Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

(SKKN 2022) một số giải pháp dạy phép tu từ so sánh trong phân môn luyện từ và câu ở lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.89 KB, 24 trang )

MỤC LỤC

STT
I
1
2
3
4
II
1
2
3
4
III
1
2

NỘI DUNG
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN,KIẾN NGHỊ
Kết luận


Kiến nghị

TRANG
1
1
1
1
2
3
3
4
5 – 18
19
20
20
20


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các bộ phận cấu thành của môn Tiếng Việt trong trường tiểu học bao
gồm các phân mơn: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập Làm văn.
Trong đó, phân mơn Luyện từ và câu là phân mơn có tính chất khởi đầu của các
phân môn khác. Qua tiết Luyện từ và câu, học sinh có khả năng diễn đạt lời nói
rõ ràng, cụ thể, sinh động mọi sắc thái biểu cảm. Luyện từ và câu có nhiệm vụ
hình thành và phát triển cho học sinh năng lực sử dụng từ và câu trong giao tiếp
và học tập, là một loại hình nghệ thuật thuật lấy ngơn từ làm phương tiện thể
hiện. Có khả năng tác động đến đời sống tâm hồn của con người. Trong đó biện
pháp tu từ so sánh góp một phần khơng nhỏ làm nên điều này. So sánh tu từ còn
là phương thức bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị nhờ những

hình ảnh bóng bẩy, ước lệ, dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm diễn tả những
ngụ ý nghệ thuật. So sánh giúp các em hiểu và cảm nhận được những bài thơ,
bài văn hay, từ đó góp phần mở mang tri thức làm phong phú về tâm hồn, tạo
hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức yêu quý Tiếng Việt, giữ gìn sự trong
sáng của Tiếng Việt cho học sinh. Do khả năng tư duy của học sinh còn dừng ở
mức độ tư duy đơn giản, trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn
hạn chế. Phần lớn học sinh chỉ mới biết một cách cụ thể nghĩa của từ nên khi
tiếp thu về nghệ thuật so sánh tu từ rất khó khăn. Vì vậy địi hỏi người giáo viên
cần hướng dẫn một cách tỉ mỉ, thực tế.
Qua thực tế ở trường tôi dạy và trao đổi với các bạn bè đồng nghiệp, tơi
thấy các đồng chí giáo viên đều hiểu rõ tầm quan trọng của phân môn Luyện từ
và câu cũng như cái hay, cái mới của phân môn này. Do có những nét mới trong
phân mơn này nên khi dạy về biện pháp tu từ so sánh, nhiều giáo viên đã biến
giờ học Luyện từ và câu thành một giờ “giảng văn” nhằm lột tả cái hay, cái đẹp
trong mỗi hình ảnh so sánh, dẫn đến học sinh khơng nhận biết được cốt lõi của
biện pháp tu từ so sánh. Vậy làm thế nào? và bằng cách nào để khơi gợi ở học
sinh hứng thú, say mê học tập môn Luyện từ và câu? Đó là điều mà tơi ln băn
khoăn trăn trở, nghiên cứu và từ thực tế giảng dạy tôi đã rút ra “Một số giải
pháp dạy phép tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3”
2. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó
học sinh biết phân biệt, biết cách so sánh tu từ. Giúp học sinh tiếp cận kịp thời
với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có được phương pháp rèn luyện học
sinh kỹ năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Từ đó vận dụng linh hoạt vào việc
rèn kỹ năng làm các bài tập Luyện từ và câu một cách hiệu quả nhất.
- Giúp học sinh lớp 3 học tốt hơn nữa phân môn Luyện từ và câu trong môn
Tiếng Việt. Học sinh có hứng thú học tập phân mơn Luyện từ và câu, từ đó giúp
các em học tốt các phân mơn khác như phân môn Tập làm văn, kể chuyện,… và
biết áp dụng vào thực tế cuộc sống.
3. Đối tượng nghiên cứu

- Biện pháp so sánh trong phân môn Luyện từ và câu.
1


- Tôi chọn học sinh lớp 3B do tôi chủ nhiệm năm học 2021 - 2022 làm đối
tượng nghiên cứu, sĩ số học sinh là 29 em.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tơi mạnh dạn nghiên cứu,
học hỏi, tìm tịi, áp dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu)
- Phương pháp điều tra giáo dục.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm (thông qua các chuyên đề ở tổ
khối, dự giờ rút kinh nghiệm của đồng nghiệp, rút kinh nghiệm qua thực tế
giảng dạy của mình, khảo sát đối tượng học sinh.)
- Phương pháp quan sát, đàm thoại, trò chuyện với giáo viên và học sinh

2


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Luyện từ và câu là một trong những phân mơn có vị trí quan trọng của
mơn Tiếng Việt. Phân mơn này địi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức
tổng hợp từ nhiều phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Để làm được các bài
tập không những học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe - đọc - nói - viết
mà cịn phải vận dụng các kĩ năng về Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn. Dạy tốt
phân môn Luyện từ và câu là tạo cho học sinh có nền tảng vững chắc để học tốt
môn Tiếng Việt và tất cả các phân môn khác.
Luyện từ và câu là phân môn thực hành, nhiệm vụ quan trọng nhất là

