Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Thực trạng về trình độ tiếng Anh tổng quát của sinh viên năm nhất không chuyên ngữ trường ĐH Sư phạm Tp. HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.1 MB, 12 trang )

THỰC TRẠNG VỀ TRÌNH ĐỘ TIẾNG ANH
TỔNG QUÁT CỦA SINH VIÊN NĂM NHẤT KHÔNG
CHUYÊN NGỮ TRƢỜNG ĐH SƢ PHẠM TP.HCM
ThS. Nguyễn Thị Tuyết Phƣơng
ThS. Lý Nhựt Thiện
ThS. Hồ Thị Phƣợng

Nguyen Thi Tuyet Phuong has been working as a lecturer of English at Ho Chi Minh
University of Education for more than five years. She received an MA in Applied Linguistics
from The University of Melbourne in 2009. She is now a doctoral student in Applied
Linguistics and Technology at Iowa State University. Her research interest includes
Language Testing, Technology in Language Learning and Teaching, and Task-based
Language Learning.
Hồ Thị Phƣợng is currently working as a senior lecturer of English at Ho Chi Minh
University of Education. She received an MA in Comparative Linguistics from HCM Social
Sciences and Humanities. She is engaged in research on Language Testing and Comparative
Linguistics.
Ly Nhut Thien is now a lecturer of English at Ho Chi Minh University of Education. He
received MA in TESOL from The University of Canberra. He is engaged in doing research
on Language Teaching and Applied Linguistics.
Abstract
The annual undergraduate intake at Ho Chi Minh University of Education is over 3,000
students, nearly 2,000 of who enroll for English as a foreign language courses. With the
University‘s planning to improve its students‘ English proficiency level to meet the standards
set in the Project of ―Teaching and learning foreign languages in the national educational
system 2008-2020‖ (Project 2020) by the Ministry of Education and Training, and the hope
to gain more information on English proficiency levels of first-year nonmajors, the English
Unit researchers administered an English proficiency test in Semester 1, academic year 20122013. The test employed the listening and reading materials from the Prelimilary English Test
325 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”



(PET) which is equivalent to level B1 of the Common European Framework (CEFR).
Analysis shows that the number of students who met the English standard was very low.
Also, there is a difference in English proficiency between students from the natural sciences
departments and those from the social sciences departments, and between students in
teaching training courses and those not in teaching training courses. Implications are made
for the teaching and assessment of General English at Ho Chi Minh University of Education.
Keyword: General English, placement test, language proficiency test, Project 2020
Tóm tắt
Hàng năm, có hơn 3000 sinh viên (SV) năm nhất nhập học tại trường ĐH Sư phạm TP. HCM
(ĐHSP TP.HCM). Trong số đó, số SV khơng chun ngữ đăng kí học tiếng Anh chiếm gần
2000. Trong bối cảnh nhà trường đang có kế hoạch nâng cao chất lượng dạy-học tiếng Anh
đáp ứng chuẩn ngoại ngữ do Bộ GD-ĐT ban hành theo Đề án ―Dạy và học ngoại ngữ trong
hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020‖ (Đề án NNQG 2020), và để có thêm thơng
tin về trình độ tiếng Anh của SV năm nhất khơng chun ngữ, nhóm nghiên cứu Tổ tiếng
Anh đã tiến hành tổ chức kiểm tra chất lượng đầu học kì 1 năm học 2012-2013, sử dụng bài
nghe và đọc của bài thi PET (Prelimilary English Test) tương ứng bậc B1 của khung Châu
Âu CEFR. Kết quả phân tích cho thấy số SV đạt chuẩn chiếm tỉ lệ rất thấp, đồng thời, có sự
khác biệt về trình độ tiếng Anh giữa SV các khoa Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội và
giữa SV sư phạm và SV ngoài sư phạm. Bài viết cũng đưa ra những đề xuất trong việc đào
tạo và đánh giá tiếng Anh tổng quát tại trường ĐHSP TP. HCM.
Từ khóa: Tiếng Anh tổng quát, kiểm tra đầu vào, kiểm tra chất lượng, Đề án NNQG 2020
1. Giới thiệu
Hàng năm, có khoảng 2000 sinh viên (SV) năm nhất các khoa không chuyên ngữ chọn
học ngoại ngữ Anh tại trường ĐH Sư phạm TP. HCM (ĐHSP TP.HCM). Số lượng SV rất lớn
khiến cho nhiệm vụ giảng dạy và đánh giá của Tổ Ngoại ngữ gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh
đó, Đề án ―Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020‖
(Đề án NNQG 2020) (Bộ GD-ĐT, 2008) được triển khai trong những năm gần đây đã có
những ảnh hưởng đáng kể tới kế hoạch giảng dạy ngoại ngữ tại các trường ĐH-CĐ. Trường
ĐHSP TP.HCM, một trong những trường ĐH có vai trò trọng điểm trong việc thực hiện Đề
án NNQG 2020, đang có kế hoạch nâng cao chất lượng dạy-học tiếng Anh cho SV trong

