Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TÌM HIỂU CHẾ ĐỘ KINH TẾ TRONG HIẾN PHÁP 2013 và LIÊN hệ THỰC TIỄN ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.67 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI PHÂN HIỆU TẠI TP. HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH

TÌM HIỂU CHẾ ĐỘ KINH TẾ TRONG HIẾN PHÁP 2013 VÀ LIÊN HỆ
THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Luật Hiến pháp Việt Nam
Mã phách: ………………………………….(Để trống)

TP. Hồ Chí Minh - 2021


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cơ giáo đã giúp đỡ em rất nhiều trong q
trình học tại Phân hiệu trường đại học Nội vụ Thành phố Hồ Chí Minh. Em rất mong
nhận được sự đóng góp của các thầy cơ giáo để cho đề tài này được hoàn thiện hơn nữa.


MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cảm ơn


4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Đặc biệt cuộc
khủng hoảng tài chính, kinh tế năm 2008-2009 đã làm bộc lộ những vấn đề toàn cầu mới,
buộc các quốc gia và các cộng đồng quốc tế phải có những hợp tác mới để đối phó giải
quyết. Nền kinh tế và chính trị thế giới đứng trước thay đổi mới kế cả trong tư duy chiến


lược và trong các hành động thực tiễn của các quốc gia. Thay đổi đang là một xu thế tất
yếu và là phương châm hành động của nhiều quốc gia phát triển. Chính những thay đổi
đã và đang diễn ra tại các nước phát triển và trong các cộng đồng chính trị, kinh tế, quốc
tế đang tác động mạnh mẽ đến các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam. Việt
Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu vào đời sống quốc tế và có vai trị ngày càng
quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, Việt Nam phải chủ động để thích ứng
với những thay đôi đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới và đối phó thành cơng với những
thách thức nảy sinh từ những thay đổi này đối với con đường phát triển của đất nước.
Trong bối cảnh thay đổi của thế giới, việc đổi mới, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu
quả tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cần được xác định là một hướng ưu tiên
của chiến lược tiếp tục đổi mới trong các điều kiện của thời đại mới. Những thay đổi
đang diễn ra trong thế giới tồn cầu hố đang đặt ra trước bộ máy nhà nước khơng ít
nhiệm vụ, mà việc giải quyết chúng có ý nghĩa quan trọng để hội nhập thành công.
Những thay đổi trong đời sống kinh tế sẽ là cú hích tích cực đưa Việt Nam “lột xác” đổi
mới, cải tổ và thay đổi tích cực, vượt qua các thách thức đang đặt ra trong thế giới tồn
cầu hóa.
Chính vì lý do trên, em đã quyết định chọn thực hiện nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu chế độ
kinh tế trong Hiến pháp năm 2013 và liên hệ thực tiễn ở Việt Nam”

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu chế độ kinh tế, nghiên cứu sự phát triển chế độ kinh tế trong từng bản
Hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, nghiên cứu thực trạng áp dụng
chế độ kinh tế trong thực tiễn ở Việt Nam và những kiến nghị về chế độ kinh tế trong
Hiến pháp năm 2013.


5
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận về chế độ kinh tế trong Hiến pháp năm 2013, thực trạng áp

dụng chế độ kinh tế của Hiến pháp năm 2013 vào thực tiễn ở Việt Nam, cùng những kiến
nghị về chế độ kinh tế trong Hiến pháp năm 2013.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài tập lớn là tìm hiểu chế độ kinh tế trong Hiến pháp
năm 2013 từ đó liên hệ thực tiễn ở Việt Nam và đưa ra những kiến nghị về chế độ kinh tế
trong Hiến pháp năm 2013.

3.2 Khách thể nghiên cứu
3.2.1 Nội dung nghiên cứu
Tìm hiểu chế độ kinh tế trong Hiến pháp năm 2013 và liên hệ thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay qua thực trạng việc vận dụng chế độ kinh tế.
Bài tập lớn chỉ đề xuất một số kiến nghị nhằm cải thiện chế độ kinh tế tốt trong
Hiến pháp năm 2013.

3.2.2 Khách thể nghiên cứu
Đề tài lựa chọn nghiên cứu chế độ kinh tế trong Hiến pháp năm 2013 và liên hệ
thực tiễn ở Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các vấn đề lý luận trong các tài
liệu tham khảo có liên quan đến chế độ kinh tế trong Hiến pháp năm 2013 và vận dụng
chế độ kinh tế vào thực tiễn Việt Nam.

4.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp quan sát

5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
5.1 Ý nghĩa lý luận
Bài tập lớn góp phần làm rõ chế độ kinh tế trong Hiến pháp năm 2013 và thực
trạng việc áp dụng chế độ kinh tế vào thực tiễn Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến
nghị nhằm cải thiện chế độ kinh tế trong Hiến pháp năm 2013.

5.2 Ý nghĩa thực tiễn


6
Kết quả nghiên cứu của bài tập có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
việc dự thảo, xây dựng chế độ kinh tế trong luật Hiến pháp Việt Nam.
Bài tập lớn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy
các môn học và các ngành học có liên quan trong các trường chính trị, các trường đại
học, học viện ở nước ta hiện nay.


