạo đã tách ra thành ba Đảng
độc lập. Việt Nam đưa quân sang Campuchia lần thứ nhất giúp Campuchia tiến
hành cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ năm 1954 – 1970, chính quyền Sihanouk
thực hiện chính sách hòa bình trung lập tích cực, từng bước có quan hệ tốt với các
lực lượng Cách Mạnh Việt Nam, ủng hộ đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân
dân Việt Nam. Từ năm 1970 – 1975, các lực lượng cách mạng của 3 nước Đông
Dương thành lập Mặt trận Đoàn kết Đông Dương để hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau
trong cuộc đấu tranh chung chống Mỹ và tay sai. Quân tình nguyện của Việt Nam
lần thứ hai vào Campuchia. Từ 1979 – 1989, Việt Nam lần thứ ba đưa quân vào
Campuchia giúp lực lượng cách mạng Campuchia lật đổ và ngăn chặn chế độ diệt
chủng Pol Pot, giúp Campuchia hồi sinh. Từ năm 1993 đến nay, quan hệ Việt Nam
– Campuchia không ngừng được củng cổ và phát triển về mọi mặt. Hai bên đã có
nhiều chuyến thăm viếng cấp cao, đặc biệt là chuyến thăm chính thức Campuchia
của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tháng 3/2005, hai bên đã nhất trí phương châm
phát triển quan hệ hai nước trong thời kỳ mới theo hướng “láng giềng tốt đẹp, hữu
nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Tháng 10 năm 2005, Thủ

tướng Hun Sen sang thăm chính thức Việt Nam, hai nước đã ký Hiệp định bổ sung
Hiệp định hoạch định biên giới Quốc gia năm 1985. Vào chuyến thăm chính thức
Campuchia của Thủ tướng Phan Văn Khải năm 2006 cũng đã đạt được một số thỏa
thuận quan trọng góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước lên một tầm cao mới.
Hợp tác trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng: được hai nước chú trọng đẩy
mạnh. Hội nghị hợp tác phát triển các tỉnh biên giới Việt Nam – Campuchia lần thứ
nhất (tháng 9 năm 2004) và Hội nghị lần thứ 2 (tháng 9 năm 2005) đã đánh dấu một
cơ chế hợp tác mới giữa các tỉnh giáp biên giới nhằm đảm bảo an ninh biên giới hai
nước.
Hợp tác trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật: hai nước đã thành
lập Ủy Ban hỗn hợp về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật vào tháng 4 năm 1994.
Tại mỗi kỳ họp của Ủy Ban hỗn hợp, hai nước kiểm điểm việc thực hiện các kế
hoạch hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, quân sự, an
ninh đồng thời đưa ra các kế hoạch mới cho những năm tiếp theo.
Hợp tác giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh giáp biên giới và các
thành phố có quan hệ kết nghĩa cũng được đẩy mạnh, góp phần củng cố và phát
triển quan hệ hữu nghị láng giềng truyền thống tốt đẹp.
Bên cạnh hợp tác song phương, hai bên tích cực đẩy mạnh hợp tác trong
khuôn khổ ASEAN, trong các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế như hợp tác
trong Ủy Hội sông Mêkông (MRC), Tiểu vùng sông MêKông mở rộng (GMS),
Chương trình phát triển các vùng nghèo liên quốc gia dọc Hành lang Đông Tây
(WEC), Chiến lược hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayeyawady – Chao Praya –
MêKông (ACMECS), Tứ giá phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia - Mianma
(CLMV), Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia.

1.2. Mối quan hệ thương mại Việt Nam – Campuchia và một số hiệp
định hợp tác kinh tế thương mại quan trọng giữa hai nước
Trong lĩnh vực thương mại, hai nước đã thành lập Ủy Ban hỗn hợp về kinh
tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật vào tháng 4 năm 1994. Đến nay Ủy Ban này đã tiền
hành được 11 kỳ họp. Tại mỗi kỳ họp của Ủy ban hỗn hợp, hai nước kiểm điểm