trường nhằm đáp ứng chuẩn mà Bộ GD-ĐT yêu cầu. Do đó, việc khảo sát chất lượng tiếng

326 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”


Anh đối với SV năm nhất khối không chuyên ngữ là vô cùng cần thiết nhằm thu thập những
thông tin có ích phục vụ hiệu quả cho kế hoạch đào tạo tiếng Anh tại trường.
Ngoài ra, trong những năm qua, việc đánh giá trình độ tiếng Anh trong các học phần
chủ yếu dựa trên những giả định chưa có cơ sở khoa học. Ví dụ: giả định cho rằng đề thi
dành cho SV cử nhân ngoài SP (CNNSP) phải dễ hơn đề thi cho SV sư phạm (SP), hoặc giả
định SV các ngành Khoa học tự nhiên (KHTN) học tốt hơn SV các ngành Khoa học xã hội
(KHXH) vẫn chưa được kiểm chứng. Do đó, tìm được bằng chứng khoa học cho các giả định
trên sẽ có tác động tích cực đến việc giảng dạy và kiểm tra đánh giá việc học tiếng Anh tại
trường.
Nghiên cứu này khảo sát chất lượng tiếng Anh của SV năm nhất các khoa không
chuyên, đồng thời tìm ra sự khác biệt về năng lực ngoại ngữ của SV các ngành KHTN (khoa
Toán, Tin, Lý, Hóa, Sinh) và KHXH (các khoa cịn lại) và giữa SV SP và SV CNNSP (ngành
Cử nhân Tin, Cử nhân Lý, Cử nhân Hóa, CN Văn, Việt nam học, Quốc tế học).
2. Cơ sở nghiên cứu
2.1. Tình hình dạy – học tiếng Anh tại trƣờng ĐHSP TP. HCM
Tổ Ngoại ngữ là đơn vị trực thuộc Trường, đảm nhận nhiệm vụ đào tạo ngoại ngữ cho
SV các khoa không chuyên tại trường. Trong đó, nhiệm vụ giảng dạy tiếng Anh tổng quát và
Anh văn chuyên ngành được coi là nhiệm vụ trọng tâm. SV các ngành khơng chun ngữ
phải hồn thành 3 học phần bắt buộc môn tiếng Anh tổng quát (TATQ), học phần I gồm 4 tín
chỉ, học phần II và III mỗi học phần 3 tín chỉ. Sau khi đã hồn tất chương trình AVTQ, SV
được lựa chọn đăng kí học chương trình Anh văn chun ngành (AVCN) gồm 2 học phần,
mỗi học phần 3 tín chỉ. Mỗi lớp học TATQ có 30-50 SV. Do sự hạn chế về cơ sở vật chất nên
chỉ có một số lớp học được trang bị máy tính và máy chiếu.
Về mặt đội ngũ đào tạo,Tổ Ngoại ngữ hiện tại có 21 giảng viên (GV) tiếng Anh, trong
đó có 2 tiến sĩ, 2 nghiên cứu sinh tại nước ngoài và 10 thạc sĩ. Các GV có chun mơn tốt,

giảng dạy nhiệt tình. Sự thay đổi giáo trình TATQ trong 2 năm gần đây đã tạo thêm nhiều
hứng thú đối với người học và người dạy.
Số lượng SV học TATQ do Tổ Ngoại ngữ phụ trách hàng năm, bao gồm SV năm 1 và
2, là rất lớn. Tuy nhiên, SV theo học tại Trường chủ yếu đến từ các tỉnh thành hoặc vùng sâu,
vùng xa. Qua khảo sát những lớp của các tác giả tham gia nghiên cứu thì khoảng 90% SV đến
từ các tỉnh. Đa số những SV này không được học chương trình AV hồn chỉnh ở trung học