7
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ KINH TẾ VÀ HIẾN
PHÁP

1.1 Khái quát về chế độ kinh tế
1.1.1Khái niệm về chế độ kinh tế
Đối với các nhà nước đang phát triển, và kể cả của các nước có nền kinh tế chuyển
đổi, vai trị của nhà nước có ý nghĩa quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Khơng có một chế độ chính trị/chế độ nhà nước nào lại khơng có mục tiêu ổn định và
phát triển kinh tế.
Vậy chế độ kinh tế là gì và do những yếu tố nào cấu tạo nên? Chế độ kinh tế là
một hệ thống các quan hệ kinh tế được pháp luật quy định thể hiện định hướng phát triển

kinh tế, tính chất và hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất và tổ chức quản lý nền kinh
tế.
Chế độ kinh tế được hình thành bằng: chế độ sở hữu, mục đích, chính sách phát
triển kinh tế và chế độ quản lý kinh tế.

1.1.2Chính sách kinh tế
Kinh tế được hiểu là tổng thể các hoạt động liên quan đến quá trình sản xuất, lưu
thông, phân phối và tiêu thụ của cải trong xã hội. Chính sách là kế hoạch hành động,
được thỏa thuận hoặc lựa chọn bởi Chính phủ, đảng chính trị hoặc doanh nghiệp. Từ hai
khái niệm trên đây có thể suy ra chính sách kinh tế là kế hoạch hành động nhằm sản xuất,
lưu thơng, phân phối, tiêu thụ hàng hóa, của cải trong xã hội hay hiểu một cách đơn giản
hơn, chính sách kinh tế là chính sách tạo ra của cải làm giàu cho xã hội.
Đồng thời, chính sách kinh tế là một trong những thành phần quan trọng tạo nên
chế độ chính trị của mỗi quốc gia.
Trong cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam có định nghĩa: “Chính sách kinh tế là
chính sách và biện pháp kinh tế mà nhà nước áp dụng trong một giai đoạn, hoặc thời kỳ
lịch sử nhằm đạt được những mục đích, yêu cầu kinh tế chính trị nhất định. Chính sách
có thể mang tính chất đường lối, chiến lược lâu dài, có thể tính chất sách lượt ngắn hạn.


8
Chính sách kinh tế được xây dựng trên cơ sở, những điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước và những xu hướng phát triển xã hội.”

1.1.3Chế độ sở hữu
Cùng với chính sách kinh tế, chế độ sở hữu là yếu tố cơ bản trong chế độ kinh tế.
Chế độ sở hữu là chế độ pháp lí gồm tổng thể các quy phạm Luật hiến pháp quy định
hình thức sở hữu đối với của của vật chất mà trước hết là các tư liệu sản xuất, các tư liệu
sinh hoạt, tiêu dùng và các tài sản khác.
Hiện nay ở Việt Nam đang tồn tại những hình thức sở hữu chủ yếu sau:


1.1.3.1 Sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước)
Đây là hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa có vai trị chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân. Nó bao quát những tư liệu sản xuất chủ chốt quyết định sự phát triển của nền kinh
tế. Tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: đất đai, rừng núi sơng hồ, nguồn nước, tài
ngun trong lịng đất,…Tài sản thuộc sở hữu toàn dân là tài sản chung của toàn xã hội.
Chủ thể của sở hữu này là toàn thể nhân dân mà Nhà nước là đại diện. Nhà nước là chủ
thể thống nhất và duy nhất đối với tất cả tài sản thuộc sở hữu nhà nước.

1.1.3.2 Sở hữu tập thể
Đây là loại hình sở hữu xã hội chủ nghĩa gần giống với sở hữu toàn dân. Tuy
nhiên, nó có những điểm khác so với sở hữu tồn dân về chủ thể, phương pháp hình
thành phạm vi các đối tượng tài sản và trật tự quản lý.
Sở hữu tập thể bao gồm sở hữu của các hợp tác xã sản xuất, kinh doanh trong các
lĩnh vực nông nghiệp, cơng nghiệp, giao thơng vận tải, xây dựng. Hình thức sở hữu này
đang tồn tại và được sử dụng thực hiện chức năng và phục vụ các nhu cầu đời sống văn
hóa – xã hội của các thành viên của tổ chức (ví dụ như các nhà nghỉ, cơ sở du lịch của
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam).

1.1.3.3 Sở hữu tư nhân và sở hữu cá nhân
Sở hữu cá nhân và sở hữu tư nhân là một phần quan trọng của quyền con người.
Về cơ bản con người khác với con vật ở chỗ ý thức được quyền tư hữu và tài sản của


9
mình. Sở hữu tư nhân là sở hữu của lao động cá thể, tư bản tư nhân trong nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ, giao thơng vận tài.
Hình thức sở hữu này cũng được xác định là một loại hình sở hữu xã hội chủ
nghĩa. Nguồn chủ yếu của sở hữu này là kết quả lao động của cá nhân và phần quỹ tiêu
dùng xã hội mà cá nhân được hưởng. Tài sản thuộc sở hữu cá nhân chủ yếu là những sản

phẩm tiêu dùng (không phải là tư liệu sản xuất). Chủ thể của sở hữu cá nhân là các thành
viên trong xã hội trực tiếp tham gia lao động sản xuất.