việc thực hiện các kế hoạch hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, thương mại,
quân sự, an ninh , đồng thời đưa ra các kế hoạch mới cho những năm tiếp theo.
Hơn nữa, hàng năm hai bên tổ chức các diễn đàn doanh nghiệp để doanh
nghiệp hai bên có điều kiện tiếp xúc trao đổi và hợp tác kinh tế với nhau qua đó
thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước. Diễn đàn gần đây nhất là Diễn đàn doanh
nghiệp gồm 4 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar vào ngày 10/12/2009 tại
Nha Trang, Khánh Hòa. Tại diễn đàn đã có nhiều ký kết thành công giữa các doanh
nghiệp bốn nước về viễn thông và dây cáp điện. Gần đây nhất, có hội chợ triển lãm
hàng Việt Nam tại Campuchia với sự tham gia của hơn 200 doanh nghiệp Việt Nam
nhằm giới thiệu sản phẩm thuộc nhiều lĩnh vực như thực phẩm chế biến, công nghệ
phẩm, dệt may, da giày, hàng kim khí điện máy, vật liệu xây dựng… Bên lề triển
lãm sẽ diễn ra các cuộc hội thảo về chất lượng hàng hóa và ký kết hợp đồng thương
mại giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các đối tác nước chủ nhà.
Trên lĩnh vực kinh tế thương mại, hai bên nhất trí tăng cường phối hợp, hợp
tác trong việc xúc tiến thương mại và xây dựng thêm các chợ biên giới nhằm thúc
đẩy và tạo thuận lợi cho thương mại dịch vụ ở khu vực biên giới hai nước tăng
trưởng nhanh và mạnh; tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, hàng giả, tiền giả
qua biên giới hai nước. Hai bên thống nhất thúc đẩy hợp tác trên một số lĩnh vực cụ
thể như nông nghiệp, thủy điện, giao thông vận tải, khai tác khoáng sản, dầu khí,
trông cây cao su, du lịch.
Bảng 1.2: Thống kê xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường Campuchia
Đơn vị: triệu USD
Năm

Xuất
khẩu
Tốc độ
tăng (%)
Nhập
khẩu

Tốc độ
tăng (%)
Tổng kim
ngạch
Tốc độ
tăng (%)
2005

536 156,6
692,6

2006

765,1 42,7 169,4 8,1
934,5
34,9
2007

991 29,5 202,2 9,3
1.193
27,6
2008

1.431 44,4 210 3,8
1.640,6
37,5
2009

1.146 -19.9 186,2 -0,12 1.333,1 81,3
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)

Ta có thể thấy, xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh qua các năm, duy chỉ có
năm 2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên xuất khẩu của
Việt Nam sang Campuchia có phần hạn chế. Tuy nhiên, Việt Nam luôn là nước xuất
siêu sang Campuchia và ngày càng xuất siêu nhiều hơn. So với tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu giữa hai nước, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam luôn ở vị thế áp đảo.
Bảng 1.3: Những mặt hàng chính Việt Nam xuất sang Campuchia năm 2009
Đơn vị: USD
STT

Tên hàng Tháng 12 12 tháng/2009

1 Hàng hải sản 1.484.511

17.244.635

2 Hàng rau quả 255.142

3.491.506

3 Bánh kẹo các SP từ ngũ cốc 3.811.021

36.432.032

4 Xăng dầu các loại 54.071.004

454.881.265

5 Hóa chất 266.207

2.910.073


6 SP hóa chất 2.251.532

24.473.639

7 Chất dẻo nguyên liệu 474.697

5.638.945

8 SP từ chất dẻo 3.920.284

39.960.900

9 SP từ Cao su 305.730

3.147.969

10 Gỗ & SP gỗ 85.091

1.699.211

11 Giấy và SP từ giấy 1.239.839

17.693.715

12 Hàng dệt may 3.192.267

31.692.232

13 SP Gốm sứ 931.460


8.245.196

14 Thủy tinh & các SP từ thủy tinh 107.108

3.397.426

15 Dây điện, dây cáp điện 560.644

7.291.554

16 Sắt thép các loại 14.942.226

129.281.999

17 SP từ sắt thép 4.458.278

51.982.326

18 Máy móc, thiết bị, dụng cụ PT khác 2.694.976

38.845.115

19 Phương tiện vận tải và phụ tùng 808.436

10.004.948

… …




Tổng kim ngạch xuất khẩu 122.585.013

1.146.930.905

(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Những mặt hàng chính mà Việt Nam xuất sang Campuchia đều là những mặt
hàng Việt Nam có thể mạnh xuất khẩu như nông sản, thực phẩm chế biến, các mặt
hàng công nghiệp nhẹ. Điều đó cho thấy, Việt Nam có điều kiện để gia tăng xuất
khẩu sang thị trường Campuchia hơn nữa trong thời gian tới.
Bảng 1.4: Những mặt hàng nhập khẩu chính từ Campuchia năm 2009
Đơn vị: USD
STT Tên hàng Tháng 12 12 tháng/2009
01 Nguyên phụ liệu thuốc lá

