Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại tại Agribank Ba Đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.92 KB, 75 trang )

THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY TẠI NHTM TẠI NHNo&PTNT BA ĐÌNH
Các vấn đề trong chương
- Tổng quan về NHTM
- Đầu tư và dự án đầu tư
- Thẩm định tài chính dự án tại NHTM
- Rủi ro của dự án
- Nhân tố ảnh hưởng
1
I. Tổng quan về NHTM
1. Khái niệm, chức năng của NHTM
Trong hoạt động sản xuất tiêu dùng của xã hội, tại một nơi nào đó, một
lúc nào đó luôn luôn xảy ra một tình trạng đối nghịch: có những cá nhân, tổ
chức có những đồng tiền nhàn rỗi không có nhu cầu hoặc chưa có nhu cầu
sử dụng đến nó trong khi đó lại có những cá nhân, tổ chức có nhu cầu cần
một khoản tiền cho các cơ hội đầu tư hoặc các mục đích tiêu dùng. Thị
trường tài chính đã ra đời đóng vai trò to lớn trong việc thu hút các nguồn lực
tài chính nhàn rỗi trong xã hội tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Nhưng thông thường do rất nhiều lý do trên thị trường có rất nhiều tổ chức
đứng ra làm trung gian tài chính để chuyển vốn từ người có vốn đến người
có nhu cầu.
NHTM chính là một trong những trung gian tài chính đó, đóng một vai
trò quan trọng trong việc đưa những đồng tiền tiết kiệm đến tay các nhà đầu
tư. Qua đó nó giúp cho nền kinh tế vận hành một cách nhịp nhàng, hữu hiệu.
NHTM là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân
hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà
chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang
không ngừng thay đổi. Thực tế rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả công
ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và
công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của
ngân hàng. Ngược lại ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh


(các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp
dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo
hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Tóm lại,
NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
2
Thông qua khái niệm về NHTM ta đã có thể biết được những chức năng
của NHTM.
Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu,
tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và họ cần bổ sung
vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập
hiện tại lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có
tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc
lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm
thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn
do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở
quan hệ trực tiếp và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Một đóng góp
khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi
ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực
tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro.
Tạo phương tiện thanh toán
Ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán là giấy nhận
nợ thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với
nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm
phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó thở thành tiến giấy. Trong

điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy
nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để
có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu. Khi ngân hàng cho vay, số
dư trên tài khoản thanh toán của khách hàng tăng lên. Toàn bộ hệ thống
ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được
mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Trong
khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư
3
thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi gấp bội
thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng , ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm
chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như
bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh
toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các
ngân hàng còn thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương
hoặc thông qua trung tâm thanh toán. Nhiều hình thức thanh toán được
chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các
ngân hàng trong cùng một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế
giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả
của thanh toán qua ngân hàng biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh
toán quan trọng.
2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ trên thị trường tài chính, tất cả các
hoạt động của NHTM đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Đây là
mục tiêu chi phối mọi hoạt động của ngân hàng. Theo đuổi mục tiêu này,
ngân hàng không ngừng cải tiến các dịch vụ, nâng cao chất lượng, đa dạng
hóa hoạt động, nhưng khái quát lại NHTM có 3 hoạt động chính: hoạt động

huy động vốn, cho vay và đầu tư, các hoạt động trung gian. Đây là ba hoạt
động truyền thống của NHTM có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau. Để có
vốn cho vay ngân hàng phải đi huy động những đồng tiền nhàn rỗi từ những
người tiết kiệm. Đồng thời với lợi thế là trung gian tài chính trên thị trường tài
chính, NHTM cung cấp một số dịch vụ ngân hàng cho khách hàng qua đó hỗ
trợ cho hoạt động huy động, cho vay vốn và tìm kiếm lợi nhuận cho mình.
Hoạt động huy động vốn
4
Đó là các hoạt động của ngân hàng để thu gom vốn nhàn rỗi trong công
chúng. Trước kia các ngân hàng chủ yếu là nhận tiền gửi từ người gửi tiền.
Nhưng ngày nay, do sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, các NHTM đã
đưa ra rất nhiều những hình thức khác nhau để huy động vốn đảm bảo và
mở rộng các hoạt động. Ngân hàng tập trung được một số vốn lớn từ các tài
khoản séc, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, từ các công cụ
kỳ phiếu trái phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi.... Bên cạnh đó, khi cần vốn cho
nhu cầu thanh khoản hay đầu tư, cho vay các NHTM có thể đi vay vốn từ
ngân hàng trung ương, từ các NHTM khác, vay các tổ chức tài chính trên thị
trường trong nước và quốc tế. Trên bàng cân đối tài sản, các hoạt động huy
động vốn được biểu hiện qua các tài sản nợ của ngân hàng. Hoạt động huy
động vốn là hoạt động mà ngân hàng phải bỏ ra những chi phí.Đó là các chi
phí giao dịch, chi phí trả lãi tiền gửi, tiền vay,các chi phí khác liên quan.
Những cho phí đó đòi hỏi ngân hàng phải sử dụng những đồng vốn đó như
thế nào để bù đắp các chi phí và đem lại thu nhập cho ngân hàng.
Các hoạt động trung gian
Là một tổ chức trung gian trên thị trường tài chính, NHTM thực hiện các
dịch vụ trung gian, dịch vụ ngân hàng, phi ngân hàng như thanh toán, chuyển
tiền, ủy thác, ký thác, tư vấn. bảo lãnh, bảo quản,.... Những hoạt động này
đem lại cho ngân hàng các khoản thu từ phí dịch vụ. Tuy nhiên hoạt động
đem lại thu nhập chính cho ngân hàng là các hoạt động cho vay và đầu tư.
Chúng ta sẽ xem xét cụ thể vấn đề này ngay sau đây.