327 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”


phổ thông (THPT) nên kiến thức cơ bản không đủ để bắt đầu chương trình AV trung cấp ở
bậc ĐH. Các trường hợp này tập trung nhiều ở các khoa GD Thể chất, An Ninh – Quốc
phịng, GD Chính trị, Lịch sử v.v… Ngoài ra, sĩ số các lớp thường là đông hơn nhiều so với
yêu cầu của một lớp học ngoại ngữ; hiện tượng trong một lớp học có nhiều trình độ khác
nhau cũng rất phổ biến.
Như vậy, bên cạnh những thuận lợi về đội ngũ đào tạo, Tổ Ngoại ngữ cũng gặp nhiều
khó khăn trong việc đào tạo, chủ yếu từ trình độ tiếng Anh thấp, khơng đồng đều của SV và
sự hạn chế về cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy.
2.2. Các lợi ích của việc kiểm tra năng lực ngôn ngữ (language proficiency tests)
Có những dạng bài kiểm tra ngơn ngữ cơ bản theo các mục đích khác nhau như: bài
kiểm tra năng lực (proficiency tests), bài kiểm tra chẩn đoán (diagnostic tests), bài kiểm tra
xếp lớp (placement tests), bài kiểm tra chất lượng giảng dạy (achievement tests), và bài kiểm
tra năng khiếu ngôn ngữ (language applitude tests) (Aslam, 1992; Hughes, 2003; Kunnan &
Jang, 2011). Trong đó, bài kiểm tra năng lực ngoại ngữ nhằm mục đích kiểm tra năng lực
ngơn ngữ tổng quát bất kể các dạng đào tạo trước đó của người học (Aslam, 1992; Hughes,
2003; Kunnan & Jang, 2011).
Như vậy, kết quả kiểm tra năng lực tổng quát này mang đến những thơng tin bổ ích cho
người học, người dạy, và cả những người làm công tác quản lý. Người học sẽ biết được thông
tin về năng lực ngôn ngữ hiện tại của họ, và qua đó, có thể đặt mục tiêu và chiến lược học tập
trong tương lai. Người dạy, thơng qua việc nắm được thơng tin trình độ ngơn ngữ của người

học, có thể đưa ra những nội dung và áp dụng phương pháp dạy học thích hợp. Tương tự,
những nhà quản lý cũng có thể đặt mục tiêu cho việc đào tạo và có những chính sách phát
triển ngoại ngữ một cách hợp lý.
Để đáp ứng yêu cầu của các cấp lãnh đạo về việc nâng cao chất lượng đào tạo ngoại
ngữ, chúng ta cần phải có những động thái để giải quyết sự khan hiếm cơ sở khoa học về
năng lực ngoại ngữ của SV và các thói quen đánh giá SV, những khó khăn của việc dạy-học
tiếng Anh tại Tổ Ngoại ngữ, và đồng thời phát huy những lợi ích của việc kiểm tra năng lực
ngôn ngữ, nhằm nghiên cứu về năng lực ngoại ngữ của SV không chuyên ngữ tại trường
ĐHSP TP.HCM dựa trên cơ sở khoa học. Ngồi ra, nghiên cứu về trình độ ngôn ngữ tổng
quát của SV năm nhất không chuyên sẽ mang đến những thơng tin bổ ích cho SV, giảng viên
tiếng Anh và những người hoạch định chính sách tại Trường.