hình thành năng lực cho học sinh, đặc biệt là biện pháp tu từ so sánh, hình thành
ở các em phương pháp và thói quen sử dụng biện pháp so sánh trong việc viết
câu, văn bản có hình ảnh so sánh để câu văn sinh động, hấp dẫn và giàu hình
ảnh.
Đối với học sinh lớp 3, so sánh là mảng kiến thức mới song cũng phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học: giàu trí tưởng tượng, giàu cảm
xúc, cách suy nghĩ hồn nhiên, trong sáng…Biện pháp so sánh có khả năng khắc
họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh
động, mặt khác so sánh cịn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể sinh
động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. So sánh tu từ còn là phương thức bộc
lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Như vậy so sánh trong văn học
mang chức năng nhận thức và biểu cảm. Học tốt biện pháp so sánh sẽ giúp các
em hiểu và cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong những câu văn, những bài văn,
bài thơ. Qua đó góp phần mở mang tri thức, làm phong phú tâm hồn để giúp các
em viết được những câu văn hay, gợi tả, gợi cảm và những bài văn giàu cảm
xúc.
Khơng chỉ có vậy, nó cịn giúp cho các em học tốt thể loại văn miêu tả ở
lớp 4 và lớp 5, thể loại văn nghệ thuật sử dụng lời văn có hình ảnh và cảm xúc
làm cho người nghe, người đọc hình dung rõ nét, cụ thể, sinh động về các sự vật
hiện tượng,… Hơn thế nữa, biện pháp so sánh còn giữ vai trò quan trọng trong
việc diễn đạt tư tưởng, tình cảm thích hợp với việc biểu đạt các đặc điểm, thuộc
tính riêng vốn có của các sự vật, hiện tượng… tạo nên những bức tranh sinh
động với gam màu ấn tượng bằng ngơn từ.
Chính vì vậy, dạy so sánh được rất nhiều giáo viên quan tâm, nhất là giáo
viên dạy lớp 3. Vấn đề được đặt ra là dạy như thế nào cho hợp lý nhất, học sinh
nắm bài tốt nhất để từ đó các em biết cách vận dụng vào những bài văn một cách
chính xác và đạt hiệu quả cao.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Để nắm rõ nguyên nhân và tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất cho
việc dạy và học biện pháp tu từ so sánh, tơi đã tìm hiểu kĩ thực trạng việc dạy và

học biện pháp này ở giáo viên và học sinh. Nhìn chung, nhiều giáo viên đã nắm
được mục đích của việc dạy phép tu từ so sánh, biết sử dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
và giúp các em tiếp cận với phép so sánh một cách dễ dàng hơn. Về phía học
3


sinh, đa phần các em có khả năng nhận biết các kiểu câu đã học ở lớp 2, dùng từ,
đặt câu, biết được những hình ảnh so sánh dựa vào tranh ảnh hoặc câu hỏi gợi ý .
Tuy nhiên, giáo viên và học sinh vẫn cịn gặp một số khó khăn và hạn chế khi
dạy và học phép tu từ so sánh như sau:
2.1. Về sách giáo khoa
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 hiện nay nói chung và phân mơn Luyện
từ và câu nói riêng cịn tồn tại một số điểm chưa hợp lý: Mặc dù SGK đã chú
trọng phương pháp thực hành nhưng những bài tập sáng tạo vẫn cịn ít, đơn điệu,
kiến thức dạy học sinh cịn mang tính trừu tượng, thiếu hình ảnh minh hoạ nên
học sinh cịn gặp nhiều khó khăn trong q trình lĩnh hội các kiến thức mới.
2.2. Về phía giáo viên
Giáo viên cịn gặp khó khăn như cơ sở vật chất, phương tiện dạy học và
tài liệu tham khảo cịn ít. Một số bộ phận nhỏ giáo viên vẫn chưa chú trọng quan
tâm đến việc lồng ghép trong quá trình dạy học giữa các phân môn của môn
Tiếng Việt với nhau để khơi dậy sự hứng thú học tập và sự tò mị của phân mơn
này với phân mơn khác trong mơn Tiếng Việt.
Qua thực tế giảng dạy và trao đổi với bạn bè đồng nghiệp cho thấy:
- Khi dạy về biện pháp tu từ so sánh, giáo viên còn lúng túng trong việc
nắm vững mức độ nội dung của từng bài cụ thể dẫn đến việc dạy quá cao hoặc
quá thấp so với chương trình.
- Giáo viên mới chỉ chú tâm vào việc dạy cho học sinh nhận biết phép tu
từ so sánh mà chưa quan tâm nhiều tới việc dạy học sinh cách cảm nhận và vận
dụng các kiến thức về so sánh vào việc nói và viết.

- Phần lớn giáo viên chỉ tổ chức cho học sinh luyện tập những bài tập
trong sách giáo khoa, rất ít sáng tạo ra các bài tập mới, các tình huống mới hay
tạo ra hoàn cảnh sử dụng từ của học sinh.
- Vốn kiến thức của giáo viên còn hạn chế. Tài liệu tham khảo, mở rộng
vốn hiểu biết cho giáo viên và học sinh chưa nhiều.
2.3. Về phía học sinh
Khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản,
trực quan, vốn kiến thức văn học của học sinh rất ít ỏi nên việc cảm thụ nghệ
thuật tu từ so sánh còn hạn chế. Qua thực tế giảng dạy ở lớp mình phụ trách và
tìm hiểu thêm về học sinh lớp khác, tôi thấy các em còn mắc những lỗi sau:
- Học sinh nhầm lẫn giữa so sánh logic và so sánh tu từ
- Nhận diện sai các yếu tố so sánh
- Tạo hình ảnh so sánh chưa hợp lý
- Chưa cảm nhận được giá trị của phép so sánh.
Để kiểm tra khả năng nắm bài cũng như theo dõi sự tiến bộ của học sinh,
tôi đã tiến hành khảo sát học sinh trước khi áp dụng biện pháp mới. Sau khi học
xong 2 tiết về so sánh ở tuần 1 và tuần 3, tôi đã chọn bài tập trong tiết Luyện từ
và câu của tuần 5 làm bài tập khảo sát.

4


Kết quả thu được như sau:
Lớp

Tổng số
HS

3B


29

Hoàn thành tốt
SL

%

Hoàn thành
SL

%

Chưa hồn thành
SL

%

3
10, 3%
21
72,4%
5
17,3%
Băn khoăn trước kết quả cịn thấp của học sinh lớp mình, tơi đã tìm ra
những ngun nhân nêu trên và mạnh dạn đưa ra: “Một số kinh nghiệm dạy
phép tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3”
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
* Giải pháp1. Nghiên cứu cấu trúc, nội dung chương trình sách giáo khoa,
phân nhóm các dạng bài tập so sánh
+ Nội dung chương trình sách giáo khoa: Muốn giảng dạy tốt từng bộ