Hoạt động cho vay và đầu tư
Đây là hoạt động đặc trưng cơ bản, có tính truyền thống của NHTM. Nó
đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của NHTM. Đó là việc sử dụng nguồn vốn
huy động cho những người có nhu cầu vay vốn và thu khoản lãi nhất định
trên số tiền cho vay theo nguyên tắc vốn vay phải được hoàn trả và thu từ lãi
phải đảm bảo cho ngân hàng trang trải hết các chi phí đồng thời thu được lợi
nhuận.
5
NHTM có thể cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau. Tùy theo các
tiêu thức phân loại khác nhau mà có một số những hình thức sau
• Theo mục đích cho vay
oCho vay công nghiệp
oCho vay nông nghiệp
oCho vay xây dựng cơ bản
oCho vay xuất nhập khẩu
• Theo lãi suất
oCho vay theo lãi suất cố định
oCho vay theo lãi suất thả nổi
• Theo thành phần kinh tế
oCho vay ngoài quốc doanh
oCho vay trong quốc doanh
• Theo tài sản đảm bảo
oCho vay có tài sản đảm bảo
oCho vay không có tài sản đảm bảo
• Theo thời gian
oCho vay ngắn hạn
oCho vay trung hạn
oCho vay dài hạn
Dù cho vay dưới bất kì một hình thức nào thì việc cho vay cũng trải qua
3 giai đoạn sau: (1) xem xét trước khi cho vay, (2) thực hiện cho vay, (3) thu

gốc và lãi.
Ba giai đoạn này là một quá trình gán bó chặt chẽ, mỗi giai đoạn đều có
ý nghĩa nhất định, ảnh hưởng đến chất lượng của một khoản vay. Để có một
6
khoản cho vay chất lượng là một điều mong muốn và là mục tiêu hoạt động
của NHTM. Nhưng nó cũng là một điều rất khó khăn và ngân hàng vẫn có
thể thất bại.
Trên thực tế, vận động của xã hội và thị trường luôn tồn tại sự không
cân xứng về thông tin giữa các đối tượng, không có thông tin đầy đủ về nhau
do đó dẫn đến những hiểu biết sai lệch. Giữa NHTM và người đến vay cũng
xảy ra tình trạng như vậy. Ngân hàng không có những thông tin đầy đủ về
khách hàng nên có thể thực hiện những khoản cho vay sai lầm. Đứng trước
những rủi ro đó, NHTM luôn luôn phải cất nhắc, đắn đo, xem xét bằng các
nghiệp vụ để xác định được khách hàng tốt, khoản xin vay có chất lượng
trước khi quyết định.
Như vậy, trong ba giai đoạn trên, việc xem xét trước khi cho vay có ý
nghĩa quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, kết quả các khoản cho vay và
các hoạt động của giai đoạn sau. Giai đoạn này được ngân hàng tiến hành
rất kỹ với rất nhiều phương pháp nghiệp vụ đặc thù. NHTM phải đối mặt với
các câu hỏi:
• Cho ai vay?
• Cho vay như thế nào?
• Cho vay khi nào?
• Quản lý các khoản vay như thế nào?
• Thu gốc và lãi ra sao?
Đây là một bài toán khó mà ngân hàng bằng cách thức riêng phải tìm
được lời giải đúng nếu không muốn phải gánh chịu những hậu quả khôn
lường. Một nguồn vốn quan trọng được ngân hàng sử dụng cho vay là tiền
gửi của khách hàng. Do đó để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển thì bên
cạnh mục tiêu lợi nhuận ngân hàng còn phải đảm bảo an toàn và thanh

khoản, tức là ngân hàng phải chịu trách nhiệm vô hạn với những đồng tiền
của khách hàng và phải thỏa mãn bất cứ nhu cầu rút tiền nào của khách
hàng vào bất cứ thời điểm nào. Nếu ngân hàng không tìm được lời giải đúng
7
cho bài toán cho vay thì những nguyên lý cơ bản trong hoạt động ngân hàng
bị phá vỡ, mục tiêu của ngân hàng không được đảm bảo và ngân hàng đứng
trước nguy cơ tồi tệ nhất: phá sản.
Quá trình tìm lời giải cho bài toán chính là quá trình thẩm định các
khoản vay. Một hình thức cho vay phổ biến của NHTM là cho vay theo các
dự án đầu tư. Hình thức cho vay này có số lượng vốn lớn, thời hạn dài và có
nhiều biến động. Nhưng nếu là một dự án tốt ngân hàng sẽ có thu nhập cao
và bảo đảm an toàn vốn. Tuy nhiên, xác định được dự án tốt là một công
việc phức tạp nhưng ngân hàng không thể không thực hiện.
II. Thẩm định tài chính dự án tại NHTM
1. Đầu tư và dự án đầu tư
a. Đầu tư
Đầu tư là đem một khoản tiền sử dụng vào một việc nhất định sau đó
thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn. Một cách vắn tắt, có thể nói đầu tư
là việc sử dụng tiền nhằm mục đích sinh lời. Tính sinh lời là đặc trưng hàng
đầu của đầu tư. Không thể coi là đầu tư nếu sử dụng tiền không nhằm mục
đích thu lại một khoản có giá trị lớn hơn khoản bỏ ra ban đầu.
Phân loại đầu tư: tùy theo các mục đích khác nhau, có thể phân loại đầu
tư của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau
Theo phương thức đầu tư:
• Đầu tư gián tiếp (hay đầu tư tài chính): là đầu tư bằng cách mua các
chứng chỉ có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư...
để hưởng lợi tức. với phương thức này người đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý việc sử dụng vốn.
• Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp
tham gia quản lý việc sử dụng vốn.