1.1.3.4 Sở hữu hỗn hợp
Sở hữu hỗn hợp là loại hình sở hữu phối kết hợp giữa sở hữu tư nhân với các loại
hình sở hữu khác, hoặc giữa các loại hình sở hữu khác với nhau trong việc đưa vốn và tài
sản vào tham gia kinh doanh sản xuất.

1.1.4Chế độ quản lý kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế trong thời đại ngày nay trở thành một nhân tố cơ bản
quyết định sự phát triển của mọi quốc gia khơng kể của chế độ chính trị tư bản và của cả
chế độ xã hội chủ nghĩa, các nước phát triển hay đang phát triển Quản lý nền kinh tế là
một phần quan trọng trong hoạt động của Nhà nước nói chung và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa nói riêng. Bất kỳ một nền kinh tế nào đều cần có sự quản lý của Nhà nước. Càng là
kinh tế thị trường càng phải tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với nền kinh
tế. Ở đây, Nhà nước tác động đến các chủ thể kinh tế với tính cách là chủ thể thực hiện
quyền lực cơng cộng. Nhà nước quản lý toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội.
Để tăng cường và phát triển kinh tế, nhà nước và các tổ chức kinh tế đều phải thực
hiện những chức năng kinh tế nhất định. Những chức năng tuy có quan hệ với nhau,
nhưng chúng khơng thể đồng nhất. Mọi nhà nước không phân biệt chế độ chính trị đều
phải có sự phân định giữa chức năng kinh tế của nhà nước và chức năng sản xuất - kinh
doanh của các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Nhà nước trong một nền kinh tế thị trường là những hoạt động của nhà nước cần
phải thực hiện để cùng với thị trường đảm bảo cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất
nước. Về nguyên tắc là nhà nước không can thiệp vào những lĩnh vực mà bản thân thị
trường hoạt động tốt, chỉ can thiệp vào những nơi mà thị trường hoạt động không tốt. Sự


10
can thiệp không đúng lúc, không đúng chỗ của nhà nước có thể dẫn đấn sự thiệt hại cho

nền kinh tế và quyền lợi của người dân. John Keynes trong tác phẩm “Sự kết thúc của
nền kinh tế thị trường tự do” đã cho rằng: “Điều quan trọng đối với nhà nước không phải
là làm những việc mà người dân đã làm, làm tốt hơn, hoặc tồi hơn họ một chút, mà là làm
những việc hiện nay chưa ai làm.”

1.2 Chế độ kinh tế và Hiến pháp
1.2.1Hiến pháp
Với góc độ là một sự kiện chính trị pháp lý, hay cịn có thể nói chức năng chính trị
thì hiến pháp như trên đã nêu là văn bản ghi nhận mối tương quan lực lượng chính trị
trong xã hội, khi hiến pháp mới được ban hành.
Xét về mặt nội dung, hiến pháp là tất cả các quy tắc pháp lý quan trọng nhất của
quốc gia, ấn định hình thể quốc gia, ấn định các cơ quan điều khiển quốc gia cùng những
thẩm quyền của các cơ quan ấy. Hiến pháp là văn bản phản ánh tổ chức chính trị của
quốc gia.
Thơng qua hiến pháp cho phép chúng ta vẽ nên mơ hình của nhà nước, nguồn gốc
quyền lực nhà nước. Ban đầu đối tượng điều chỉnh của hiến pháp chỉ bó hẹp trong khn
khổ quy định những vấn đề có liên quan đến tổ chức chính quyền nhà nước ở cấp trung
ương thể hiện ở nguyên tắc phân chia quyền lực. Tuy nhiên, càng về sau này, phù hợp với
sự phát triển của dân chủ, đối tượng điều chỉnh của hiến pháp ngày càng được mở rộng.
Không những hiến pháp chỉ quy định việc tổ chức quyền lực nhà nước, mà còn quy định
cả quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Không những thế hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa còn quy định cả về chế
độ kinh tế, chế độ văn hố, giáo dục, an ninh quốc phịng. Với sự ảnh hưởng ít nhiều của
hiến pháp xã hội chủ nghĩa, một số hiến pháp tư bản mới được thông qua, đối tượng điều
chỉnh của chúng cũng được mở rộng sang một số lĩnh vực khác. Nhưng dù mở rộng đối
tượng điều chỉnh đến đâu đi chăng nữa, phần cơ bản là tổ chức quyền lực nhà nước vẫn
được giữ lại trong bất cứ một hiến pháp tư sản nào.
Nói tóm lại, hiến pháp là một đạo luật cơ bản do cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất ban hành quy định việc tổ chức nhà nước, cơ cấu, thẩm quyền các cơ quan nhà nước



11
trung ương và quyền cơ bản của con người. Mọi cơ quan và mọi tổ chức phải nghĩa vụ
tuân thủ Hiến pháp.