328 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”


3. Phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Câu hỏi nghiên cứu
1. SV năm nhất không chuyên ngữ ĐHSP TP.HCM thi kiểm tra đầu vào đạt kết quả như thế
nào?
2. Có sự khác biệt về điểm số giữa SV các ngành KHTN (khoa Tốn, Tin, Lý, Hóa, Sinh) và
KHXH (các khoa cịn lại) hay khơng?
3. Có sự khác biệt về điểm số giữa SV SP và SV CNNSP (ngành Cử nhân Tin, Cử nhân Lý,
Cử nhân Hóa, CN Văn, Việt nam học, Quốc tế học) hay khơng?
3.2. Thu thập và phân tích dữ liệu
3.2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Dữ liệu được thu thập từ 1737 SV năm nhất không chuyên ngữ tại trường ĐHSP
TP.HCM. Đa số các SV nằm trong khoảng 18-20 tuổi, đang theo học tại các khoa không
chuyên ngữ của trường. Trong số này, có 1291 SV thuộc hệ SP và 446 SV hệ CNNSP.
3.2.2. Công cụ nghiên cứu
Bài thi PET (Preliminary English Test) Nghe và Đọc được sử dụng để kiểm tra chất

lượng tiếng Anh của SV năm nhất. Bài PET thuộc bậc B1 theo thang Khung Châu Âu, là
chuẩn được Bộ GDĐT quy định HS tốt nghiệp THPT phải đạt, theo Đề án NNQG 2020 (Bộ
GD-ĐT, 2008). Mặc dù trình độ của SV nên được đánh giá dựa trên bốn kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết, nhưng do số lượng SV quá nhiều cùng với sự hạn chế về thời gian, cơ sở vật chất
và kinh phí, nên chỉ bài Nghe và Đọc được sử dụng.
3.2.3. Thu thập dữ liệu
Vào tuần thứ ba của học kì đầu tiên tại Trường, các SV năm nhất khơng chun ngữ
làm bài kiểm tra trình độ tiếng Anh. Các bài thi được GV chấm dựa trên đáp án có sẵn và gửi
về văn phịng Tổ Ngoại ngữ.
3.2.4. Phân tích dữ liệu
Điểm được tính và quy ra theo thang 100. Sinh viên được coi là đạt chuẩn khi có điểm
trung bình 2 mơn bằng hoặc lớn 50. Kết quả này được phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0.
T-test cho các mẫu độc lập (t-test for independent samples) được thực hiện để so sánh sự
khác biệt về điểm số của SV 2 khối KHTN và KHXH nhầm trả lời câu hỏi nghiên cứu 2. Để

329 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”


trả lời câu hỏi nghiên cứu 3, t-test cho các mẫu độc lập được thực hiện để tìm ra sự khác biệt
về điểm số của 2 nhóm SV SP và CNNSP.
4. Kết quả
Câu hỏi nghiên cứu 1: SV năm nhất không chuyên ngữ ĐHSP TP.HCM thi kiểm tra
đầu đạt kết quả vào nhƣ thế nào?
Thông tin tổng quát về điểm thi 2 mơn Nghe – Nói và điểm trung bình 2 mơn được
trình bày ở bảng 1 bên dưới. Dựa vào kết quả điểm thi, có 314 Sv đạt chuẩn B1, chiếm 18%
số SV dự thi.
Điểm thấp

Điểm cao


Điểm trung

Độ lệch

nhất

nhất

bình

chuẩn

Mơn nghe

0

100

33.37

13.99

Mơn đọc

0

97

45.55


18.31

Trung bình 2 mơn

3

95

39.45

13.85

Bảng 1. Thơng tin tổng qt về điểm thi của SV năm nhất không chuyên ngữ
Kết quả phân tích cũng được sắp xếp theo từng khoa theo bảng 2 dưới đây. Như vậy,
SV khoa GDTH làm bài tốt nhất, với điểm trung bình tồn bài là 43.53 điểm. Điểm thi của
SV khoa GDTC là thấp nhất, chỉ với 27.06 điểm.
Khoa

Số SV

TB nghe

TB đọc

TB tồn bài

GDTH

163


34.48

52.64

43.53

Tin

168

35.69

50.82

43.27

Tốn

112

35.61

50.67

43.12

TL-GD

92


34.58

50.54

42.58



194

33.67

48.70

41.18

Sinh

110

34.29

47.70

40.97

Sử

195


35.94

45.12

40.53

Hóa

132

32.24

47.31

39.72

GDQP

30

35.47

37.40

36.33

330 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”