mơn, phân mơn thì việc đầu tiên người giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung,
chương trình sách giáo khoa để có phương pháp và kế hoạch dạy học đạt hiệu
quả cao. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học, khi được nhà trường phân công
giảng dạy lớp 3, tôi đã bắt tay ngay vào việc nghiên cứu kỹ chương trình để có
định hướng dạy tốt phân mơn Luyện từ và câu, nhất là mảng kiến thức về phép
tu từ so sánh.
Phân môn Luyện từ và câu lớp 3 được dạy 1tiết/1 tuần trong đó có 7 tiết
dạy về so sánh (trong học kỳ I).
Mục đích yêu cầu về nội dung, kiến thức mỗi tiết cũng nâng dần mức độ
từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, giúp học sinh từng bước nắm bắt, ghi
nhớ và luyện tập có hiệu quả.
Yêu cầu và mức độ của mỗi tiết dạy được tơi cụ thể hóa trong bảng sau:
Tiết/tuần.
Nội dung Tiết 1 (Tuần 1): Học sinh bước đầu làm quen với biện pháp tu từ
so sánh.
Tiết 2 (Tuần 3) Học sinh biết cách tìm những hình ảnh so sánh trong các
câu thơ, câu văn và nhận biết các từ chỉ sự so sánh trong các câu văn đó.
Tiết 3 (Tuần 5) Học sinh nắm bắt được kiểu so sánh: So sánh hơn kém, so
sánh ngang bằng. Biết cách thêm các từ so sánh vào những câu văn chưa có từ
so sánh.
Tiết 4 (Tuần 7) Học sinh tìm hiểu thêm một cách so sánh: so sánh sự vật
với con người, con người với sự vật.
Tiết 5 (Tuần10) Học sinh nắm bắt thêm cách so sánh: So sánh âm thanh
với âm thanh.
Tiết 6 (Tuần 12) Học sinh biết thêm cách so sánh hoạt động với hoạt
động.
Tiết 7 (Tuần 15) Học sinh đặt được câu văn có hình ảnh so sánh.
Tồn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập 1 dạy về so sánh gồm 7 tiết với
các cách so sánh sau:
+ Cách 1: So sánh sự vật - sự vật

5


+ Cách 2: So sánh sự vật - con người
+ Cách 3: So sánh hoạt động - hoạt động
+ Cách 4: So sánh âm thanh - âm thanh
Đặc trưng của phân mơn Luyện từ và câu có những điểm mới so với sách
giáo khoa cũ là học sinh tự rút ra kiến thức qua việc thực hành làm các bài tập.
Vì vậy, dựa vào nội dung, chương trình như trên tơi đã khái qt lại chương
trình thành các dạng bài tập về biện pháp so sánh như sau:
+ Các dạng bài tập về biện pháp so sánh
- Nhận biết những sự vật so sánh, những hình ảnh so sánh, những đặc
điểm so sánh và những từ so sánh trong câu: Tiết 1, 2, 3, 4, 5, 6.
- Cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh, tập đặt câu có sử dụng phép so
sánh: Tiết 7. Như vậy, mỗi tiết học về so sánh có yêu cầu khác nhau. Tiết học
sau đòi hỏi kiến thức cao hơn tiết học trước, mỗi tiết học cung cấp một mảng
kiến thức, một dạng bài tập. Vì thế, tơi tìm hiểu kỹ nội dung, mức độ kiến thức
cần truyền đạt của từng tiết để tạo thành mạch kiến thức có liên kết một cách
chặt chẽ, logic.
+ Một số yêu cầu cơ bản khi dạy biện pháp so sánh cho học sinh Tiểu học
- Sử dụng đồ dùng trực quan và thơng qua các ví dụ cụ thể để dẫn dắt học
sinh dần dần hiểu, nắm bắt, vận dụng biện pháp tu từ so sánh theo mức độ từ dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để từ đó nâng dần khả năng tư duy, sáng tạo
cho học sinh.
- Thông qua các bài tập nhận biết, học sinh được luyện tập và vận dụng
biện pháp tu từ so sánh trong khi nói và viết. Bên cạnh đó, học sinh cịn cần
được tiếp xúc với ngôn ngữ nghệ thuật để biết cách cảm thụ cái hay, cái đẹp của
thơ văn.
* Giải pháp 2. Tìm hiểu khái niệm, cấu trúc của phép tu từ So sánh.
Để dạy tốt kiến thức về so sánh thì người giáo viên phải nắm vững kiến

thức về phong cách học nói chung và phép so sánh tu từ nói riêng. Có như vậy
giáo viên mới chủ động trong bài giảng cũng xử lý tốt các tình huống.
Khái niệm: So sánh tu từ là biện pháp tu từ trong đó người ta đối chiếu
các sự vật với nhau miễn là giữa các sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi
ra hình ảnh cụ thể,những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc và
người nghe. Khi so sánh phải có ít nhất hai sự vật trở lên. Trong đó có sự vật so
sánh (A) và sự vật được so sánh (B). Hai sự vật này phải có ít nhất một nét
tương đồng. Hiệu quả của phép tu từ so sánh là gợi ra những hình ảnh cụ thể,
những cảm xúc thẩm mĩ.
Phân biệt sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh logic: So sánh
logic là một biện pháp nhận thức trong tư duy của con người, là việc đặt hai hay
nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra sự giống
nhau và khác biệt giữa chúng.
Ví dụ: Cái lưng cịng của ơng cụ sao giống lưng ơng nội thế.
Cơ sở của phép so sánh logic dựa trên tính đồng nhất, đồng loại của các
sự vật hiện tượng và mục đích của sự so sánh là xác lập sự tương đương giữa hai
đối tượng. Nếu như giá trị của so sánh logic là xác lập được sự tương đương
6


giữa hai đối tượng thì giá trị của so sánh tu từ là ở sự liên tưởng, sự phát hiện và
gợi cảm xúc thẩm mĩ ở người đọc, người nghe.
Ví dụ :
Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng. ( TV3 - tập 1, trang 7)
Ở ví dụ trên “bà” được ví như “quả ngọt” đã chín, bà càng có tuổi thì tình
cảm của bà càng sâu sắc, càng ngọt ngào như quả chín trên cây.
Như vậy, so sánh tu từ học và so sánh logic khác nhau ở 3 yếu tố:
- Tính hình tượng
- Tính biểu cảm