8
Theo mục đích đầu tư ta có thể phân loại đầu tư thành: đầu tư tăng
năng lực sản xuất, đầu tư đổi mới sản phẩm, đầu tư đổi mới thiết bị, đầu tư
mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm,.... Việc phân loại này có thể giúp cho
các nhà quản lý tài chính xác định hướng đầu tư và kiểm soát được tình hình
đầu tư theo những mục tiêu đã định.
b. Dự án đầu tư
Dự án đầu tư được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Về mặt hình thức dự án đầu tư là một tập hợp hồ sơ tài liệu trình bày
một cách chi tiết, có hệ thống các hoạt động theo một kế hoạch nhằm thực
hiện những mục tiêu trong tương lai.
Về bản chất dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan
đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất
nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì cải tiến nâng cao
chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Trên góc độ quản lý thì đây lại là công cụ quản lý việc sử dụng các
nguồn lực để tạo ra các kết quả kinh tế xã hội trong một thời gian dài.
2. Thẩm định tài chính dự án tại NHTM
a. Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư
Một dự án đầu tư thường do chủ dự án lập hoặc thuê các cơ quan tư
vấn lập trên cơ sở các ý đồ kinh doanh và mong muốn của chủ dự án. Do
vậy, dự án đầu tư thường mang tính chủ quan của nhà đầu tư và không xem
xét, đánh giá hết được các tình huống liên quan.
Bên cạnh đó, quyết định đầu tư vào một dự án là quyết định tài chính
dài hạn, đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài, chịu ảnh hưởng và chi
phối bởi nhiều yếu tố thị trường nên chủ dự án cũng rất cần xem xét, đánh
giá kỹ trước khi quyết định đầu tư.
Ngoài ra, dự án đầu tư còn liên quan ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều
bên khác nhau nên nó cần được xem xét từ nhiều phía của các bên liên

9
quan để thấy được lợi ích thực do dự án đem lại cho xã hội, cho các bên.
Hay nói cách khác, dự án đầu tư cần phải được thẩm định kỹ càng trước khi
quyết định.
Trong nền kinh tế hiện nay đầu tư là hoạt động chủ yếu, quyết định sự
phát triển của doanh nghiệp. Trong hoạt động đầu tư, doanh nghiệp bỏ vốn
dài hạn nhằm hình thành và bổ sung những tài sản cần thiết để thực hiện
những mục tiêu kinh doanh. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nhưng
hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ. Các ngân hàng sẽ đầu tư bằng cách bỏ vốn
vào một dự án của doanh nghiệp nào đấy. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ phải
đánh giá về tính khả thi và khả năng sinh lời của dự án. Thực tế hiện nay cho
thấy nợ quá hạn trong các NHTM là không nhỏ. Một trong những nguyên
nhân chủ quan của vấn đề này là các NHTM đã không thực hiện tốt quá trình
thẩm định trước khi cho khách hàng rút vốn. Chính điều này càng cho thấy
thẩm định tài chính càng cần phải được coi trọng trên hai khía cạnh: hạn chế
rủi ro và đảm bảo đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Điều này không có nghĩa
là đi ngược lại với lợi ích của khách hàng vì chính những kết quả kinh doanh
tốt đẹp của khách hàng là tiền đề để ngân hàng thu được vốn và lãi làm cho
ngân hàng đầu tư có hiệu quả.
b. Khái niệm, mục tiêu thẩm định dự án đầu tư của NHTM
Thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng là việc tổ chức xem xét một cách
khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp
đến tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của khách hàng để phục vụ
cho việc xem xét quyết định cho khách hàng vay vốn đầu tư dự án.
Mục tiêu của thẩm định dự án đầu tư là:
• Xác định tính chất khả thi của dự án, đánh giá các lợi ích và chi phí tài
chính, cũng như các lợi ích và chi phí kinh tế, hiệu quả xã hội của dự
án một cách khoa học.
10
• Xác định các điều kiện của khoản tiền cho vay hợp lý, phù hợp với khả

năng của ngân hàng, yêu cầu của khách hàng đồng thời phải phù hợp
với chiến lược phát triển đầu tư và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
• Tư vấn cho chủ đầu tư điều chỉnh, bổ sung các nội dung của dự án.
c. Yêu cầu đối với công tác thẩm định dự án đầu tư
Bất cứ một công việc nào đều có yêu cầu khi thực hiện nó. Thẩm định
là công việc nghiêm túc, không thể làm chiếu lệ. Trong môi trường gia tăng
cạnh tranh giữa các ngân hàng, khách hàng, đòi hỏi ngân hàng phải thực
hiện quy trình phân tích nhanh gọn và tiết kiệm chi phí, đây cũng là hoạt
động liên quan đến trách nhiệm của nhiều phòng ban và cán bộ. Do vậy, quy
trình phân tích tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau:
• Được xây dựng và thống nhất trong toàn ngân hàng, tránh tùy tiện,
duy ý trí. Quy trình này phải được ban lãnh đạo ngân hàng thông qua
và phổ biến đến các phòng có liên quan cũng như các cán bộ tín dụng.
• Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung.
Mỗi phòng chức năng trong ngân hàng cũng như các bộ ngân hàng
cần biết mình phải làm gì, đến mức nào.
• Toàn bộ quy trình phải nhằm thực hiện các nguyên tắc tín dụng của
ngân hàng.
d. Nội dung thẩm định tài chính dự án
Thẩm định dự án đầu tư phải xem xét trên tất cả các mặt và đưa ra câu
trả lời về tính khả thi của mỗi mặt đó. Mỗi khía cạnh của dự án đầu tư tồn tại
trong một tổng thể liên quan, có quan hệ ràng buộc, tương tác, ảnh hưởng
lẫn nhau hình thành nên dự án đầu tư. Do vậy, bất cứ một trục trặc ở khía
cạnh nào đều ảnh hưởng tới các mặt khác và ảnh hưởng tới hiệu quả cuối
cùng của dự án.
11
- Pháp lý: hoạt động của dự án liên quan và chịu sự điều chỉnh của luật
và các văn bản pháp quy liên quan nên để dự án có thể thực hiện trước tiên
phải xem xét tính hợp lệ, hợp lý của dự án. Một dự án không khả thi về mặt
pháp lý sẽ bị loại bỏ ngay.