1.2.2Mối quan hệ giữa chế độ kinh tế và Hiến pháp
Có một điểm mà ta cần phải nhấn mạnh rằng lĩnh vực kinh tế thường không được
quy định trong hiến pháp của các nước phát triển. Lý do của việc hiến pháp khơng quy
định có rất nhiều, nhưng có lẽ một trong những nguyên nhân căn bản, hiến pháp khi mới
ra đời là một trong những thành tố khẳng định sự tự do của con người thoát khỏi sự
chuyên chế của nhà nước phong kiến, với chủ nghĩa tư bản tự do: Nhà nước không can
thiệp vào kinh tế. Nếu như là có chăng sự quy định của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế, thì
chỉ nằm ở chỗ hiến pháp xác định sở hữu là quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của lĩnh
vực quyền con người.
Mặc dù trong lĩnh vực kinh tế thị trường vận hành tốt hơn Nhà nước, nhưng cũng
có những hoạt động khác của kinh tế địi hỏi phải có sự liên quan đến nhà nước. Khơng
có những nền tảng lý thuyết kinh tế nào ủng hộ chính sách tự do kinh doanh thuần túy.
Không một nền kinh tế nào hoạt động hiệu quả được nếu như khơng có nhà nước đóng
một vai trị thích hợp và ngay cả trong trường hợp nếu vai trị đó được giới hạn như quan
điểm “bàn tay vơ hình” của nhà kinh tế cổ điển Adam Smith (1776).
Đối với các nhà nước đang phát triển, và kể cả của các nước có nền kinh tế chuyển
đổi, vai trị của nhà nước có ý nghĩa quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển của kinh
tế. Khơng có một chế độ chính trị/chế độ nhà nước nào lại khơng có mục tiêu ổn định và
phát triển kinh tế. Càng ở những nước chậm phát triển thì mục tiêu phát triển kinh tế của
chế độ chính trị càng phải được đặt ra. Chế độ kinh tế không những chỉ là cơ sở có tính
quyết định đến chế độ chính trị, mà đối với nhà nước chậm phát triển còn là mục tiêu
phát triển cần phải đạt được của chế độ chính trị.
Vì vậy, với tư cách là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia, hiến pháp ít nhiều phải có
quy định về chế độ phát triển kinh tế.



12
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Đối với các nhà nước đang phát triển, và kể cả của các nước có nền kinh tế chuyển
đổi, vai trị của nhà nước có ý nghĩa quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Khơng có một chế độ chính trị/chế độ nhà nước nào lại khơng có mục tiêu ổn định và
phát triển kinh tế.
Chế độ kinh tế là một hệ thống các quan hệ kinh tế được pháp luật quy định thể
hiện định hướng phát triển kinh tế, tính chất và hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất
và tổ chức quản lý nền kinh tế. Chế độ kinh tế được hình thành bằng: chế độ sở hữu, mục
đích, chính sách phát triển kinh tế và chế độ quản lý kinh tế.
Càng ở những nước chậm phát triển thì mục tiêu phát triển kinh tế của chế độ
chính trị càng phải được đặt ra. Chế độ kinh tế không những chỉ là cơ sở có tính quyết
định đến chế độ chính trị, mà đối với nhà nước chậm phát triển còn là mục tiêu phát triển
cần phải đạt được của chế độ chính trị.
Vì vậy, với tư cách là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia, hiến pháp ít nhiều phải có
quy định về chế độ phát triển kinh tế.


13
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỘ KINH TẾ QUA CÁC BẢN HIẾN
PHÁP VIỆT NAM

1 Chế độ kinh tế qua các bản Hiến pháp trước Hiến pháp năm 2013
1 Chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1946
Tại Hiến pháp 1946 (giai đoạn 1945 - 1954) chế độ kinh tế nước ta còn là tự
nhiên, tự do với nền kinh tế nhiều thành phần, đúng với mục tiêu cách mạng dân chủ tư
sản kiểu mới (sau gọi là cách mạng dân chủ nhân dân). Hiến pháp qui định quyền tư hữu
tài sản của công dân Việt nam được bảo đảm (Điều 12). Bên cạnh đó, qua nghiên cứu về
hồn cảnh ra đời của Hiến pháp 1946, có thể thấy mục đích của việc phát triển kinh tế là

nhằm đem lại ấm no, hạnh phúc cho người dân như đã được nhắc đến trong tuyên ngôn
độc lập. Phương thức phát triển kinh tế để đạt được mục đích trên chưa được đình hình và
quy định rõ.

2 Chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1959
Hiến pháp 1959 (giai đoạn 1954 - 1975) đã xác lập một chế độ kinh tế theo chủ
nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công
nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến (Điều 9). Thời kỳ
này, Hiến pháp còn thừa nhận tồn tại 4 loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: Sở
hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư
sản dân tộc. Song nhà nước chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa,
nhanh chóng xóa bỏ các hình thức sở hữu phi xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự lãnh đạo
tập trung thống nhất của nhà nước đối với kinh tế. Sở dĩ có hiện tượng này vì Điều 9 của
bản Hiến pháp năm 1959 quy định rõ: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến dần từ chế
độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế
quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Mục
đích cơ bản của chính sách kinh tế của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là không ngừng
phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.”
Về phương pháp quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, Hiến pháp 1959 xác
định nhà nước sử dụng phương pháp kế hoạch hóa tập trung bao cấp.