- Tính dị loại (khơng cùng loại) của sự vật.
+ Cấu trúc của phép so sánh tu từ: Về cấu trúc đầy đủ của phép so sánh
tu từ gồm 4 yếu tố: Đối tượng được so sánh; phương diện so sánh; so sánh; đối
tượng đưa ra để làm chuẩn so sánh.
Ví dụ: (1) Trăng (2) trịn (3) như (4) cái đĩa.
Trong đó :
- Yếu tố (1) là cái so sánh, đây là yếu tố được hoặc bị so sánh tùy theo
việc so sánh là tích cực hay tiêu cực.
- Yếu tố (2) là cơ sở so sánh, đây là yếu tố chỉ tính chất sự vật hay trạng
thái của hành động được nhìn nhận theo một cách nào đó có vai trị nêu rõ
phương diện so sánh.
- Yếu tố (3) là mức độ so sánh thường được diễn ra ở mức độ ngang bằng
nhau. Ngoài từ “ như” cịn có các từ “ tựa”, “ tựa như”, “giống như”, “ là”, “như
là”, “ như thể”…; so sánh hơn kém như từ “hơn”, “chẳng bằng”…
- Yếu tố (4) là cái được so sánh, tức là cái đưa ra để làm chuẩn so sánh.
Theo cấu trúc như trên, đối tượng được so sánh và đối tượng đưa ra để làm
chuẩn so sánh có thể là sự vật, con người, âm thanh, đặc điểm, hoạt động…
+ Dựa vào cấu trúc có thể chia ra các dạng so sánh sau:
. Dạng 1: Phép so sánh đầy đủ cả 4 yếu tố:
Ví dụ: Trăng tròn như cái đĩa.
. Dạng 2: Phép so sánh vắng yếu tố (2). So sánh vắng yếu tố (2) cịn gọi
là so sánh chìm, tức là khơng có cơ sở so sánh. Dạng so sánh này kích thích
thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn để có thể xác định được
những nét giống nhau giữa 2 đối tượng ở 2 vế và từ đó nhận ra đặc điểm của đối
tượng được miêu tả.
Ví dụ :
Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
. Dạng 3: Phép so sánh vắng yếu tố (2) và (3) Đây là dạng so sánh không
đầy đủ, chỉ có cái so sánh và cái được so sánh.Trong trường hợp này yếu tố (2)

và yếu tố (3) được thay thế bằng chỗ ngắt giọng, dấu gạch ngang hoặc là hình
thức đối chọi.
Ví dụ:
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.
7


Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đã dùng chỗ ngắt giọng (được ghi lại bằng
dấu gạch ngang) và đối chọi (giữa quả dừa và tàu dừa) để tạo nên một hình thức
so sánh có âm điệu nhịp nhàng. Trong so sánh tu từ, cịn có hình thức kết hợp
một vế so sánh, một đối tượng so sánh với nhiều đối tượng được so sánh.
Ví dụ:
Người là cha, là bác, là anh.
+ Dựa vào mặt ngữ nghĩa thì so sánh tu từ có 2 dạng: so sánh ngang
bằng và so sánh hơn - kém.
. Dạng so sánh ngang bằng. Đây là dạng so sánh phổ biến thường dùng
từ “như”, “ là”, “tựa”, “tựa như”… để làm từ so sánh.
Ví dụ: Giọt sương sớm long lanh như những hạt ngọc.
. Dạng so sánh hơn- kém. Đây là dạng so sánh luôn gắn với từ hơn: khỏe
hơn, đẹp hơn hoặc chẳng bằng.
Ví dụ:
Những ngơi sao thức ngồi kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
Những ví dụ trên cho ta thấy các đối tượng được đưa ra để so sánh khác
nhau về bản chất. Nhưng do một cách nhìn đặc biệt, các đối tượng vốn là khác
loại, khác bản chất có thể chuyển hóa được cho nhau, có những đặc điểm, những
nét giống nhau.

Vậy so sánh tu từ là biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối
chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau
hồn tồn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một
lối tri giác mới mẻ về đối tượng. Mặt khác, sách giáo khoa Tiếng Việt 3 không
trực tiếp đưa ra khái niệm so sánh (với tư cách là một biện pháp tu từ) cho học
sinh mà thông qua các bài tập dần dần hình thành khái niệm đơn giản về so sánh
cho học sinh.
Chính vì vậy khi dạy về so sánh cho học sinh, tôi đã dựa trên các dạng bài
tập để phân loại và lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với từng dạng bài cụ thể.
* Giải pháp 3. Giúp học sinh nhận biết các dạng bài tập về so sánh.
+. Dạng bài tập nhận biết biện pháp tu từ so sánh.
Đây là dạng bài tập giúp học sinh nhận biết những sự vật so sánh, những
hình ảnh so sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu.
Để dạy tốt dạng bài tập này, tôi đã hướng dẫn học sinh cụ thể trong từng tiết
học như sau:
. Ví dụ 1: Tiết 1 - Tuần 1 (Bài tập 2/ Trang 8 - Tiếng Việt 3, Tập 1) Tìm
những sự vật được so sánh trong các câu văn, câu thơ dưới đây:
Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành (Huy Cận)
Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch.
(Vũ Tú Nam)
Cánh diều như dấu “á”
Ai vừa tung lên trời (Lương Vĩnh Phúc)
Ơ, cái dấu hỏi
Trông ngộ, ngộ ghê
Như vành tai nhỏ
8


Hỏi rồi lắng nghe (Phạm Như Hà )

Đây là dạng bài tập đầu tiên các em được làm quen với so sánh, với yêu
cầu là nhận diện các từ chỉ sự vật được so sánh. Để làm tốt bài tập này học sinh
phải nắm chắc các từ chỉ sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên
là:
- “Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành”
- “Mặt biển” so sánh với “tấm thảm khổng lồ”
- “Cánh diều” so sánh với dấu “á”
- “Dấu hỏi” so sánh với “vành tai nhỏ”.
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với
“hoa đầu cành” hay vì sao nói “ Mặt biển” như “tấm thảm khổng lồ”? Lúc đó
giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật này đều có điểm nào giống
nhau, chẳng hạn:
- Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa. (GV cho học sinh quan
sát tranh ảnh để học sinh dễ nhận thấy điểm giống nhau)
Hay vì sao nói: “Mặt biển” như ‘tấm thảm khổng lồ”. Mặt biển và tấm
thảm đều phẳng, êm và đẹp.
- Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á. (GV có thể
giới thiệu hình ảnh “Cánh diều” và vẽ lên bảng “dấu á” để học sinh quan sát so
sánh).
Trên thực tế ấn tượng thính giác kết hợp với thị giác giúp các em dễ dàng
nhận ra hiện tượng so sánh ẩn chứa trong các câu thơ, câu văn nên tôi đã cho
học sinh xem ảnh “cánh diều” và “dấu á”. Còn dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai
phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai thì tơi cho học sinh nhìn vào vành
tai bạn.
Kết luận: Các tác giả quan sát rất tài tình nên đã phát hiện sự giống nhau
giữa các sự vật xung quanh ta. Bởi vậy, khi so sánh cần có hai sự vật đưa ra, hai
sự vật đó phải có điểm giống, điểm tương đồng với nhau. Và trong hai sự vật đó
(1 sự vật được so sánh, 1 sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh) thường được đặt
trước và sau từ “như”. Đây là một dấu hiệu để nhận ra các sự vật được so sánh
với nhau trong câu.