- Thị trường: đây là khía cạnh quan trọng quyết định sự thành bại của
dự án. Trong đó, thẩm định phải xem xét những gì đưa ra trong dự án có
đúng có chính xác không. Bên cạnh đó, phải xác định nhu cầu về sản phẩm
của dự án, tính cạnh tranh và khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm.
Xem xét thị trường là cơ sở cho việc lựa chọn quy mô đầu tư, thiết bị, công
suất và dự tính khả năng tiêu thụ.
- Kỹ thuật: đánh giá việc lựa chọn thiết bị, công nghệ, giải pháp kỹ thuật
có phù hợp không, tiết kiệm được vốn đầu tư không , chi phí sản xuất, địa
điểm có phù hợp không, xử lý tác động môi trường đã tốt chưa....
- Tổ chức, quản lý: bộ máy tổ chức được thiết lập ra sao? Cần bao
nhiêu cán bộ quản lý, bao nhiêu công nhân, kỹ sư? Các phòng ban thiết lập
thế nào để phục vụ sản xuất?
- Kinh tế, xã hội: dự án sử dụng nguồn lực nào của xã hội và đóng góp
gì vào phát triển nền kinh tế, phát triển ngành, phát triển địa phương như tạo
ra bao nhiêu công ăn việc làm, thu nhập,....
12
Thẩm định dự
án đầu tư
Pháp lý
Thị trường
Kinh tế, xã hội
Tài chính
Kỹ thuật
Tổ chức, quản lý
Đánh giá
- Tài chính: xem xét, tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính,
các kế hoạch tài chính của dự án để đánh giá xem dự án có đem lại hiệu quả
không, có lợi nhuận không.
Các dự án rất đa dạng với nhiều phạm vi, lĩnh vực, quy mô khác nhau
mà NHTM khó có thể thẩm định chi tiết hết được mọi khía cạnh. Ngân hàng

chủ yếu tập trung vào khía cạnh tài chính.
Một dự án thông thường đòi hỏi một số lượng vốn đầu tư rất lớn vượt
quá khả năng tài chính của chủ dự án hoặc do mong muốn chia sẻ rủi ro, hay
sử dụng đòn bẩy tài chính trong kinh doanh mà chủ dự án luôn luôn mong
muốn và cần khoản vốn vay từ ngân hàng. Đối với NHTM, việc tài trợ cho
một dự án là một nghiệp vụ, là một hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận, là
các khoản cho vay trung và dài hạn, là cơ sở để NHTM cung cấp các sản
phẩm dịch vụ. Trong các khía cạnh thẩm định thì thẩm định tài chính dự án
rất quan trọng mà qua đây ngân hàng sẽ quyết định cho dự án nào vay, vay
bao nhiêu, khi nào, lãi suất, quản lý thu hồi vốn ra sao, hỗ trợ dự án thế
nào,.... Chỉ cho vay các dự án có hiệu quả tài chính thì các khoản cho vay
của NHTM mới bảo đảm, ngân hàng mới có thể thu hồi gốc và lãi.
Mục tiêu cuối cùng của thẩm định tài chính dự án là xác định khả năng
tạo ra lợi nhuận trên khoản vốn đầu tư, xem dự án tạo ra được lợi ích gì
trong tương lai từ những nguồn lực đã dành cho dự án. Xác định hiệu quả tài
chính để xem khả năng trả nợ cho ngân hàng. Bên cạnh đó, thẩm định tài
chính dự án còn phân tích tình hình tài chính của chủ dự án để đánh giá các
rủi ro, mức độ và chất lượng hoạt động. Ngân hàng sẽ đi vào thẩm định tài
chính dự án với các nội dung cụ thể:
• Một:
oXác định tổng nhu cầu về vốn cho dự án (cố định và lưu động).
oXác định phần vốn mà ngân hàng cần tài trợ.
• Hai: xem xét dự toán các bảng tài chính.
oBảng dự trù chi phí sản xuất năm.
13
oBảng dự trù doanh thu, lỗ lãi.
oBảng dự trù cân đối tài sản.
oBảng dự trù cân đối thu chi.
• Ba: đánh giá hiệu quả tài chính của dự án và phân tích tài chính.
oTính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính NPV, IRR, BCR,....