14
3 Chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1980
Hiến pháp 1980 (giai đoạn 1975 - 1985) qui định một chế độ kinh tế thuần túy xã
hội chủ nghĩa với một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần: Kinh tế quốc doanh và kinh
tế tập thể, với hai hình thức sở hữu tương ứng; sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Thực
hiện một chế độ quản lý kinh tế theo kế hoạch tập trung thống nhất kết hợp quản lý theo
ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ.

Phương pháp quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, Hiến pháp 1980 xác định
nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất, nhà nước giữ độc
quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác đối với nước ngoài.

4 Chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1992
Hiến pháp 1992 mở ra một giai đoạn mới- Hiến pháp của thời kỳ đổi mới. Chế độ
kinh tế được quy định là kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức mới này rút ra từ bài học của những sai lầm, nóng vội, duy ý chí trong q
khứ. Hiến pháp đã quy định những nội dung mới về chế độ kinh tế như chính sách kinh
tế, hình thức sở hữu, chế độ lao động sản xuất, phân phối và tiêu dùng và chế độ quản lý
kinh tế. Cái quan trọng nhất của chế độ kinh tế là quy định sở hữu tư nhân được tồn tại và
được hiến pháp bảo đảm
Mục đích phát triển kinh tế là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Phương hướng phát triển kinh tế là
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trườngcó sự quản lý của nhà
nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp quản lý của nhà nước về kinh tế được Hiến pháp 1992 xác định là
nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách

2 Chế độ kinh tế trong hiến pháp 2013
Nếu Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 dành hẳn 1 chương cho chế độ
kinh tế (với 22 điều trong Hiến pháp năm 1980 và 15 trang trong Hiến pháp năm 1992)
thì Hến pháp năm 2013 chỉ dành 7 điều và quy định chung cùng với các lĩnh vực khác
trong một chương : “kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi


15
trường”. Việc không quy định một cách chi tiết chế độ kinh tế trong Hiến pháp như hai
Hiến pháp trước đây là kết quả của việc học tập kinh nghiệm nước ngồi trong quy định
về chính sách kinh tế. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước và thường có hiệu lực

trong một khoảng thời gian dài (ví dụ Hiến pháp Hoa kỳ đã tồn tại gần 230 năm). Chế độ
kinh tế thường là yếu tố thường xuyên biến động do trình độ khoa học, kĩ thuật và cơng
nghệ ngày càng phát triển thì cách thức sản xuất, cơ cấu kinh tế, tỉ trọng các thành phần
kinh tế cũng có thể thay đổi theo. Vì vậy các nước trên thế giới thường không quy định
một cách chi tiết về chế độ kinh tế để tránh tình trạng phải thường xuyên sửa đổi Hiến
pháp.
Thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế của Đảng thể hiện trong Văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011, Điều 50 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát
huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa thực hiện
tiến bộ cơng bằng xã hội, bảo vệ mơi trường, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. chính sách phát triển kinh tế đã được Hiến pháp năm 2013 xác định: “Nền kinh tế
Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. (khoản 1 Điều 51).
Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp
luật. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp, cá nhân, tổ
chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh, phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây
dựng đất nước.
Tài sản hợp pháp cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo
hộ và khơng bị quốc hữu hóa. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết
nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường, thực hiện phân công, phân cấp,
phân quyền trong quản lý nhà nước, thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống
nhất nền kinh tế quốc dân (Điều 52), Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính
nhà nước và các nguồn tài chính khác do nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử
dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật (khoản 1 Điều 55).
Ngoài ra Hiến pháp năm 2013 đặc biệt quan tâm đến chính sách đất đai. Đất đai là
tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng nhất trong phát triển đất nước,
được quản lý theo pháp luật.
Hiến pháp 2013 xác định phương pháp quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế

là: Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn


16
trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý
nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc
dân.


17
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Có thể thấy rằng, chế độ kinh tế qua các bản Hiến pháp Việt Nam được cải thiện
những mặt xấu và duy trì những điểm tốt, phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng, phù
hợp với sự phát triển trong từng giai đoạn, thời kỳ của Việt Nam.
Về mặt hình thức, nếu các bản Hiến pháp trước năm 2013 đều quy định một
chương riêng dành cho chế độ kinh tế thì Hiến pháp năm 2013 chỉ dành ra 7 điều và quy
định chung cùng các lĩnh vực khác trong một chương “kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục,
khoa học, cơng nghệ và mơi trường”. Việc không quy định một cách chi tiết chế độ kinh
tế trong Hiến pháp như hai Hiến pháp trước đây là kết quả của việc học tập kinh nghiệm
nước ngoài trong quy định về chính sách kinh tế. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà
nước và thường có hiệu lực trong một khoảng thời gian dài (ví dụ Hiến pháp Hoa kỳ đã
tồn tại gần 230 năm). Chế độ kinh tế thường là yếu tố thường xuyên biến động do trình
độ khoa học, kĩ thuật và cơng nghệ ngày càng phát triển thì cách thức sản xuất, cơ cấu
kinh tế, tỉ trọng các thành phần kinh tế cũng có thể thay đổi theo. Vì vậy các nước trên
thế giới thường không quy định một cách chi tiết về chế độ kinh tế để tránh tình trạng
phải thường xuyên sửa đổi Hiến pháp.
Về nội dung, thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế của Đảng thể hiện trong Văn
kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011, Điều 50 Hiến pháp năm 2013
quy định: “Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa

thực hiện tiến bộ cơng bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”. chính sách phát triển kinh tế đã được Hiến pháp năm 2013 xác định:
“Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.