7.342.250

02 Cao su 11.594.701

75.362.430

03 Gỗ & SP gỗ 4.190.824

39.753.702

04 SP từ kim loại thường khác 719.679

2.605.527

05 Hàng Thủy sản


320.775







Tổng kim ngạch nhập khẩu 25.018.464

186.231.750

(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Bên cạnh đó, theo bảng 1.4, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ Campuchia các
loại nguyên liệu phục vụ sản xuất. Điều đó cho thấy quan hệ xuất nhập khẩu giữa
Việt Nam và Campuchia là quan hệ bổ sung cho nhau.
Nhận thức rõ những lợi ích trong quan hệ song phương Việt Nam –
Campuchia, trong thời gian qua, Chính Phủ cả hai nước đã có nhiều biện pháp
nhằm tháo gỡ những khó khăn và khuyến khích hoạt động hợp tác kinh tế thương
mại Việt Nam – Campuchia.
Chính Phủ hai nước đã chính thức phê duyệt về việc nâng cấp và mở thêm
các cửa khẩu để tạo thuận lợi cho các hoạt động phát triển kinh tế và văn hóa của
hai nước. Theo như đã nhất trí, cửa khẩu Tịnh Biên (An Giang, Việt Nam) – Phnôm
Den (Ta Keo, Campuchia) sẽ là cửa khẩu quốc tế; các cửa khẩu Bình Diệp (Long
An, Việt Nam) – Prey Voir (Svay Rieng, Campuchia); Kà Tum (Tây Ninh, Việt
Nam) – Chan Moul (Kompong Cham, Campuchia); Tràng Riệc (Tây Ninh, Việt
Nam) – Da (Kompong Cham, Campuchia) và cửa khẩu Tống Lê Chân (Tây Ninh –
Việt Nam) – Sa Tum (Kompong Cham, Campuchia) là những cửa khẩu chính.
Ngoài ra, hai bên nhất trí mở cửa khẩu phụ thuộc tỉnh Long An, tiếp giáp với Sre

Barang, thuộc tỉnh Svay Rieng, Campuchia.
Thủ tướng Chính Phủ hai nước tính đến nay đã quyết định thành lập 11 khu
kinh tế cửa khẩu, với tổng diện tích các khu kinh tế cửa khẩu này là hơn 7200 km2
với dân số khoảng 2.354 ngàn người. Trong đó mới đây nhất, vào ngày 20/03/2010,
Thủ tướng Chính Phủ đã quyết định khánh thành Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Hoa
Lư. Đây được coi là một cầu nối giao lưu phát triển kinh tế và văn hóa chiến lược
của Việt Nam và Campuchia. Các khu kinh tế cửa khẩu đã đóng góp 34,4% kim
ngạch xuất nhập khẩu, 6% thu ngân sách; 10,2 % thuế suất nhập khẩu của 23 khu
kinh tế cửa khẩu cả nước (tính đến năm 2007).
Bên cạnh đó, Bộ Thương Mại Việt Nam cũng thường xuyên tổ chức các Hội
Chợ Thương Mại Việt Nam tại Campuchia. Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp
Việt Nam trực tiếp tiếp xúc và tìm kiếm cơ hội kinh doanh với các đối tác
Campuchia. Để nhằm xúc tiến thương mại Việt Nam – Campuchia, Văn phòng
Chính Phủ đã ký văn bản số 4434/VPCP-KTTH, đống ý cho phép các doanh nghiệp
xuất khẩu hàng hóa dịch vụ sang Campuchia thu ngoại tệ mạnh như USD bằng tiền
mặt được áp dụng thuế suất, thế giá trị gia tăng bằng 0%, được khấu trừ hoàn toàn
thuế giá trị gia tăng đầu vào, với điều kiện doanh nghiệp phải được Ngân Hàng Nhà
Nước cho phép nộp USD vào tài khoản.
Tính đến nay, Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Thương nghiệp Campuchia
đã ký các văn bản quan trọng sau nhằm thúc đẩy và phát triển thương mại:


- Hiệp định Thương Mại Việt Nam – Campuchia (năm 1998)
- Hiệp định vận chuyển hàng hóa quá cảnh (năm 2000)
- Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (26/11/2001)
- Hiệp định mua bán và trao đổi hàng hóa và dịch vụ thương mại tại
khu vực biên giới giữa hai nước (26/11/2001)
- Hiệp định về chống buôn lậu và vận chuyển hàng hóa trái phép qua
biên giới Việt Nam – Campuchia (tháng 8 năm 2002)
- Hiệp định miễn thị thực Việt Nam – Campuchia (4/11/2008)

- Hiệp định về quá cảnh hàng hóa giữa Việt Nam và Campuchia
(4/11/2008)
- Hiệp định đường bộ Việt Nam – Campuchia (30/09/2009)
- Hiệp định vận tải đường thủy Việt Nam – Campuchia (18/12/2009)