oPhân tích tài chính dự án trong các năm hoạt động:
▫ Phân tích các tỷ lệ tài chính.
▫ Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn.
▫ Phân tích tình hình tài chính theo luồng tiền mặt.
▫ Phân tích các chỉ tiêu trung gian.
• Bốn: xác định bảng lịch trình thu gốc và lãi.
Ngay sau đây là giải trình bốn nội dung của thẩm định tài chính dự án.
Một: khi một dự án đưa đến ngân hàng xin vay thì dự án đó đã được
nhiều cấp xem xét, phê duyệt, tổng vốn đầu tư đã được xác định. Tuy vậy,
ngân hàng vẫn tiến hành xem lại trên cơ sở những kết quả thẩm định của
ngân hàng. Điều này là rất quan trọng vì vốn đầu tư đủ sẽ giúp cho dự án
thực hiện một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vốn đầu tư
thiếu sẽ gây khó khăn cho hoạt động của dự án cũng như hoạt động vận
hành kết quả đầu tư sau này. Ngược lại, thừa vốn gây lãng phí làm giảm
hiệu quả tài chính của dự án. Tổng vốn đầu tư được xác định trên tổng các
chi phí:
• Chi phí lập dự án:
oChi phí thuê chuyên gia, tư vấn, soạn thảo.
oChi phí mua thông tin tài liệu.
oChi phí khảo sát thăm dò.
oChi phí hành chính.
14
• Chi phí đầu tư tài sản cố định:
oChi phí xây dựng nhà xưởng.
oChi phí mua máy móc.
oChi phí lắp đặt, vận hành, chạy thử.
oChi phí thuê chuyên gia kỹ thuật, công nghệ.
• Chi phí tài sản lưu động.
Trên cơ sở nhu cầu vốn ngân hàng xem xét các nguồn vốn tài trợ cho
dự án. Thường thì một dự án có 2 nguồn cung cấp: nguồn bên trong do chủ

dự án tự bỏ ra; nguồn bên ngoài như từ Nhà nước, NHTM, dân cư, tổ chức
khác,.... Ngân hàng xem có bao nhiêu nguồn tài trợ cho dự án, khả năng tính
bảo đảm của mỗi nguồn, số vốn các nguồn khác đã cung cấp qua đó xác
định số vốn dự án còn thiếu để cho vay. Ngoài ra, ngân hàng cũng sẽ xây
dựng một lịch trình cho vay để phù hợp với yêu cầu và tiến độ bỏ vốn của dự
án.
Hai: thẩm định tính chính xác, hợp lý của các bảng dự trù tài chính. Cơ
sở để xem xét là dựa trên nội dung của luận chứng kinh tế kỹ thuật, dựa trên
các chỉ tiêu, định mức kinh tế kỹ thuật của ngành do Nhà nước ban hành
hoặc các cơ quan chuyên môn công bố và dựa trên các kết quả thẩm định
các mặt thị trường, kỹ thuật, tổ chức, kinh tế xã hội của ngân hàng.
Ba: đánh giá tài chính dự án thường dựa trên các tiêu chuẩn cụ thể và
dựa trên phân tích tài chính dự án.
Giá trị hiện tại ròng (NPV)
NPV là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền dự tính dự án
mang lại trong thời gian kinh tế của dự án và giá trị đầu tư ban đầu. Do vậy,
chỉ tiêu này phản ánh giá trị tăng thêm (khi NPV dương) hoặc giảm đi (khi
NPV âm) nếu dự án được chấp nhận.
15
Công thức tính giá trị hiện tại ròng NPV như sau:

=
+
+=
n
1i
i
i
0
r)(1

C
CNPV
C
0
là vốn đầu tư ban đầu vào dự án, do là khoản đầu tư (luồng tiền
ra) nên C
0
mang dấu âm.
C
i
là luồng tiền dự tính dự án đem lại các năm i (i=1, 2, 3,...).
r là tỷ lệ chiết khấu phù hợp của dự án.
NPV phản ánh kết quả lỗ lãi của dự án theo giá trị hiện tại (tại thời điểm
0) sau khi đã tính đến yếu tố chi phí cơ hội của vốn đầu tư. NPV dương có
nghĩa là dự án có lãi. NPV=0 chứng tỏ dự án chỉ đạt mức trang trải đủ chi phí
vốn. Dự án có NPV âm là dự án bị lỗ.
Việc xác định chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng liên quan đến các tính toán
sau. Thứ nhất là dự tính lượng tiền đầu tư ban đầu, tức là luồng tiền tại thời
điểm 0. C
0
bao gồm các khoản đầu tư vào tài sản, có thể dưới dạng tiền sẵn
sàng cho dự án hoạt động, tạo ra tồn kho, mua sắm tài sản cố định. Thực tế,
nó bao gồm các khoản chi tiêu tại các thời điểm khác nhau của dự án nhưng
để đơn giản trong tính toán ta coi đó là khoản chi tiêu tại thời điểm ban đầu.
Thứ hai là dự tính luồng tiền trong thời gian kinh tế của dự án. Đây là các
khoản thực thu bằng tiền trong các năm hoạt động của dự án. Nó được tính
bằng doanh thu ròng trừ đi các chi phí bằng tiền của từng năm và người ta
thường giả định các luồng tiền diễn ra vào thời điểm cuối năm. Cuối cùng là
dự tính tỷ lệ chiết khấu. Rất khó để xác định một tỷ lệ chiết khấu chính xác.
Tỷ lệ chiết khấu là chi phí cơ hội của việc đầu tư vào dự án mà không đầu tư

trên thị trường vốn. Tỷ lệ này thường được tính bằng tỷ lệ thu nhập của các
tài sản chính tương đương. Đó là tỷ lệ thu nhập mà nhà đầu tư mong đợi khi
đầu tư vào dự án.
Căn cứ vào ý nghĩa của chỉ tiêu NPV, ta thấy quy tắc đơn giản là: chấp
nhận dự án có NPV dương và lớn nhất (nếu có nhiều hơn một dự án có NPV
dương). Tuy nhiên chỉ tiêu này không áp dụng được cho các dự án có thời
16
hạn khác nhau và có vốn đầu tư khác nhau. Chỉ tiêu này còn không thấy
được giá trị lợi ích thu được từ một đông vốn đầu tư và phụ thuộc vào cách
lựa chọn lãi suất chiết khấu r.
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR)
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại
ròng của dự án bằng 0.
IRR được tính thông qua việc giải phương trình:
0
IRR)(1
C
CNPV
n
1i
i
i
0
=
+
+=