18
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CHẾ ĐỘ KINH TẾ TRONG
HIẾN PHÁP NĂM 2013 VÀO THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
KIẾN NGHỊ NHẰM CẢI THIỆN CHẾ ĐỘ KINH TẾ TRONG HIẾN PHÁP
NĂM 2013
3.1 Thực trạng vận dụng chế độ kinh tế trong Hiến pháp năm 2013 vào thực
tiễn ở Việt Nam
Đã hình thành hệ thống pháp luật về kinh tế khá đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý cho các
doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu hoạt động. Vai trò của Nhà nước đã được điều
chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, về cơ bản, đã thiết lập được khung pháp luật và
bộ máy thực thi hiệu quả hơn. Cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên đối thoại, lắng
nghe ý kiến cộng đồng doanh nghiệp và người dân để có phản ứng chính sách kịp thời,
giải quyết ngay và dứt điểm những vướng mắc, bất cập của mơi trường đầu tư, kinh
doanh, các chính sách an sinh xã hội. Hoạt động luật sư, công chứng, trợ giúp pháp lý, hỗ
trợ pháp lý cho doanh nghiệp có bước phát triển mạnh, thị trường dịch vụ pháp lý có
bước phát triển mới, bước đầu có đóng góp tích cực cho việc quản trị rủi ro pháp lý trong
hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh
nghiệp.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ từng bước hình
thành đồng bộ, vận hành cơ bản thơng suốt và bước đầu có sự gắn kết với thị trường khu
vực và quốc tế. Quy mô và cơ cấu thị trường tài chính có sự điều chỉnh hợp lý hơn giữa
thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường vốn cổ phần và trái phiếu, thị trường trái
phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, giữa dịch vụ tín dụng và các dịch vụ phi tín
dụng; thanh tốn bằng tiền mặt giảm dần, các hình thức thanh toán qua ngân hàng được

mở rộng, đặc biệt là thơng qua hệ thống ví điện tử.
Thể chế phát triển thị trường bất động sản và quyền sử dụng đất được hoàn thiện
và hoạt động bền vững hơn, huy động được nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn cung và lượng giao dịch thành công ở các phân khúc thị trường bất động sản, nhất
là nhà ở đều có sự tăng trưởng tốt. Các tổ chức trung gian hỗ trợ thị trường đã hình thành
và đi vào hoạt động ổn định, gồm: Hệ thống sàn giao dịch bất động sản, tư vấn, quản lý
bất động sản, các tổ chức tài chính, tín dụng, các hội nghề nghiệp.

3.2 Các hạn chế, yếu kém
3.2.1Hiệu quả xử lý của mô hình tổ chức bộ máy nhà nước hiện tại chưa thực sự
tốt
Sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đòi hỏi bộ
máy nhà nước phải có đủ năng lực để xây dựng được một hệ thống pháp luật đáp ứng các
yêu cầu của thị trường, tổ chức thực thi pháp luật vì lợi ích của tồn bộ nền kinh tế quốc
dân, vì lợi ích của tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong một môi
trường cạnh tranh, công bằng và minh bạch. Như vậy, để phát triển bền vững một nền


19
kinh tế thị trường định hướng XHCN, công tác xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật và
bảo vệ pháp luật đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và
cơ quan tư pháp.
Tính chất, trình độ phát triển mới của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
đang đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật với một chất lượng mới,
hiệu quả mới, thật sự tạo dựng được một môi trường pháp lý cho “quyền tự do” kinh
doanh, một mơi trường vừa ổn định, vừa thơng thống và minh bạch cho sự vận hành của
các quan hệ kinh tế, đảm bảo sự quản lý kinh tế thật sự theo luật pháp và bằng pháp luật,
loại bỏ sự can thiệp hành chính vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để có được hệ
thống pháp luật đủ khả năng và hiệu lực điều chỉnh các quan hệ kinh tế, cần thiết phải cơ
cấu lại thẩm quyền và trách nhiệm xây dựng luật giữa các thiết chế quyền lực, giữa Quốc