1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam sang thị trường Campuchia
1.3.1. Các nhân tố quốc tế
Đây là các nhân tố nằm ngoài phạm vi điều khiển của Việt Nam, có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp
Việt Nam, có thể kể đến các nhân tố:
- Môi trường kinh tế: Tình hình phát triển kinh tế của thị trường Campuchia
có ảnh hưởng tới nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng Campuchia, do đó
có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam. Các nhân tố
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của thị trường Campuchia là tổng sản phẩm
quốc nội (GDP), thu nhập của dân cư, tình hình lạm phát, tình hình lãi suất.
- Môi trường luật pháp: Tình hình chính trị hợp tác quốc tế được biển hiện ở
xu thế hợp tác giữa các quốc gia. Điều này dẫn đến sự hình thành các khối kinh tế,
chính trị của một nhóm các quốc gia do đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình thị trường
xuất khẩu của doanh nghiệp. Campuchia và Việt Nam là hai nước láng giềng tốt, đã
ký kết nhiều hiệp định kinh tế thương mại quan trọng và đều là thành viên là
ASEAN, WTO, đó là điều kiện tốt giúp môi trường luật pháp của hai nước có sự
tương đồng cao.
- Môi trường văn hóa xã hội: Đặc điểm và sự thay đổi của văn hóa – xã hội
của thị trường xuất khẩu có ảnh hưởng lớn đến nhu cầu của khách hàng, do đó ảnh
hưởng đến quyết định mua hàng của khác hàng và ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiêp. Nói một cách khác, đây là yếu tố về thị hiếu tiêu dùng của
nước xuất khẩu, yếu tố hết sức quan trọng trong việc quyết định cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu, mẫu mã và chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp Việt Nam khi
xuất khẩu sau thị trường Campuchia.

- Môi trường cạnh tranh: Mức độ cạnh tranh quốc tế biểu hiện ở sức ép từ
phía các doanh nghiệp, các công ty quốc tế đối với doanh nghiệp Việt Nam khi
cùng tham gia vào thị trường Campuchia. Sức ép này ngày càng lớn thì ngày càng
khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập, duy trě vŕ mở rộng thị trường
xuất khẩu của mình tại Campuchia. Hàng hóa Thái Lan là đối thủ cạnh tranh rất lớn
với hàng hóa Việt Nam trong thị trường Campuchia. Theo như đánh giá của người
tiêu dùng Campuchia thì hàng hóa Thái Lan có chất lượng và mẫu mã đẹp hơn
nhưng giá thành cao hơn hàng hóa Việt Nam.

1.3.2. Các nhân tố quốc gia
- Nguồn lực trong nước: Một nước có nguồn lực dồi dào là điều kiện thuận
lợi để các doanh nghiệp trong nước có điều kiện phát triển, xúc tiến các mặt hàng có
sử dụng lao động. Về ngắn hạn, nguồn lực được xem là không biến đổi vì vậy
chúng ít tác động đến sự biến động của xuất khẩu. Nước ta có nguồn nhân lực dồi
dào, giá nhân công rẻ là điều kiện thuận lợi để xuất khẩu các mặt hàng sử dụng
nhiều lao động như dệt may, giầy dép, thủ công mỹ nghệ Tuy nhiên Campuchia
cũng là nước có nguồn lao động dồi dào thậm chí còn rẻ hơn của Việt Nam vì thế
mặt hàng xuất khẩu mang tính chiến lược sang Campuchia phải là hàng hóa có hàm
lượng công nghệ cao.
- Nhân tố công nghệ: Ngày nay khoa học kỹ thuật tác động đến tất cả các
lĩnh vực kinh tế xã hội, và mang lại nhiều lợi ích, xuất khẩu không phải ngoại lệ khi
công nghệ giúp mang lại nhiều kết quả cao. Nhờ sự phát triển của bưu chính viễn
thông, các doanh nghiệp ngoại thương Việt Nam có thể đàm phán với đối tác qua
điện thoại, fax giảm bớt đáng kể chi phí giao dịch, rút ngắn thời gian giao dịch.
Công nghệ cũng giúp các nhà kinh doanh nắm bắt thông tin một cách chính xác và
kịp thời hơn. Yếu tố công nghệ cũng tác động đến quá trình sản xuất, gia công hàng
hóa xuất khẩu, kỹ thuật nghiệp vụ trong Ngân hàng
- Cơ sở hạ tầng: Đây là yếu tố không thể thiếu nhằm thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu. Cơ sở hạ tầng gồm: đường xá, bến bãi, hệ thống vận tải, hệ thống thông
tin, hệ thống ngân hàng có ảnh hưởng lớn tới hoạt động xuất khẩu, nó thúc đẩy