=
Để tính được IRR chúng ta có thể dùng phương pháp nội suy hoặc đồ
thị. Tương tự như chỉ tiêu NPV, chỉ tiêu này liên quan đến việc dự tính các

luồng tiền mà dự án sẽ tạo ra trong thời gian thực hiện. Đồng thời phải có
một tỷ lệ chiết khấu mong đợi để so sánh khi ra quyết định đầu tư.
IRR phản ánh khả năng sinh lời của dự án, chưa tính đến chi phí cơ hội
của vốn đầu tư. Tức là, nếu như chiết khấu các luồng tiền theo IRR, PV sẽ
bằng đầu tư ban đầu C
0
. Hay nói cách khác, nếu chi phí vốn băng IRR, dự án
sẽ không tạo thêm được giá trị hay không có lãi.
Qua đây ta nhận thấy rằng, nếu IRR lớn hơn chi phí vốn (tỷ lệ chiết
khấu của dự án) thì thực hiện dự án. Trong trường hợp này có thể nói dự án
có lãi, tương đương với giá trị hiện tại ròng dương. Hệ số hoàn vốn nội bộ
biểu thị sự hoàn trả vốn đã được đầu tư vì vậy nó chỉ ra tỷ lệ lãi suất tối đa
dự án có thể chịu được. Nhưng cũng như NPV, sự chính xác của chỉ tiêu
phụ thuộc vào sự chính xác của các dự tính về luồng tiền. IRR là một chỉ tiêu
mang tính tương đối, tức là nó phản ánh tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án là
bao nhiêu chứ không cung cấp quy mô của số lãi (hay lỗ) của dự án bằng
tiền. Khi dự án lập trong nhiều năm, việc tính toán là rất phức tạp.
17
Tỷ số lợi ích, chi phí BCR
Khi tính NPV, đối với các dự án lớn có chi phí đầu tư cao thường mang
về NPV cao hơn các dự án có chi phí đầu tư thấp, điều này không nhất thiết
có nghĩa là các dự án lớn tốt hơn dự án nhỏ. BCR được áp dụng để tính khả
năng sinh lời của dự án trên mỗi đơn vị tiền tệ được đầu tư.


=
=
=
+
+

n
1i
i
i
n
1i
i
i
r)(1
C
r)(1
B
BCR
B
i
, C
i
lần lượt là thu nhập, chi phí của dự án năm i (i=1, 2, 3,...).
Khi sử dụng chỉ tiêu này ta sẽ chấp nhận mọi dự án có BCR lớn hơn
hay bằng 1. Tuy nhiên cũng phải thận trọng khi dùng để đánh giá các dự án
vì nó phụ thuộc vào việc xác định mức lãi suất. Hạn chế nữa là BCR rất nhạy
cảm với các định nghĩa về chi phí trên phương diện kế toán vì theo như cách
tính trên thì lợi ích là toàn bộ nguồn thu gia tăng của dự án, còn chi phí là
tổng chi phí sản xuất gia tăng.
Điểm hòa vốn
Điểm hòa vốn lý thuyết là điểm mà doanh thu ngang bằng với chi phí
sản xuất. Người ta có thể tính điểm hòa vốn cho cả thời gian thực hiện dự án
hoặc cho từng năm. Điểm hòa vốn được biểu diễn bằng số đơn vị sản phẩm
hoặc giá trị doanh thu.
Cách tính điểm hòa vốn:

Gọi x là khối lượng sản phẩm sản xuất hoặc bán ra được.
Gọi x
0
là khối lượng sản phẩm tại điểm hòa vốn.
Gọi f là chi phí cố định, v là chi phí biến đổi của sản phẩm.
v.x là tổng chi phí biến đổi
Gọi p là giá thành sản phẩm
DT = p.x là doanh thu của dự án
18
Tại điểm hòa vốn thì: p.x
0
= v.x
0
+ f
Sản lượng hòa vốn là:
v-p
f
x
0
=
Ta có:
pv 1-
f
DT
0
=
Xác định thời gian hoàn vốn
Gọi T là khoảng thời gian hoàn vốn của dự án, khi đó T được xác
định qua phương trình:
0rCF

t-
T
0t
t
=+

=
)1(
Chỉ tiêu này cho biết sau bao lâu dự án sẽ có thu nhập đủ bù chi phí
vốn. Và đây là điều được chủ đầu tư và ngân hàng rất quan tâm, nhất là đối
với những dự án có tuổi thọ kinh tế dài hoặc đầu tư trong những lĩnh vực có
độ cạnh tranh cao do rào cản về gia nhập thấp.
Ngoài các chỉ tiêu phân tích ở trên, thẩm định tài chính dự án còn tiến
hành các phân tích tài chính. Thông thường, phương pháp được áp dụng
rộng rãi và có tính hiện thực cao là phân tích các tỷ lệ tài chính. Các tỷ lệ tài
chính chủ yếu được phân tích có 4 nhóm:
• Tỷ lệ về khả năng thanh toán:
oKhả năng thanh toán hiện hành.
oKhả năng thanh toán nhanh.
oVốn lưu động ròng.
• Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn:
oHệ số nợ.
oSố lần có thể trả lãi.
• Tỷ lệ về khả năng hoạt động:
19
oVũng quay tin.
oVũng quay d tr.
oK thu tin bỡnh quõn.
oHiu sut s dng ti sn c nh.
oHiu sut s dng tng ti sn