hội với Chính phủ, giữa Quốc hội với Uỷ ban Thường vụ quốc hội và giữa các cơ cấu của
bản thân cơ quan lập pháp. Sự cơ cấu lại chức năng, thẩm quyền giữa các cấu trúc quyền
lực dĩ nhiên kéo theo nhu cầu cơ cấu lại mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước tương ứng.
Trong lĩnh vực hành pháp, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng địi hỏi
phải cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia trên tất cả các phương diện từ cải cách
thể chế hành chính (mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính) cải cách tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước, cải cách tài chính cơng đến xây dựng, đào tạo đội ngũ công chức
chuyên nghiệp.
Mục tiêu của cải cách này đều phải hướng tới một nền hành chính dân chủ, hiệu
quả, năng động và minh bạch, hoạt động vì mục tiêu phát triển của tồn bộ nền kinh tế
quốc dân, vì lợi ích của mọi doanh nghiệp khơng phân biệt thành phần kinh tế, hình thức
sở hữu.
Trong lĩnh vực tư pháp, nền kinh tế thị trường đòi hỏi một chế độ tài phán tư pháp
dân chủ, khách quan và có hiệu lực trong việc bảo vệ các lợi ích hợp pháp của các doanh
nghiệp, xử lý đúng đắn các xung đột, tranh chấp kinh tế theo đúng quy định pháp luật,
làm cho thị trường luôn ổn định, công bằng và có trật tự.
Tất cả các yêu cầu đó đang đặt ra nhu cầu tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước,
nhằm xây dựng và vận hành một bộ máy vừa thúc đẩy kinh tế phát triển, vừa kiểm sốt
được các q trình kinh tế, vừa hỗ trợ thị trường, vừa ngăn ngừa được các nguy cơ của thị


20
trường theo đúng phương châm vì mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã được Đảng ta xác định.

3.2.2Về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng
Phát triển nơng nghiệp vẫn còn những yếu tố thiếu bền vững, tăng trưởng chưa
vững chắc 54. Đổi mới tổ chức sản xuất còn chậm; đa số doanh nghiệp và hợp tác xã nông
nghiệp có quy mơ nhỏ, hoạt động hiệu quả chưa cao, việc sắp xếp đổi mới công ty nông,
lâm nghiệp hiệu quả thấp. Ứng dụng cơng nghệ cao cịn hạn chế.

Phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
chủ yếu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững; chưa tạo ra được ngành
cơng nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh cao, chưa có ngành cơng nghiệp mũi
nhọn đóng vai trị dẫn dắt. Sản xuất công nghiệp chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia
tăng thấp.
Chất lượng dịch vụ vẫn còn thấp. Chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ còn chậm,
xuất khẩu dịch vụ vẫn còn hạn chế, chưa khắc phục được thâm hụt trong cán cân xuất
nhập khẩu dịch vụ. Hệ thống phân phối còn bất cập, chưa kết nối hiệu quả, thông suốt từ
khâu sản xuất đến tiêu thụ. Du lịch tăng trưởng cao nhưng chất lượng tăng trưởng chưa
được chú trọng, chưa có nhiều sản phẩm đa dạng và chưa bảo đảm tính bền vững.
Phát triển ngành xây dựng chưa tương xứng với tiềm năng. Năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp xây dựng và của một số sản phẩm chủ yếu còn hạn chế, nhất là sản
phẩm địi hỏi cơng nghệ cao. Doanh nghiệp xây dựng quy mơ nhỏ cịn chiếm tỉ trọng lớn.
Thị trường bất động sản còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thiếu nguồn cung nhà ở giá thấp phù
hợp với khả năng thanh toán của đại bộ phận người dân.
Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền
kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ, trình độ quản trị và công nghệ
lạc hậu, khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động thấp, mức độ sẵn sàng và liên kết khu
vực đầu tư nước ngoài hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của chuỗi giá trị sản xuất khu vực
và toàn cầu.
Xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào khu vực có vốn đầu tư nước ngồi 55. Phần lớn các
mặt hàng nông sản xuất khẩu đều chưa xây dựng được thương hiệu riêng, ổn định và


21
vững chắc. Về nhập khẩu, tỉ trọng nhóm nguyên, nhiên, vật liệu, nhóm hàng tiêu dùng có
xu hướng tăng; nhập khẩu nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng chủ yếu
nhập khẩu từ các khu vực thị trường công nghệ thấp của Châu Á.

3.3 Các nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém

3.3.1Nguyên nhân khách quan
Nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu, rộng; độ mở của nền kinh tế lớn trong điều
kiện kinh tế toàn cầu có nhiều biến động khó lường gây khó khăn, hạn chế cho khả năng
nắm bắt, phân tích, dự báo, khả năng cạnh tranh và tính tự chủ. Nhiều vấn đề quan trọng
trong cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng là những vấn đề phức
tạp, đòi hỏi thực hiện trong dài hạn.

3.3.2Nguyên nhân chủ quan
Việc nhận thức mốt số vấn đề về nền kinh tế chưa sâu sắc, chưa thống nhất, một số
bộ phận cán bộ, đảng viên, chơng chức suy thối đạo đức, lối sống và vi phạm đạo đức
công vụ.
Một số quy định pháp luật còn chưa thật sự đồng bộ, thống nhất, khả thi, chưa đáp
ứng được nhu cầu thực tiễn, nhiều cơ chế, chính sách kinh tế cịn chưa được sửa đổi,
chậm sửa đổi, bổ sung.
phương thức lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội trong thực tiễn nhiều nơi, nhiều
lĩnh vực chưa thật phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao; cịn có biểu hiện "tư duy nhiệm
kỳ", "lợi ích nhóm". Cơng tác triển khai và phối hợp giữa các ngành, các cấp trong nhiều
trường hợp còn chưa quyết liệt, thiếu đồng bộ, vẫn cịn tình trạng đùn đẩy, né tránh dẫn
đến việc thống nhất, đồng thuận trong giải quyết các vụ việc chưa cao.
3.4 Một số kiến nghị, giải pháp nhằm cải thiện chế độ kinh tế trong Hiến pháp năm
2013

3.4.1 Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để hoàn thiện cơ bản các yếu tố cấu
thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.
3.4.2 Bộ máy nhà nước cần được đổi mới để xử lý tốt hơn, hiệu quả hơn mối quan
hệ giữa Nhà nước – thị trường và doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3.4.3 Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để tạo
bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trong bối cảnh cuộc

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.