Văn


170

29.74

42.80

36.29

GDMN

143

30.66

38.80

34.74

Địa

64

31.31

35.89

33.66

GDCT


71

32.34

34.00

33.14

GDĐB

44

28.64

36.48

32.52

GDTC

31

29.81

24.48

27.06

Bảng 2. Điểm thi từng khoa theo thứ tự từ cao tới thấp

Câu hỏi nghiên cứu 2: Có sự khác biệt về điểm số giữa SV các ngành KHTN (khoa
Toán, Tin, Lý, Hóa, Sinh) và KHXH (các khoa còn lại) hay không?
T-test cho các mẫu độc lập (t-test for independent samples) được thực hiện để so sánh
sự khác biệt về điểm số của SV 2 khối KHTN và KHXH. Kết quả cho thấy SV khối KHTN
làm bài tốt hơn SV khối KHXH và có sự khác biệt về điểm số giữa 2 khối này, theo bảng 3
bên dưới.
Số SV

Điểm TB

Độ lệch chuẩn

Khối KHTN

716

34.28

14.153

Khối KHXH

1021

32.73

13.856

Khối KHTN


716

49.10

17.854

Khối KHXH

1021

43.06

18.228

716

41.67

13.831

T-test

p

2.27

0.02

6.85


<0.001

5.65

<0.001

Mơn nghe

Mơn đọc

Tồn bài
Khối KHTN
Khối KHXH

1021

37.89

13.656

Bảng 3. T-test cho các mẫu độc lập cho khối KHTN và KHXH
Chỉ số Cohen‘s d và kích thước tác động (effect size) được tính để kiểm tra sự khác biệt
này có lớn hay khơng. Kết quả cho thấy sự khác biệt về điểm nghe và điểm toàn bài giữa 2
nhóm sinh viên KHTN và KHXH ở mức độ vừa , trong khi sự khác biệt về điểm đọc là lớn.
331 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”


Bảng 4 bên dưới trình bày chỉ số Cohen‘s d và effect size của 2 khối KHTN và KHXH theo
từng mơn và tồn bài.
Cohen’s d


Effect size

Mức độ khác biệt

Nghe

0.80

0.37

vừa

Nói

0.94

0.42

lớn

Tồn bài

0.97

0.43

lớn

Bảng 4. Chỉ số Cohen‘s d và effect size của khối KHTN và KHXH theo từng mơn và tồn bài

Câu hỏi nghiên cứu 3: Có sự khác biệt về điểm số giữa SV SP và SV CNNSP (ngành Cử
nhân Tin, Cử nhân Lý, Cử nhân Hóa, CN Văn, Việt nam học, Quốc tế học) hay không?
T-test cho các mẫu độc lập được thực hiện để tìm ra sự khác biệt về điểm số của 2
nhóm SV SP và CNNSP. Kết quả cho 2 nhóm khơng khác nhau về kĩ năng nghe trong khi có
sự khác biệt về điểm khi mơn đọc và điểm toàn phần. Tuy nhiên, điểm bài đọc và toàn bài
của SV khối ngoài SP tốt hơn điểm của SV khối SP. Kết quả t-test cho các mẫu độc lập được
trình bày ở bảng 5 bên dưới.
Số SV

Điểm TB

Độ lệch chuẩn

Khối SP

1250

33.18

12.744

Khối ngồi SP

487

33.86

16.792

Khối SP


1250

44.78

17.936

Khối ngồi SP

487

47.52

19.123

1250

38.97

13.007

T-test

p

-1.28

0.2

-3.45


0.001

-3.02

0.003

Mơn nghe

Mơn đọc

Tồn bài
Khối SP
Khối ngoài SP

487

40.68

15.757

Bảng 5. T-test cho các mẫu độc lập cho khối SP và ngoài SP
Chỉ số Cohen‘s d và kích thước tác động (effect size) được tính để kiểm tra mức độ khác
biệt về điểm đọc và điểm tồn bài giữa 2 nhóm sinh viên SP và ngồi SP. Kết quả cho thấy sự

332 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”


khác biệt về điểm đọc và toàn bài giữa hai nhóm là nhỏ (Cohen‘s d = 0.18; effect size = 0.09
với môn đọc và Cohen‘s d = 0.15; effect size = 0.07 đối với điểm toàn bài).