kim ngạch của hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng dành cho xuất khẩu
của Việt Nam còn kém, trang thiết bị còn lạc hậu. Về yếu tố này Campuchia thậm
chí còn kém hơn vì thế trong tương lại hai nước cần cấp thiết phối hợp nâng cấp hệ
thống cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại.
- Hệ thống chính trị pháp luật của nhà nước: Nhân tố này không chỉ tác
động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam ở hiện tại mà còn ảnh
hưởng trong tương lai. Vì vậy doanh nghiệp Việt Nam phải tuân theo và hưởng ứng
nó ở hiện tại, mặt khác phải có kế hoạch trong tương lai cho phù hợp. Các doanh
nghiệp ngoại thương Việt Nam khi tham gia hoạt động xuất khẩu cần biết và tuân
theo các quy định của pháp luật về hoạt động xuất khẩu nói riêng và hoạt động kinh
doanh nói chung. Do vậy doanh nghiệp cần lợi dụng các chính sách hỗ trợ của Nhà
nước về hoạt động xuất khẩu cũng như không tham gia vào các hoạt động xuất khẩu
mà Nhà nước không cho phép.
- Tỷ giá hối đoán và chính sách tỷ giá hối đoái: là nhân tố quan trọng thực
hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu trong hoạt động xuất khẩu. Do
vậy doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm đến yếu tố tỷ giá vì nó liên quan đến việc
thu đổi ngoại tệ sang nội tệ, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu của doanh
nghiệp. Hầu hết các giao dịch giữa Việt Nam và Campuchia hiện nay dùng USD vì
thế vấn đề tỷ giá hối đoái càng trở nên quan trọng hơn. Để biết được tỷ giá hối đoái,
doanh nghiệp phải hiểu được cơ chế điều hành tỷ giá hiện hành của Nhà nước, theo
dõi biến động của nó từng ngày. Doanh nghiệp phải lưu ý tỷ giá hối đoái được điều
chỉnh dựa theo lạm phát.
- Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước: Cạnh
tranh một mặt có tác động thúc đẩy sự vươn lên của các doanh nghiệp, mặt khác nó
cũng dìm chết các doanh nghiệp yếu kém. Mức độ canh tranh ở dây biểu hiện ở số
lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cùng ngành hoặc các mặt hàng khác có thể
thay thế được. Hiện nay, Nhà nước có chủ trương khuyến khích doanh nghiệp mới
tham gia xuất khẩu đã dẫn đến sự bùng nổ số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất
khẩu do đó đôi khi có sự cạnh tranh không lành mạnh.


1.4. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang
thị trường Campuchia
Trên nền tảng quan hệ truyền thống tốt đẹp đã được xây đáp từ nhiều thập
kỷ, hai nước láng giềng Việt Nam – Campuchia có sự hợp tác sâu rộng và chặt chẽ
về kinh tế lẫn văn hóa là một điều tất yếu. Trên cơ sở ấy, quan hệ buôn bán, xuất
nhập khẩu của hai nước có điều kiện để phát triển không ngừng. Trong xu thế mới
của nền kinh tế thế giới và những tiến bộ không ngừng về khoa học kỹ thuật đã mở
ra nhiều cơ hội mới cho Việt Nam nói riêng và cả Campuchia nói chung trong việc
thúc đẩy trao đổi thương mại hai chiều. Những cơ hội mới dành cho Việt Nam trong
việc nâng cao kim ngạch xuất khẩu nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung chính
là từ việc khai thác những điều kiện thuận lợi này.
- Về vị trí địa lý và sự tương đồng về phong tục tập quán: Là hai nước láng
giềng với đường biên giới trải dài, Campuchia là đối tác vô cùng thuận lợi của Việt
Nam trong việc xuất khẩu hàng hóa bởi lẽ việc trao đổi mua bán được thực hiện một
cách dễ dàng do khoảng cách gần về địa lý. Yếu tố địa lý gần giáp nhau cũng giúp
hàng hóa Việt Nam thâm nhập và phân phối tốt hơn hàng hóa của các nước khác.
Hơn nữa, cùng nằm trên bán đảo Đông Dương, có chung con sông Mêkông chảy
qua lãnh thổ, Việt Nam và Campuchia có mối quan hệ tương đồng vô cùng gần gũi.
Nhiều phong tục, tập quán, trình độ sản xuất, cấp độ tiêu dùng, tâm lý và thị hiếu
của hai nước có nhiều nét giao thoa. Vì vậy hàng hóa của Việt Nam dễ dàng được
người tiêu dùng Campuchia chấp nhận và ưa chuộng.
- Về yếu tố chính trị: Quan hệ giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng Nhân
dân Campuchia vốn đã có từ lâu và ngày càng gắn bó mật thiết hơn. Qua nhiều
chuyến viếng thăm và làm việc giữa các cấp lãnh đạo của hai Đảng trong thập kỷ
qua, quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Campuchia ngày càng trở nên gắn bó. Đặc
biệt sau thành công của cuộc Bầu cử Quốc Hội ngày 27/07/2003, ông Hun Sen phó
chủ tịch Đảng nhân dân Campuchia lên làm Thủ tướng, quan hệ giữa hai nước Việt
Nam - Campuchia tiếp tục ổn định và phát triển. Quan hệ giữa các cấp, các Bộ
Ngành của Campuchia với các Bộ Ngành của Việt Nam rất tốt. Sự ủng hộ của
Chính phủ Campuchia đối với Việt Nam trong giai đoạn này có thể coi là một sự