22
3.4.4 Đẩy mạnh xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển vùng và khu kinh
tế, hạn chế sự tập trung quá cao vào các thành phố lớn.
3.4.5 Đặc biệt là phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiêm, chống lãng phí,
“lợi ích nhóm”.

1.1.


23
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Có thể thấy rằng, chính sách kinh tế trong Hiến pháp năm 2013 đang được thi
hành và vận dụng rất tốt vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước
ta hiện nay. Với hiều đột phá trong nhiều lĩnh vực, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng; phát huy mọi tiềm năng của
các thành phần kinh tế như: Kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần
kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế được củng cố
và phát triển, trong nhiều ngành và lĩnh vực then chốt.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm sẽ khơng thể tranh khỏi khơng ít khuyết
điểm hạn chế nảy sinh trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay. Chính vì vậy,
nhà nước cần phải có những cải cách chính sách kinh tế lớn hơn để có sự đồng nhất, ý
nghĩa trước mắt cũng như lâu dài.


24
KẾT LUẬN
Đối với các nhà nước đang phát triển, và kể cả của các nước có nền kinh tế chuyển

đổi, vai trị của nhà nước có ý nghĩa quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển của kinh
tế. Không có một chế độ chính trị/chế độ nhà nước nào lại khơng có mục tiêu ổn định và
phát triển kinh tế. Càng ở những nước chậm phát triển thì mục tiêu phát triển kinh tế của
chế độ chính trị càng phải được đặt ra. Chế độ kinh tế không những chỉ là cơ sở có tính
quyết định đến chế độ chính trị, mà đối với nhà nước chậm phát triển còn là mục tiêu
phát triển cần phải đạt được của chế độ chính trị. Chính vì vậy, chế độ kinh tế và Hiến
pháp ln có một sự liên hệ với nhau dù là nhỏ nhất.

Mặc dù Hiến pháp năm 2013 không nêu cụ thể các thành phần kinh tế như Hiến
pháp năm 1992, cách thể hiện này phù hợp với tính chất, nội dung quy định của một
đạo luật gốc. Về tên gọi và vai trò của từng thành phần kinh tế sẽ được quy định tại
các đạo luật chuyên ngành và các chính sách cụ thể khác của nhà nước thì sẽ phù hợp
và chính xác hơn.
Đồng thời, việc thay đổi chỉ dành 7 điều và quy định chung cùng với các lĩnh
vực khác trong một chương: “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khóa học, cơng nghệ
và môi trường”. Việc không quy định một cách chi tiết chế độ kinh tế trong Hiến pháp
như hai bản hiến pháp trước đây là kết quả của việc học tập kinh nghiệm nước ngồi
trong việc quy định về chính sách kinh tế.
Tuy vậy, việc thay đổi này đã mang đến rất nhiều sự chuyển biến trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nước ta đang dần nâng
cao vị thế của bản thân không những trong khu vực ASEAN mà cịn trên thế giới.
Cơng lao lớn nhất chính là những chính sách, chiến lược kinh tế mà trong đó vai trị
quản lý của nhà nước đóng vai trị khơng nhỏ.
Thế nhưng, việc phân tách điều tiết về tên gọi, vai trò của từng thành phần kinh tế
sẽ được quy định tại từng đạo luật chun ngành cũng gây ra khơng ít mâu thuẫn, băn
khoăn, rỗi loạn như tranh chấp đất đai (giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập
thể, giữa cá nhân với các cơ quan quản lý nhà nước, giữa các cộng đồng, nhóm người với
nhau về giải tỏa, đền bù); tranh chấp hợp đồng kinh tế; phân chia tài sản, . . . .



25
Hơn nữa, việc thuyên chuyển trách nhiệm về cho các đạo luật chuyên ngành lại
không đáp ứng được sự cân đối trong các lĩnh vực, các văn bản, chính sách ban hành
trong từng chun ngành khơng ít lần xảy ra mâu thuẫn. Vấn đề này càng sơi nổi hơn khi
chính những người tham gia, dự thảo các điều luật, văn bản, chính sách lại khơng am
tường, am hiểu tồn bộ các lĩnh vực, mà họ chỉ tập trung chuyên về một mãng, lĩnh vực
trọng yếu của riêng mình, Chính những yếu tồ này đang dẫn đến sự mất cân đối trong
chính sách kinh tế, khơng đáp ứng được u cầu phát triển bền vững.
Chính vì vậy, nhà nước cần phải xây dựng, đưa ra những giải pháp nhằm khắc
phục những tình trạng này, cần sự liên kết giữa các lĩnh vực, đưa ra những văn bản có
tính chất hài hịa, bổ trợ lẫn nhau, tránh những trường hợp mâu thuẫn.


×