5. Thảo luận và kiến nghị
5.1. Thảo luận
Câu hỏi nghiên cứu 1: SV năm nhất không chuyên ngữ ĐHSP TP.HCM thi kiểm tra đầu
vào đạt kết quả như thế nào?
Kết quả thống kê điểm thi của SV cho thấy chỉ có 18% SV đạt chuẩn B1. Như vậy, yêu
cầu của Dự án 2020 do Bộ GD-ĐT tiến hành đối với SV tốt nghiệp THPT cho tới thời điểm
năm 2012 vẫn chưa được thực hiện.
Một lý do giải thích vì sao SV chưa làm bài tốt có thể là có một phần SV đến từ vùng
sâu, vùng xa nơi mà việc dạy tiếng Anh còn chưa được thực hiện một cách đúng đắn. Kết quả
phân thích cũng cho thấy điểm nghe đặc biệt thấp và điểm đọc của SV cao hơn so với điểm
môn nghe phần nào chứng minh rằng việc dạy tiếng Anh tại các trường THPT hiện nay chủ
yếu còn thiên về kĩ năng đọc hiểu, chưa chú trọng vào việc dạy kĩ năng nghe.
Đúng với dự tính từ trước tới nay của giảng viên Tổ Ngoại ngữ, kết quả phân tích cũng
cho thấy SV các ngành GD Tiểu học, Tin, và Toán thuộc nhóm điểm cao với điểm tồn bài
trên 43 điểm. Ngược lại, SV các ngành GD Mầm non, Địa, GD Chính trị, GD Đặc biệt, và
GD Thể chất có điểm thấp (dưới 35). Đối với khoa GD Tiểu học, SV có thể thi khối D1 (Văn,
Tốn, Anh) vào trường nên điểm thi của các SV này nằm trong nhóm cao nhất. Hiện tượng
SV khoa Tốn, Tin có điểm cao và SV khoa GD Mầm non, Địa, GD Chính trị, GD Đặc biệt,
và GD Thể chất nằm trong nhóm SV có điểm thấp cho thấy có sự khác biệt trong năng lực và
động lực học ngoại ngữ giữa SV hai nhóm. Đồng thời, như đã đề cập ở trên, điều kiện học
ngoại ngữ của SV các khoa cũng có thể là một nhân tố giải thích sự khác biệt về điểm số này.
Câu hỏi nghiên cứu 2: Có sự khác biệt về điểm số giữa SV các ngành KHTN (khoa Toán,
Tin, Lý, Hóa, Sinh) và KHXH (các khoa còn lại) hay khơng?
Kết quả phân tích cho thấy có sự khác biệt về điểm số giữa SV hai nhóm KHTN và
KHXH. Sự khác biệt này có thể vì đa phần SV khối KHTN có học lực tốt hơn, do đó, khả
năng tiếp thu trong việc học ngoại ngữ cũng tốt hơn SV khối KHXH. Ngoài ra, trong khi
phần lớn SV thi vào ngành Tốn, Tin, Lý, Hóa, Sinh là SV đến từ những vùng có điều kiện
học ngoại ngữ tốt hơn, SV các ngành học cịn lại chủ yếu đến từ nơng thơn, vùng xa, có điều
kiện học tiếng Anh chưa tốt.
333 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”