đột phá lớn trong quan hệ giữa hai nước. Vì vậy, Việt Nam cần tranh thủ thời điểm
này để thúc đẩy quan hệ nhiều mặt, đặc biệt chú trọng đến quan hệ thương mại, đẩy
mạnh xuất khẩu và chiếm lĩnh thị trường Campuchia. Bên cạnh đó, một yếu tố xúc
tác quan trọng là vấn đề rạn nứt trong quan hệ chính trị giữa Campuchia và Thái
Lan. Vốn dĩ Thái Lan luôn là nước đứng đầu về xuất khẩu hàng hóa sang
Campuchia trong nhiều năm qua. Tuy nhiên vì tranh chấp biên giới mà quan hệ láng
giềng giữa Campuchia và Thái Lan ngày một xấu đi. Chính phủ Campuchia không
ủng hộ Thái Lan đồng nghĩa với việc hàng hóa Thái Lan gặp rất nhiều khó khăn để
thâm nhập và khẳng định tại thị trường Campuchia. Nhân dân Campuchia hiện nay
tẩy chay hàng Thái Lan và nghiêng hẳn sang sử dụng hàng hóa Việt Nam. Đây thực
sự là một cơ hội hiếm có và Việt Nam cần tranh thủ xuất khẩu hàng hóa của mình
sang Campuchia nhằm chiếm lĩnh thị phần của Thái Lan và từng bước nâng cao vị
thế của hàng hóa Việt Nam trong thị trường này.
- Sự áp đảo của xuất khẩu hàng hóa Việt Nam trong tổng kim ngạch hai
chiều giữa hai nước: Trong ASEAN chỉ có ba nước duy nhất Việt Nam xuất siêu
đó là Campuchia, Đông Timor và Bruney. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Campuchia nhiều hơn kim ngạch xuất khẩu của sang cả Đông Timor và
Bruney cộng lại. Việt Nam liên tục là nước xuất siêu sang Campuchia trong nhiều
năm qua, với kim ngạch xuất khẩu đáng kể, chiếm đến 20,7% tổng kim ngạch xuất
khẩu sang các nước ASEAN. Yếu tố áp đảo của xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang
thị trường Campuchia là một cơ hội không dễ mà có. Điều đó thể hiện hàng hóa
Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong tiêu dùng của nhân dân Campuchia. Vì thế,
Việt Nam cần giữ vững cơ hội này và phải thúc đẩy để kim ngạch xuất siêu ngày
càng lớn hơn, đem lại nguồn thu ổn định và đáng kể cho ngân sách.
- Xu hướng thời đại: Trong bối cảnh ngày nay, một quốc gia muốn phát
triển bền vững phải mở cửa buôn bán với nước ngoài, hội nhập với kinh tế thế giới,
tham gia khu vực hóa và toàn cầu hóa. Đứng ngoài xu hướng đó có nghĩa là đất
nước đó bị cô lập, nguy cơ lạc hậu là không thể tránh khỏi. Việt Nam và Campuchia
đều đã tham gia xu hướng ấy và đạt được những bước tiến không nhỏ. Đều là thành
viên của ASEAN, AFTA, APEC, WTO, những cản trở trong thương mại giữa hai

nước đang ngày càng giảm dần theo lộ trình tiến tới không còn bất cứ cản trở nào.
Xu hướng đó đã tạo nên một điều kiện tốt cho quan hệ thương mại nói chung và
xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Campuchia nói riêng có thể phát triển bền vững
và hiệu quả. Việt Nam cần nắm chắc lộ trình giảm dần các cản trở thương mại của
Campuchia để có những chiến lược xuất khẩu phù hợp, không để tuột mất cơ hội
mà xu thế thời đại mang lại.



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG
HÓA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG CAMPUCHIA

2.1. Tổng quan hoạt động nhập khẩu hàng hóa của Campuchia và hoạt
động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
2.1.1. Hoạt động nhập khẩu hàng hóa của Campuchia
Tổng kim ngạch nhập khẩu của Campuchia năm 2001 đạt 1,503 tỷ USD, cho
đến năm 2006 nhập khẩu đã tăng lên 4,477 tỷ USD. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu
của Campuchia được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2.1: Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Campuchia năm 2003 – 2008

Sản phẩm Đơn vị
Năm
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Dược phẩm
Tấn 983 516 895 725 1370 1208
Xi măng
1000 tấn 83 101 80 109 109 87
Dầu mỏ
1000 tấn 75 59 58 82 109 110

Vật liệu XD
1000 tấn 9 11 19 23 24 30
Thép
1000 tấn 10 3 7 8 8 7
Vải
1000 tấn 0,9 0,7 1,1 0,6 0,7 0,6
(Nguồn )