. Ví dụ 2: Tiết 2 - Tuần 3 (Bài tập 1 + 2/ Trang 24 - Tiếng Việt 3, Tập 1)
- Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu văn, câu thơ sau. Nêu các từ chỉ
sự so sánh.
Ở bài tập này tôi cho học sinh thảo luận nhóm. Bằng kiến thức đã học ở
tiết 1(Tuần 1), các em dễ dàng nhận ra các hình ảnh so sánh trong các câu thơ,
câu văn:
a) Mắt hiền sáng tựa vì sao
b) Hoa xao xuyến nở như mây từng chùm
c) Trời là cái tủ ướp lạnh.
Trời là cái bếp lò nung.
d) Dịng sơng là một đường trăng lung linh dát vàng
Tôi đặt câu hỏi với học sinh:
9


+ Trong câu a, dựa vào đâu con biết hình ảnh “mắt hiền” được so sánh với
“vì sao”? (Dựa vào từ “tựa”) Giáo viên chỉ ra: Đây là từ chỉ sự so sánh. Tương
tự câu a, học sinh sẽ tìm được các từ so sánh trong các câu còn lại.
Như vậy, yêu cầu của bài học đã nâng cao dần so với tiết 1. Học sinh
không chỉ nêu được các sự vật so sánh, từ chỉ sự so sánh “như” mà còn nêu được
các từ chỉ sự so sánh thường dùng: như, là, tựa như, tựa, … Tôi nhấn mạnh để
học sinh hiểu: Từ chỉ sự so sánh chính là dấu hiệu để nhận biết câu văn, câu thơ
có hình ảnh so sánh. Sau tiết học, nhằm củng cố lại kiến thức cho học sinh, tôi
yêu cầu học sinh làm bài tập sau:
Câu hỏi: Tìm các sự vật được so sánh, sự vật dùng để so sánh và từ so
sánh trong câu sau:
Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây.
Đáp án:
Từ chỉ sự vật được so sánh.


Từ so Từ chỉ sự vật dùng để so sánh
sánh.

Mây

Như

bơng

Bơng

Như

mây

Giáo viên chốt: Cùng là một sự vật, có khi đó là sự vật được so sánh, có
khi lại là sự vật dùng để đối chiếu so sánh.
. Ví dụ 3: Tiết 3 - Tuần 5 (Bài tập 1 / Trang 42- Tiếng Việt 3, Tập 1)
Qua bài tập này học sinh tiếp tục luyện tập nhằm nắm chắc cấu tạo chung
của so sánh bao gồm: các hình ảnh so sánh, các vật được so sánh và các từ so
sánh. Đặc biệt học sinh nắm được một kiểu so sánh mới: So sánh hơn kém và
các từ có ý nghĩa so sánh hơn kém; phân biệt được 2 kiểu so sánh (So sánh
ngang bằng và so sánh hơn kém). Sau khi học sinh xác định được các hình ảnh
có trong câu:
- Cháu khỏe hơn ơng nhiều
Ơng là buổi trời chiều
Cháu là ngày rạng sáng
- Trăng khuya sáng hơn đèn
- Những ngơi sao thức ngồi kia

Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
- Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
Dựa vào các từ so sánh vừa tìm được, tơi hướng dẫn học sinh nhận diện
kiểu so sánh mới (so sánh hơn kém); từ đó phân biệt được 2 kiểu so sánh bằng
các câu hỏi:
+ Trong câu a, cách so sánh “Cháu khỏe hơn ơng nhiều” và “Ơng là buổi
trời chiều” có gì khác nhau? Hai sự vật được so sánh với nhau trong mỗi câu là
ngang bằng nhau hay hơn kém nhau?
Trả lời:
10


- Câu “Cháu khỏe hơn ông nhiều”, hai sự vật so sánh với nhau là “ông” và
“cháu”; hai sự vật này khơng ngang bằng nhau mà có sự chênh lệch hơn kém
(cháu hơn ơng).
- Câu “Ơng là buổi trời chiều”, hai sự vật này có sự ngang bằng nhau.
+ Sự khác nhau về cách so sánh của hai câu này do đâu tạo nên? Sau khi
học sinh nhận biết được hai kiểu so sánh, giáo viên cho học sinh xếp các hình
ảnh vào hai nhóm:
+ So sánh ngang bằng
+ So sánh hơn kém
Đặc biệt, ở bài học này, tôi đã nhấn mạnh cho học sinh: Sự khác nhau về
cách so sánh là do từ chỉ sự so sánh tạo nên:
+ Nếu từ so sánh là: tựa, như, là, giống như, như là, bằng…-> thuộc kiểu
so sánh ngang bằng.
+ Nếu từ so sánh là: hơn, chẳng bằng…-> thuộc kiểu so sánh hơn kém.
Như vậy, qua 3 tiết học, mặc dù đều là dạng bài tập nhận biết hình ảnh so
sánh, từ so sánh nhưng học sinh đã nắm bắt được kiểu so sánh và được nâng dần
theo mức độ từ dễ đến khó. Đây cũng là quan điểm chung của tất cả các mơn
học ở Tiểu học.