Sự khác biệt tương đối xa về điểm nghe giữa hai nhóm SV một lần nữa khẳng định việc
dạy và học kĩ năng nghe tại các trường phổ thơng cịn chưa được chú trọng.
Câu hỏi nghiên cứu 3: Có sự khác biệt về điểm số giữa SV SP và SV CNNSP (ngành Cử
nhân Tin, Cử nhân Lý, Cử nhân Hóa, CN Văn, Việt nam học, Quốc tế học) hay không?
Nếu như khơng có sự khác biệt về điểm nghe giữa SV hai nhóm này, thì sự khác biệt
về điểm đọc và điểm tồn bài của hai nhóm được thể hiện rất rõ. Kết quả phân tích cho thấy
SV hệ CNNSP làm bài đọc khá tốt hơn so với SV nhóm cịn lại. Quả thực, vì đối với nhóm
SP, ngồi SV các ngành điểm cao như SP Tốn, Lý, Hóa, Tin, cịn bao gồm SV các khoa có
điểm thi kém hơn như khoa Địa, GD Mầm non, GD Chính trị, GD Đặc biệt và GD Thể chất.
Cho nên, nhóm SV CNNSP (phần lớn bao gồm SV ngành CN Hóa, CN Lý, CN Tin, Việt
nam học, Quốc tế học) làm bài thi tốt hơn cũng là điều dễ hiểu.
5.2. Kiến nghị
5.2.1. Đối với việc đào tạo tiếng Anh tại trƣờng ĐHSP TP.HCM
Việc triển khai thực hiện Đề án NNQG 2020 cần phải có lộ trình, có hệ thống và có
tính kế thừa. Việc giảng dạy tiếng Anh ở các cấp học phổ thông phải đảm bảo được chuẩn
đầu ra A2 theo yêu cầu của Đề án thì ở bậc ĐH, với lượng thời gian được phân bổ theo
chương trình đào tạo thì mới có thể đảm bảo được chuẩn đầu ra là B1.
Về chương trình đào tạo, do đặc thù của đối tượng SV đầu vào của trường đa số là
những học sinh ở các tỉnh xa, và kết quả nghiên cứu cũng cho thấy trình độ AV của SV cịn
rất hạn chế, vì vậy, để đảm bảo cho sinh viên khơng chun ngữ sau khi tốt nghiệp có trình
độ ngoại ngữ bậc 3 (tương đương B1- Khung tham chiếu Châu Âu), Tổ Ngoại ngữ đề xuất 2
chƣơng trình tiếng Anh tăng cƣờng để Ban Giám hiệu, Ban Quản lý ĐANN 2020 và Phịng
Đào tạo xem xét.
Chương trình 1: Khơng u cầu kiểm tra đầu vào để xếp lớp. SV năm 1 sẽ theo học
tiếng Anh với điều kiện như hiện nay, tức là những SV có học tiếng Anh ở THPT ít nhất là 3
năm. Chương trình bắt buộc gồm 6 học phần (HP), mỗi HP 4 tín chỉ, tổng cộng 24 tín chỉ.
Giáo trình giảng dạy cho HP1 và HP2 là American English Files Multipack 2A & 2B, HP3 và
HP4 là American English Files Multipack 3A & B, trong khi trong HP5 và HP6, SV sẽ học

AVCN. Hai HP AVCN nhằm mục đích cung cấp cho SV những thuật ngữ, cấu trúc ngôn ngữ
trong lĩnh vực chuyên môn, tạo nền tảng ngôn ngữ để SV theo học chuyên môn bằng tiếng
Anh do khoa chủ quản giảng dạy, theo chủ trương của Ban quản lý ĐANNQG 2020.

334 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”