T l v kh nng sinh lói:
oDoanh li tiờu th sn phm.
oDoanh li vn t cú.
oDoanh li vn.
Bờn cnh ú cũn phi phõn tớch din bin ngun vn v s dng vn,
cỏc lung tin mt, cỏc ch tiờu ti chớnh trung gian nh: giỏ tr gia tng, tng
lói kinh doanh, kt qu kinh doanh,....
Bn: xut phỏt t quan im ca tớn dng l bờn vay vn (ch d ỏn)
phi hon tr ngõn hng y v ỳng hn s vn gc v lói vay. Trong
quỏ trỡnh thm nh NHTM c bit quan tõm n kh nng hon tr ca ch
u t. Kh nng tr n ca ch d ỏn ph thuc vo nhiu yu t nh: d
ỏn ang xin vay l d ỏn mi hay u t chiu sõu, ngun tr n ch yu l
kh nng sn xut ca d ỏn hay cũn ngun b sung no khỏc. Hin nay cỏc
NHTM ang xỏc nh mc tr n tng ln theo cụng thc sau:
kỳ mỗi trả gốc Số
trả iphả gốc nợ số Tổng
kiến dự nợ trả kỳ Số =








+









+








=
khác
nguồn Các
vay vốn từ
TSCDĐ KHCB
nợ trả dành
ròng nhuận Lợi
trả iphả gốc nợ số Tổng
kiến dự nợ trả kỳ Số
T cụng thc trờn, nu sau khi ó d kin s k tr n v bit tng s
n gc phi tr mi k, NHTM cú th so sỏnh cõn i cỏc ngun thu t d ỏn
20
như lợi nhuận ròng, KHCB TSCĐ và các nguồn khác xem khả năng trả nợ có
đảm bảo không.
3. Phân tích rủi ro của dự án
Rủi ro của dự án được định nghĩa là những thiệt hại mà dự án gặp phải
không lường trước được hoặc không đánh giá được hết những tổn thất sẽ

xảy ra.
Các dự án thường tồn tại trong thời gian dài. Theo lý thuyết dự báo, các
nhân tố biến động trong tương lai gần bao giờ cũng dễ xác định hơn những
yếu tố trong tương lai. Chính vì vậy, tất cả các dự án đều tiềm ẩn trong
chúng những nhân tố rủi ro và các rủi ro bao giờ cũng đa dạng phức tạp và
khó dự đoán.
Có thể phân loại rủi ro làm hai nhóm là rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ
thống.
Rủi ro hệ thống: là những rủi ro chung đối với toàn bộ nền kinh tế,
những rủi ro mang tính chất vĩ mô mà bản thân dự án không thể phân tán
hoặc quản lý được. Ví dụ như: lạm phát, thiên tai, chiến tranh, khủng hoảng
kinh tế tiền tệ trong khu vực và trên thế giới,....
Rủi ro phi hệ thống: là những rủi ro chỉ có tác động riêng đến dự án, loại
rủi ro này có thể triệt tiêu và quản lý được. Ví dụ như: giá cả đầu ra đầu vào
biến động, nguồn nguyên vật liệu,....
Hiệu quả của dự án phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố được dự báo
trong khi lập dự án. Trong công tác lập dự án và thẩm định người ta tập trung
vào nghiên cứu rủi ro phi hệ thống vì nó có thể quản lý được.Sau đây là một
số phương pháp phân tích rủi ro của dự án.
Phương pháp phân tích độ nhạy
Trong phân tích độ nhạy người ta dự kiến một số tình huống thay đổi.
những rủi ro trong tương lai làm giá nguyên vật liệu tăng, giá nhân công tăng,
sản lượng, doanh thu giảm,... rồi từ đó tính lại các chỉ tiêu hiệu quả như
21
NPV, IRR,.... Nếu các chỉ tiêu đó vẫn đạt yêu cầu thì dự án được coi là ổn
định, ngược lại dự án được coi là không ổn (độ nhạy cảm cao) phải xem xét
lại. Để phân tích đô nhạy người ta thực hiện 4 bước:
Bước 1: xác định xem những nhân tố nào có thể biến động theo chiều
hướng xấu.
Bước 2: trên cơ sở các nhân tố đã lựa chọn, dự đoán độ biến động có

thể xảy ra.
Bước 3: chọn một phương pháp đánh giá độ nhạy nào đó (như phân
tích theo chỉ tiêu NPV hay IRR).
Bước 4: tiến hành tính toán lại NPV hay IR theo các biến số mới trên cơ
sở cho các biến số tăng giảm cùng một tỷ lệ % nào đó. Độ nhạy có thể tính
theo công thức:
i
i
X
F
E


=
E là hệ số độ nhạy
∆F
i
là mức biến động của chỉ tiêu đánh giá
∆X
i
là mức biến động của nhân tố ảnh hưởng
Phân tích độ nhạy là kỹ thuật tương đối đơn giản nhưng nhược điểm
của nó là chưa tính đến xác suất có thể xảy ra của các biến rủi ro và nó cũng
không thể đánh giá được cùng một lúc sự tác động của tất cả các biến rủi ro.
Phưong pháp phân tích tình huống
Trong thẩm định và phân tích rủi ro người ta còn sử dụng một phương
pháp phân tích tình huống. Phân tích tình huống kết hợp cả hai nhân tố là
tính đến xác suất xảy ra của các biến rủi ro và sự tác động của chính biến đó
đối với dự án. Trong sự phân tích này đòi hỏi phải xem xét cả một tập hợp
những hoàn cảnh tài chính tốt và xấu từ đó so sánh với trường hợp cơ sở.