. Ví dụ 4: (Tiết 5 - Tuần 10). Với hai bài tập nhận biết hình ảnh so sánh, học
sinh tiếp tục luyện tập về so sánh và hiểu thêm một cách so sánh mới: So sánh
âm thanh với âm thanh. Ở bài học này tơi hướng dẫn học sinh tìm hiểu như sau:
+ Bài tập 1 (Trang 79 - Tiếng Việt 3, Tập 1)
Đọc đoạn thơ: Đã có ai lắng nghe
Tiếng mưa trong rừng cọ
Như tiếng thác dội về
Như ào ào trận gió.
- Yêu cầu học sinh làm việc theo cặp trả lời câu hỏi:
+ Tiếng mưa trong rừng cọ được so sánh với những âm thanh nào? (Trả lời:
như tiếng thác, tiếng gió)
Như vậy, khơng chỉ có các sự vật, con người dùng làm đối tượng so sánh
mà những âm thanh trong tự nhiên cũng được các tác giả chọn làm hình ảnh so
sánh.
Sau bài tập 1, giới thiệu cho học sinh kiểu so sánh: âm thanh với âm
thanh.
* Tiết 6 - Tuần 12 - Tiết học này, học sinh tiếp tục làm quen với phép so
sánh nhưng là so sánh hoạt động với hoạt động
+ Bài tập 1(Trang 98 - Tiếng Việt 3, Tập 1). Đọc khổ thơ dưới đây và trả
lời câu hỏi:
Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn trịn
Trên sân, trên cỏ. (Phạm Hổ)
a. Tìm các từ chỉ hoạt động trong khổ thơ trên
b. Hoạt động chạy của những chú gà con được miêu tả bằng cách nào?
11


- Với câu hỏi a, học sinh đọc thầm khổ thơ và gạch dưới các từ chỉ hoạt

động (lăn, chạy)
+ Yêu cầu học sinh đọc lại khổ thơ để tìm câu thơ có hình ảnh so sánh:
(Chạy như lăn trịn)
- Với câu hỏi b, tôi cho học sinh thảo luận nhóm 2 và nêu ý kiến. Sau các
câu trả lời, tôi nhấn mạnh: đây là cách so sánh hoạt động với hoạt động. Hoạt
động “chạy” của những chú gà con được miêu tả giống hoạt động “lăn” của
những hòn tơ nhỏ. Qua bài tập 1, học sinh bước đầu đã nắm được cách so sánh
hoạt động với hoạt động. Vận dụng các kiến thức đã học trong các tiết trước và
bài tập 1, các em sẽ tự mình khám phá, tìm hiểu để tìm ra được những hoạt động
được so sánh với nhau trong bài tập 2.
+ Bài tập 2 (Trang 98- Tiếng Việt 3, tập 1). Trong các đoạn trích sau,
những hoạt động nào được so sánh với nhau:
a. Con trâu đen lơng mượt
Cái sừng nó vênh vênh
Nó cao lớn lênh khênh
Chân đi như đập đất.
b. Cau cao cao mãi
Tàu vươn tới trời
Như tay ai vẫy
Hứng làn mưa rơi
c. Xuồng con đậu quanh thuyền lớn giống như đàn con nằm quanh bụng
mẹ. Khi có gió, thuyền mẹ cót két rên rỉ, đám xuồng con lại húc húc vào mạn
thuyền mẹ như địi bú tí.
Tơi cho học sinh thảo luận nhóm 4 trao đổi ý kiến và điền vào bảng sau:
Sự vật,con vật

Hoạt động

Từ so sánh


Hoạt động

Con trâu

Đi

như

đập đất

Tàu cau

Vươn

như

(tay) vẫy

Xuồng con

- đậu(quanh thuyền lớn)
như
- húc húc(vào mạn thuyền
mẹ)

- nằm quanh bụng
mẹ.
- địi (bú tí)

Qua bảng giáo viên hệ thống lại kiến thức của bài tập 2 nhằm giúp học

sinh nắm chắc cấu trúc của so sánh. Ở bài tập này, trước tiên tôi giúp học sinh
nắm chắc được các từ chỉ hoạt động, từ đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động
được so sánh với nhau.
Chẳng hạn:
+ Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đập đất” qua từ “như”.
* Như vậy qua 6 tiết học, học sinh đã nhận biết được các sự vật so sánh,
các từ so sánh, kiểu so sánh và các cách so sánh. Trong mỗi tiết học, mỗi bài tập
về dạng nhận biết trên, học sinh lại được cảm nhận cái hay, cái đẹp của những
câu văn có hình ảnh so sánh.
12


Cụ thể như sau:
b. Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh
*Ví dụ: (Tiết 5 - Tuần 10). Với dạng bài tập của tiết này, giáo viên cần
cho học sinh giải quyết các câu hỏi sau:
Nếu đặt: A là sự vật so sánh. B là sự vật được so sánh.
Học sinh phải trả lời được:
+ So sánh các sự vật, sự việc với nhau như vậy để làm gì? Trả lời được
câu hỏi này là học sinh đã hiểu được tác dụng của biện pháp tu từ so sánh. Để
học sinh cảm nhận được giá trị nhận thức cũng như giá trị thẩm mĩ của một hình
ảnh so sánh, tơi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu bằng các câu hỏi sau:
+ B giúp các em hình dung ra A như thế nào?
+ B giúp em cảm nhận điều gì mới mẻ về A?
+ Hình ảnh so sánh đó gợi cho em cảm xúc gì?
Ở bài học này tơi hướng dẫn học sinh tìm hiểu như sau:
+ Bài tập 1(Trang 79 - TV3, Tập 1). Đọc đoạn thơ và trả lời câu hỏi.
Đã có ai lắng nghe
Tiếng mưa trong rừng cọ
Như tiếng thác dội về