Chương trình 2: Hiệp hội khảo thí ngơn ngữ Châu Âu (The Association of Language
Testers in Europe) ước tính trung bình cần 150 – 200 giờ để cải thiện trình độ ngôn ngữ từ
bậc A2 lên B1 (Pearson, 2013), dù lượng thời gian cần thiết này phụ thuộc nhiều vào yếu tố
cá nhân người học. Chương trình này gồm 4 học phần bắt buộc, mỗi học phần 4 tín chỉ, tổng
cộng 16 tín chỉ, tương đương với 200 giờ học. Tuy nhiên, sinh viên nhập học năm 1 phải trải
qua bài kiểm tra đầu vào bắt buộc (như đề nghị trong nghiên cứu trước đó của Vũ Hoa Ngân,
2010), và chỉ những sinh viên đạt trình độ A2 (Khung tham chiếu Châu Âu) mới được đăng
ký học. Giáo trình sử dụng cho HP1 và HP2 là American English Files Multipack 3A & 3B
trong khi HP3 và HP4 sử dụng giáo trình AVCN. Tổ Ngoại ngữ cũng đề xuất mở những học
phần tự chọn dành cho những sinh viên chưa đạt chuẩn A2. Sau khi theo học và đạt được
chuẩn A2, những SV này sẽ được đăng ký học 4 học phần bắt buộc nêu trên.
Ngồi ra, trong q trình đào tạo, GV phải chú ý tới đặc thù của SV có các trí thơng
minh khác nhau, nhằm tạo nên sự hứng thú học tập trong SV và để việc giảng dạy có hiệu
quả nhất. (Christison, 1996; Ehrman et al, 2003). Đồng thời, việc dạy đều các kĩ năng cũng
nên được chú trọng.
5.2.2. Đối với việc đánh giá chất lượng sinh viên
Việc kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm SV CNNSP có điểm thi tốt hơn nhóm SV SP
đã khẳng định quan niệm lâu này rằng đề thi cho SV khối SP nên khó hơn đề thi cho SV khối
CNNSP là khơng có cơ sở và khơng chính xác. Như vậy, cùng là SV của trường ĐHSP, cùng
học một chương trình như nhau và cùng phải đạt được chuẩn đầu ra B1 như nhau nên SV
phải được đánh giá như nhau, sử dụng đề có độ khó như nhau cho SV các hệ SP và CNNSP,
SV khối KHTN và khối KHXH.
Ngoài ra, nhằm rèn luyện cho SV thi chuẩn B1, lý tưởng nhất là SV nên được kiểm tra

đánh giá toàn diện cả 4 kỹ năng. Tuy nhiên, việc đánh giá như thế này sẽ mất rất nhiều thời
gian, kinh phí, và công sức của GV nên cần nhiều sự đầu tư của Nhà trường và Dự án.
6. Kết luận
Việc khảo sát chất lượng tiếng Anh đối với SV năm nhất không chuyên ngữ là điều vô
cùng cần thiết. Kết quả khảo sát mang đến những thơng tin bổ ích cho những người học,
người dạy, lẫn những nhà quản lý. Dựa vào kết quả khảo sát, hội đồng khoa học và đào tạo
của Tổ Ngoại ngữ đã và đang đề xuất với nhà trường những biện pháp hiệu quả nhằm nâng
cao trình độ tiếng Anh của SV khơng chun ngữ ở trường ĐHSP TP.HCM để đáp ứng được

335 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”


yêu cầu của Đề án NNQG 2020 và để xứng đáng là một trung tâm ngoại ngữ chất lượng của
khu vực phía Nam như sự tin tưởng của Bộ GD-ĐT.
Tài liệu tham khảo
Aslam, R. (1992). Aspect of language teaching. New Dehli: Swatantra Bharat Press.
Bộ GD-ĐT (2008). Quyế t đi ̣nh số 1400/QĐ-TTg ngày 30 tháng 9 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Đề án ―Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục
quốc dân giai đoạn 2008 - 2020‖.
Chirstison, M. A. (1996). Teaching and learning languages through multiple intelligences.
TESOL Journal, 6(1), pp.10-14.
Ehrman, M. E., Leaver, B. L., & Oxford, R. L. (2003). A brief overview of individual
differences in second language learning. System, 31(3), pp. 313-330.
Harmer, J. (2001). The practice of English language teaching. Pearson-Longman.
Hughes, A. (2003). Testing for language teachers. Cambridge University Press.
Kunnan, A. & Jang, E. (2011). Diagnostic feedback in language assessment. In Long, M. H.
& Doughty, C. J. (eds.), The handbook of language teaching (pp.610-627). New Jersey:
Wiley-Blackwell.
Pearson (2013). Teacher‘s guide to the Common European Framework. Retrieved from
www.pearsonlongman.com/ae/cef/cefguide.pdf.

Vũ Hoa Ngân (2010). Tiếng Anh Tổng quát cho sinh viên không chuyên ngữ: Kỳ thi kiểm tra
chất lượng đầu năm. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tổ Ngoại ngữ năm 2009 –2010.

336 | T h e 2 0 1 3 c o n f e r e n c e “ I n n o v a t i o n i n t e a c h i n g a n d l e a r n i n g E S P ”



×