Công thức NPV bình quân như sau:
22

=
×=
n
i
ii
NPVP
1
NPV
P
i
là xác suất
Công thức tính hệ số biến thiên:
( )
( )
2
bqii
NPVNPVP −×=NPV
δ
Phân tích tình huống vẫn tồn tại những nhược điểm như không thể xác
định được tất cả các trường hợp kết hợp lẫn nhau của các yếu tố và chỉ
phân tích được một vài khả năng rời rạc, trong khi thực tế có thể có vô số
khả năng kết hợp có thể xảy ra giữa các biến của dự án.
Phương pháp phân tích theo mô phỏng MONTE CARLO
Khắc phục nhược điểm của các phương pháp trên người ta áp dụng
phương pháp phân tích rủi ro theo mô phỏng MONTE CARLO. Tức là phân
tích rủi ro dự án dưới sự tác động đồng thời của tất cả các nhân tố gây ảnh
hưởng, có tính đến xác suất xảy ra và mức độ biến thiên của từng nhân tố

tác động đó.
Khác với phân tích độ nhạy, phân tích rủi ro theo mô phỏng MONTE
CARLO xem xét đồng thời sự kết hợp của nhiều yếu tố tác động và tính đến
sự tác động qua lại tương hỗ giữa các nhân tố đó. Chính vì những khả năng
nói trên mà phân tích MONTE CARLO có phạm vi ứng dụng hết sức rộng rãi.
Mô hình phân tích rủi ro MONTE CARLO
23
Như vậy, để phân tích rủi ro theo phương pháp này cần có các điều
kiện căn bản là người phân tích phải được trang bị máy tính, phần mềm
chuyên dụng và đặc biệt là phải được đào tạo tốt về kỹ năng sử dụng máy
tính đồng thời phải có kinh nghiệm nhất định mới có thể có được những kết
luận đúng đắn và có giá trị.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính dự án
Chất lượng thẩm định dự án đầu tư bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố
khác nhau mà NHTM muốn nâng cao chất lượng thẩm định cần phải quan
tâm:
• Nhân tố chủ quan:
oTiêu chuẩn thẩm định.
oCon người.
oThông tin.
oTổ chức, điều hàng.
oTrang thiết bị kỹ thuật
oMột số nhân tố khác.
• Nhân tố khách quan.
24
LỰA CHỌN CÁC BIẾN RỦI RO ĐƯA VÀO PHÂN TÍCH
LỰA CHỌN KHOẢNG BIẾN ĐỘNG CỦA CÁC BIẾN RỦI RO
PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY
SỬ DỤNG PHẦN MỀM MONTE CARLO
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ

Tiêu chuẩn thẩm định
Trên cơ sở nguồn thông tin có được về dự án, NHTM sẽ là gì, làm như
thế nào, áp dụng phương pháp, kỹ thuật nào để thẩm định với các tiêu chuẩn
nào để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án là điều rất quan trọng.
Trong điều kiện hiện nay, nếu ngân hàng vẫn tiếp tục sử dụng các
phương pháp thẩm định cũ với tiêu thức cũ thì kết quả thẩm định tài chính sẽ
không chính xác, chất lượng sẽ thấp. Phương pháp thẩm định mới sẽ giúp
việc đánh giá dự án thuận lợi, chính xác và toàn diện.
Việc tính đến giá trị thời gian của tiền trong các tiêu chuẩn thẩm định là
cực kỳ quan trọng với thẩm định tài chính dự án. Trong nhiều dự án, nếu
không tính đến giá trị thời gian của tiền thì dự án là khả thi nhưng không có
hiệu quả về tài chính. Tỷ lệ chiết khấu các dòng tiền cũng có một ảnh hưởng
quan trọng tới kết quả thẩm định. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn thẩm định
hiện đại còn xem xét dự án trong trạng thái tĩnh và cả trạng thái động.
Ngoài ra việc lựa chọn các chỉ tiêu phân tích tài chính phù hợp điều kiện
của từng dự án cũng rất cần thiết. Hiện nay có rất nhiều phương pháp thẩm
định dự án khác nhau nhưng việc áp dụng chỉ tiêu nào để vừa đảm bảo tính
chính xác, kết hợp được mặt mạnh của các chỉ tiêu vừa phù hợp với tình
hình thực tế và điều kiện cụ thể của ngân hàng sẽ cho kết quả thẩm định tốt
nhất.
Con người
Con người là yếu tố quyết định chất lượng thẩm định của dự án. Con
người là chủ thể trực tiếp tổ chức và thực hiện hoạt động thẩm định tài chính
theo phương pháp , kỹ thuật của mình. Kết quả thẩm định tài chính dự án là
kết quả đánh giá,xem xét chủ quan của con người theo cơ sở khoa học và
các tiêu thức chuẩn mực khác nhau. Do đó, để có kết quả thẩm định tốt thì
phải đặt yếu tố con người lên hàng đầu. Nhân tố con người ở đây bao gồm
trình độ, kinh nghiệm, năng lực và tư cách đạo đức. Trình độ đó là toàn bộ
các kiến thức khoa học mà người thẩm định được đào tạo hoặc tự nghiên
cứu có. Kinh nghiệm là những gì mà người thẩm định tích lũy trong quá trình

25

×