Như ào ào trận gió.
a.Tiếng mưa trong rừng cọ được so sánh với những âm thanh nào?
b.Qua sự so sánh trên, em hình dung ra tiếng mưa trong rừng cọ ra sao?
Như vậy, sau khi tìm được những âm thanh so sánh với tiếng mưa trong
rừng cọ như tiếng thác đổ và tiếng ào ào trận gió, tơi đưa tiếp câu hỏi:
Qua sự so sánh trên, em hình dung tiếng mưa trong rừng cọ như thế nào?
(Trả lời: Tiếng mưa trong rừng cọ rất to, rất mạnh và rất vang) -> Như vậy cách
so sánh đó đã giúp cho người đọc, người nghe hình dung rõ hơn về tiếng mưa
trong rừng cọ. Đó chính là tác dụng của so sánh: làm cho đối tượng được so
sánh rõ hơn, nổi bật hơn.
+ Bài tập 2 (Trang 80 - TV3, Tập 1). Hãy tìm những âm thanh được so
sánh với nhau trong mỗi câu thơ, câu văn dưới đây.
a. Cơn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
b.Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Tương tự với bài tập 1, tôi cũng đưa ra các câu hỏi giúp học sinh cảm
nhận cái hay, cái đẹp của phép so sánh.
Câu a. Tiếng suối được tác giả so sánh với tiếng đàn cầm,
Em hình dung ra tiếng suối như thế nào? (Tiếng suối chảy đều đều và rất
êm tai)
Câu b. Tiếng suối và tiếng hát được so sánh với nhau ở điểm nào? (rất
trong)
Qua sự so sánh đó, em cảm nhận tiếng suối như thế nào? (trong trẻo, nhỏ
nhẹ và ngân xa)
13


* Như vậy, so sánh giúp cho người đọc, người nghe hình dung về sự vật
một cách cụ thể, sinh động hơn. Khơng những thế, nó cịn thể hiện sự quan sát

rất tài tình và tinh tế của các nhà văn, nhà thơ khi muốn bộc lộ cảm xúc của
mình vào tác phẩm.
c. Dạng bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh
. Ví dụ : Tiết 7 - Tuần 15 (Bài tập 3/ Trang 126 - TV3,Tập 1). Quan sát
từng cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu văn có hình ảnh so sánh các
sự vật trong tranh. Ở bài tập này, sách giáo khoa cung cấp sẵn nội dung so sánh
qua các tranh vẽ từng cặp sự vật có điểm giống nhau. Để tạo hứng thú cho học
sinh đặt câu, tôi xuất hiện trên ti vi bức tranh trong sách giáo khoa và hướng dẫn
học sinh nói tên các cặp sự vật có trong mỗi tranh.
- Tranh 1: Mặt trăng so sánh với quả bóng
- Tranh 2: Nụ cười của bé so sánh với bông hoa
Khuôn mặt của bé so sánh với bông hoa
- Tranh 3: Ngọn đèn so sánh với ngôi sao
Ngọn đèn so sánh với ánh trăng
- Tranh 4: Hình dáng nước ta được so sánh với chữ S
Điểm cần lưu ý ở bài tập này là khi so sánh ta cần xác định đâu là sự vật so
sánh và đâu là sự vật dùng để đối chiếu so sánh. Tiếp đó tơi cho học sinh đặt câu
có hình ảnh so sánh phù hợp với từng tranh rồi viết vào vở bài tập Tiếng Việt.
Cho nhiều học sinh nêu miệng các câu mình đặt. Khi học sinh đặt câu chưa hay,
tơi hướng dẫn các em sửa lại câu văn cho hay hơn.
VD: Trăng trịn như quả bóng-> Trăng đêm rằm trịn như quả bóng.
Bé cười tươi như hoa -> Nụ cười của bé tươi như bông hoa mới nở.
Đèn sáng như sao -> Ngọn đèn sáng như những vì sao.
Sau khi chữa xong bài tập, tôi đưa ra câu hỏi: Khi đặt câu có hình ảnh so
sánh cần lưu ý điều gì? (Tìm ra điểm nổi bật và tương đồng của hai sự vật)
+ Bài tập 4/ Trang 126 - TV3. Tìm những từ ngữ thích hợp với mỗi ơ trống:
Nếu như ở bài tập 3 cần căn cứ vào các cặp tranh để tìm ra sự giống nhau
giữa các sự vật trong tranh rồi đặt câu thì bài tập 4 lại cần tìm những từ ngữ
thích hợp (sự vật 2 có điểm tương đồng với sự vật đã cho) điền vào chỗ trống
sau từ “như” để tạo câu có sự so sánh. Dựa vào những yếu tố cho sẵn, kết hợp

với trí tưởng tượng và vốn kiến thức hiện có, học sinh có thể hồn thành bài tập
này như sau:
a. Cơng cha nghĩa mẹ được so sánh như núi Thái Sơn, như nước trong
nguồn chảy ra.
b. Trời mưa, đường đất sét trơn như bơi mỡ.
c. Ở thành phố, có nhiều tịa nhà cao như núi.
Sau hai bài tập, tôi cho học sinh so sánh sự khác nhau của hai bài tập (Bài
tập 3: Từ 2 sự vật phải tìm được điểm giống nhau để so sánh).
* Giải pháp 4. Giúp học sinh củng cố kiến thức về biện pháp so sánh qua hệ
thống bài tập mở rộng.
14


a. Dạng bài tập nhận diện những sự vật được so sánh, những hình ảnh so
sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu.
Bài 1: Gạch dưới các hình ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn dưới đây:
-. Cánh diều no gió
Tiếng nó chơi vơi
Diều là hạt cau
Phơi trên nong trời.
- Hoa lựu như lửa lập lòe
Nhớ khi em tưới, em che hàng ngày.
- Khi cá vàng khẽ uốn lưng thì đi (cá vàng) xòe rộng như một dải lụa
màu da cam còn khoan thai uốn lượn mãi.
- Giàn hoa mướp vàng như đàn bướm đẹp.
Bài 2: Tìm các từ chỉ sự so sánh trong mỗi câu sau:
a. Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
b. Mẹ bảo: trăng như lưỡi liềm
Ông rằng: trăng tựa con thuyền cong mui