Ta có thể thấy, những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Campuchia là những
mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu và đang xuất khẩu với kim ngạch
đáng kể sang thị trường Campuchia, tuy nhiên cho đến nay, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam vào Campuchia chưa xứng với tiềm năng của cả hai nước. Thị trường
nhập khẩu chủ yếu của Campuchia vẫn là Hồng Kông, Thái Lan, Việt Nam, Trung
Quốc, Đài Loan.
Campuchia có thuận lợi là thành viên của WTO nên được áp dụng một mức
thuế ưu đãi khi xuất khẩu sang thị trường của các nước thành viên khác. Tuy nhiên
hàng hóa Campuchia chịu sự cạnh tranh gay gắt của hàng hóa Trung Quốc, Thái
Lan… nên trong suốt các năm từ 2000 đến nay, Campuchia luôn là nước nhập siêu.
Điều đó thể hiện ở bảng dưới đây:
Biểu 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Campuchia năm 2003 – 2005
(Đơn vị: triệu USD)

(Nguồn: www.economywatch.com)

Trong năm 2009, kim ngạch nhập khẩu của Campuchia là 3,612 tỷ USD, giảm
19,5% so với năm 2008 nhưng Campuchia vẫn tiếp tục nhập siêu 717 triệu USD.
Hàng hóa nhập khẩu vào Campuchia phải đóng ba loại thuế là thuế nhập
khẩu, thuế đặc biệt với một số hàng hóa nhất định và thuế giá trị gia tăng VAT. Tất
cả các hàng hóa nhập khẩu đều có thuế VAT theo một tỷ lệ cố định là 10%. Theo
cam kết khi gia nhập Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Campuchia sẽ

giảm thiểu và loại bỏ thuế nhập khẩu đối với hàng hóa của các nước thành viên
ASEAN vào năm 2018. Các mức thuế được dự kiến giảm từ 0% - 5% vào năm
2000, và bắt đầu áp dụng 0% vào năm 2015. Với một số mặt hàng nhạy cảm giữ lại
ở mức 5% cho đến năm 2018 và tiến đến 0% vào năm 2018. Tỷ lệ này phụ thuộc
vào mỗi loại hàng hóa được nhập khẩu vào thị trường Campuchia:
- Hàng hóa mà chính phủ Campuchia có chính sách miễn thuế
- Nguyên vật liệu, sản phẩm chủ yếu thuế nhập khẩu là 7%
- Hàng hóa, máy móc, thiết bị thuế nhập khẩu là 15%
- Sản phẩm đã hoàn thành, rượu, các sản phẩm dầu mỏ, xe cộ, kim loại và đá
quý thuế nhập khẩu là 35%
Các mục sau đây được miễn thuế nhập khẩu: thiết bị nông nghiệp và đầu vào
cho ngành nông nghiệp, vật liệu và thiết bị giáo dục, các sản phẩm dược phẩm,
hàng hóa dành cho thể thao, tuy nhiên những nhà nhập khẩu các sản phẩm này vẫn
phải nộp thuế VAT 10%. Trừ các thiết bị nông nghiệp và đầu vào cho ngành nông
nghiệp thì thuế VAT là 0%. Các mức thuế này không áp dụng cho xuất khẩu, ngoại
trừ một số sản phẩm giới hạn sau đây: cao su thiên nhiên, đá quý chưa qua chế biến
và thau mài, gỗ chế biến, cá, động vật giáp xác, động vật thân mềm và các sản phẩm
thủy sản khác.
Trong tháng 5 năm 2008, chính phủ Campuchia tuyên bố giảm thuế hải quan
hiện hành và để thuế VAT còn 0% cho hàng hóa phục vụ nông nghiệp và coi đó là
một sự khuyến khích mà chính phủ dành cho thương mại và đầu tư vào ngành nông
nghiệp trong nước. Cụ thể là các mặt hàng sau: mày cày, máy móc thiết bị trồng trọt
và chăn nuôi, hạt giống, thức ăn gia súc, các chất hóa học để diệt sâu, phân bón và
các vật liệu liên quan.
Theo yêu cầu của WTO, Campuchia có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ các
hiệp định của WTO trong đó có Hiệp định định giá hải quan bắt đầu vào tháng 1
năm 2009. Tuy nhiên do trình độ quản lý, soạn thảo và thực thi pháp luật còn thấp
nên Tổng cục Hải quan Campuchia yêu cầu WTO cho gia hạn hai năm trong việc
thực hiện các Hiệp định của WTO đến tháng 1 năm 2011. Vào năm 2007, một luật
mới về hải quan, dựa theo Công ước Kyoto về Đơn giản hóa và Hài hòa thủ tục Hải

quan, đã được chính phủ Campuchia ban hành trong tháng 7 năm 2007.
Campuchia đã chủ động gia tăng quan hệ thương mại với khu vực và trên thế
giới kể từ cuộc cải cách kinh tế năm 1997. Trước tiên là gia nhập vào ASEAN năm
1999 sau đó đến năm 2004, gia nhập WTO. Chính phủ Campuchia đã có nhiều biện
pháp để giảm các rào cản kỹ thuật cũng như đề ra các pháp luật, quy định để thức
hiệncác nguyên tắc của WTO kể từ khi gia nhập tổ chức này. Chính phủ Campuchia
cho đến nay đã loại bỏ hầu hết các rào cản phi thuế quan trong thương mại.
Campuchia hiện đang áp dụng chương trình PSI (Pre-Shippment Inspection)
trong đó yêu cầu vận chuyển hàng hóa nhập khẩu vào Campuchia trong container
và giá trị tối thiểu phải chịu kiểm tra lô hàng là 4.500 USD. Theo chương trình PSI,
khi xuất khẩu sang Campuchia phải trả lệ phí cho dịch vụ PSI. Nhà nhập khẩu và
xuất khẩu phải liên hệ với Hải quan Campuchia hoặc BIVAC quốc thế về vấn đề
liên quan đến chi phí và hàng hóa miễn PSI. Một số hàng hóa được miễn PSI là:
Hàng nhập khẩu với trị giá FOB dưới 4.500 USD; Đá và kim loại quý hiếm; Chất
nổ và các sản phẩm gây nổ; Đạn dược, vũ khí phục vụ chiến tranh; Động vật sống;
Bưu lộ và hàng thương mại mẫu; Hành lý cá nhân; Tài trợ bằng hiện vật; Hàng hóa
vận chuyển cho chính phủ theo đơn đặt hàng của chính phủ; Quà tặng và hàng hóa
cũng cấp cho cơ quan ngoại giao và lãnh sự.
Mặt hàng nhập khẩu của Campuchia khá phong phú, điều đó gây nên khó
khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp trong nước trong việc cạnh tranh với hàng
hóa nhập khẩu đặc biệt là sau khi Campuchia gia nhập ASEAN và WTO. Mặt khác,
chính sự quản lý của nhà nước Campuchia còn lỏng lẻo nên tạo điều kiện cho
những hình thức nhập khẩu trái phép một số mặt hàng. Điều đó không chỉ làm thất
thu ngân sách nhà nước mà còn làm cho các doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn
hơn trong cạnh tranh về giá cả.

2.1.2. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam ước tính
đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, bao gồm khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, đóng góp 49,7% vào mức tăng

chung của xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, đóng góp
50,3%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008, nhóm hàng công nghiệp
nặng và khoáng sản chiếm tỷ trọng 31%, nhóm hàng nông sản chiếm 16,3%.
Do sức tiêu thụ hàng hoá trên thị trường thế giới thu hẹp, giá cả của nhiều loại
hàng hoá giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt gần
41,4 tỷ USD, giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Những tháng cuối năm tình hình
đã được cải thiện rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 11 đạt gần 4,7 tỷ USD,
tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 12 đạt mức cao nhất trong năm với 5,25
tỷ USD, tăng 12% so với tháng trước và tăng 12,5% so với tháng 12 năm trước, chủ
yếu do hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng, trong đó hàng dệt may tăng
90 triệu USD, gạo tăng 80 triệu USD; giày dép tăng 77 triệu USD; cà phê tăng 67
triệu USD; dầu thô tăng 33 triệu USD. Tính chung quý IV năm 2009, kim ngạch hàng
hoá xuất khẩu tăng 7,1% so với quý IV năm 2008.
Nhờ xuất khẩu quý IV tăng cao nên kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009
ước tính đạt 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008, bao gồm: khu vực kinh tế
trong nước đạt 26,7 tỷ USD, giảm 5,1%, đóng góp 23,5% mức giảm chung của xuất
khẩu hàng hoá cả năm; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,9
tỷ USD, giảm 13,5%, đóng góp 76,5%. Nếu không kể dầu thô thì kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,2% so với năm 2008.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2009 ước tính đạt 9 tỷ USD, giảm
1,3% so với năm trước; dầu thô 6,2 tỷ USD (giảm 2,4% về lượng và giảm tới 40%
về kim ngạch), chiếm tới 68% mức giảm chung của tổng kim ngạch xuất khẩu cả
năm; thủy sản đạt 4,2 tỷ USD, giảm 6,7%; giày dép đạt 4 tỷ USD, giảm 15,8%; gạo
đạt 2,7 tỷ USD (tăng 25,4% về lượng và giảm 8% về kim ngạch); gỗ và sản phẩm
gỗ đạt 2,6 tỷ USD, giảm 9,9%; cà phê đạt 1,7 tỷ USD (tăng 10,2% về lượng và
giảm 19% về kim ngạch); than đá đạt 1,3 tỷ USD (tăng 29,9% về lượng và giảm
4,5% về kim ngạch).
Bảng 2.2: Kim ngạc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2004 - 2009
Đơn vị : tỷ USD
Năm Kim ngạch xuất khẩu

2004
26
2005
32.23
2006
39.6
2007
49.4
2008
62.9
2009
56.6
(Nguồn : Tổng cục thống kê)
Biểu 2.2: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam qua các năm

×