Bà nhìn: như hạt cau phơi
Cháu cười: quả chuối vàng tươi ngoài vườn.
c. Dưới gốc phượng già, những cánh hoa phượng rụng phủ kín mặt đất như
tấm thảm đỏ.
d. Dưới ánh nắng chói chang, hàng ngàn lá cọ xịe ra như những vầng mặt
trời rực rỡ.
Bài 3: Tìm các từ so sánh điền vào chỗ chấm để tạo thành câu có hình ảnh so
sánh.
a. Hai chân chích bơng xinh xinh …giống như….. hai chiếc tăm.
b. Rễ cây nổi lên mặt đất thành hình thù kỳ quái…như…….những con
rắn hổ mang giận dữ.
c. Trăm cô gái…tựa……tiên sa.
Bài 4: Em hãy điền thêm các từ ngữ vào chỗ chấm để tạo thành câu văn có hình
ảnh so sánh.
a. Buổi sáng, những cánh buồm nâu trên biển… như những cánh bướm
dập dờn.
b. Nắng mai hồng… như dải lụa đào trải dài trên con đường làng q
em.
c. Đơi cánh gà mẹ xịe ra… như hai mái nhà che chở cho các chú gà
con.
Bài tập này với mục đích bước đầu cho học sinh làm quen với việc viết
câu văn có hình ảnh so sánh để diễn đạt sự vật sao cho sinh động. Bằng hiểu biết
và óc liên tưởng của mình các em sẽ lựa chọn được những từ ngữ thích hợp để
điền vào tạo thành câu có hình ảnh so sánh.
b. Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh
15


Bài 1: Gạch dưới những hình ảnh so sánh trong các câu văn dưới đây. Trong các
hình ảnh đó, em thích hình ảnh nào? Vì sao?

a. Trơng trống mới oai vệ làm sao! Thân trống tròn trùng trục như cái
chum sơn đỏ. Bụng trống phình ra, hai đầu khum lại.
b. Dưới ánh nắng chói chang, hàng ngàn lá cọ xịe ra như những vầng mặt
trời rực rỡ.
Tiếp đó tơi u cầu học sinh chọn hình ảnh mình thích và giải thích lý do
vì sao? (VD: Hình ảnh hàng ngàn lá cọ xòe ra như những vầng mặt trời thể hiện
sự quan sát tinh tế, bất ngờ của tác giả khi tìm ra được hình ảnh “vầng mặt trời”
để so sánh với “hàng ngàn lá cọ”. Vì vậy câu văn khi đọc lên thấy thật thú vị.)
Bài 2: Trong các câu văn sau em thấy câu nào hay nhất? Vì sao?
a. Những chùm hoa phượng đỏ.
b. Những chùm hoa phượng đỏ rực như những ngọn lửa bập bùng cháy
trên cây.
c. Những chùm hoa phượng đỏ như son.
Các câu văn trên cùng là viết về hoa phượng nhưng mỗi câu lại có cách diễn
đạt khác nhau. Tôi yêu cầu học sinh so sánh câu thứ nhất và câu thứ hai, câu nào
hay hơn, vì sao? Tất cả học sinh trong lớp tơi đều khẳng định câu thứ hai hay
hơn vì đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh để miêu tả màu sắc của hoa phượng.
Như vậy, qua phân tích học sinh sẽ lựa chọn được câu văn hay và các em còn
hiểu được: khi so sánh, muốn cho sự vật miêu tả được đẹp và sinh động thì cần
so sánh với một sự vật khác đẹp hơn và như thế câu văn có được sức gợi tả, gợi
cảm cho người đọc.
c. Dạng bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh
Bài 1: Em hãy sử dụng biện pháp so sánh để diễn đạt lại các câu sau cho sinh
động, gợi cảm hơn:
a. Những bông hoa bàng màu trắng, nhỏ li ti.
b. Bà của em đã già, tóc của bà bạc lắm.
c. Bầy chim non đang hót trong nắng mai. Với bài tập này học sinh sẽ suy
nghĩ và viết lại câu văn theo ý mình. Tơi chú ý hướng dẫn, chữa cho các em
nhưng không áp đặt theo ý cô. Đồng thời, tôi ghi nhanh một số câu văn hay lên
bảng cho các em khác học tập.

Ví dụ:
a. Những bông hoa bàng màu trắng, nhỏ li ti như những hạt cườm trải
khắp trên cành cây.
b. Bà của em đã già, tóc của bà bạc trắng như mây.
c. Bầy chim non đang hót trong nắng mai như một bản hịa tấu.
Sau khi học sinh đã thành thạo dạng bài tập này tôi, lại ra một số bài tập ở
mức độ khó hơn.
Bài 2: Hãy dùng biện pháp so sánh để diễn đạt về mỗi sự vật sau:
Ông mặt trời, cánh đồng lúa, dịng sơng, hoa hồng,…. Loại bài tập này
khó hơn, địi hỏi học sinh phải có một trí tưởng tượng thật phong phú kết hợp
với khả năng diễn đạt thật thành thạo thì mới có thể viết được những câu văn có
hình ảnh so sánh hay. Tơi cũng có biện pháp hướng dẫn cụ thể các em học sinh
16


yếu bằng cách sau khi học sinh đã trình bày hết ý kiến mà chưa có được câu văn
hay thì tôi sẽ đưa một vài câu văn làm mẫu để các em tích lũy làm tư liệu cho
mình.
Ví dụ:
- Ơng mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa đang từ từ nhơ lên ở phía
đằng đơng.
- Cánh đồng lúa chín vàng trải rộng như một tấm thảm khổng lồ.
- Dịng sơng uốn quanh như một dải lụa chia đơi hai làng.
- Những đóa hồng nhung dịu dàng và kiêu sa như những nàng tiên.
* Giải pháp 5. Giúp học sinh nhận biết biện pháp so sánh thông qua các câu
đố dân gian
Kho tàng câu đố dân gian thật phong phú và đa dạng. Nó phản ánh những
thuộc tính, đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Nó vừa có chức năng bồi dưỡng tri
thức, vừa có chức năng giải trí cho con người. Trong số đó, cha ơng ta cũng đã
biết sử dụng biện pháp so sánh để làm rõ sự vật cần phải tìm nhưng khơng q

lộ. Dựa vào điều đó tơi đã sưu tầm và tích luỹ một số câu đố có sử dụng biện
pháp so sánh. Sau một số bài học tôi đưa ra một số câu đố có sử dụng phép so
sánh để hướng dẫn học sinh tìm hiểu thêm về nghệ thuật so sánh.
VD: Vừa bằng lá tre ngo ngoe dưới nước. (Là con gì?)
Để khai thác, tơi hỏi học sinh như sau:
+ Em có nhận xét gì về câu đố trên? (Câu đố có sử dụng so sánh nhưng ẩn
sự vật so sánh)
+ Sự vật dùng để đối chiếu trong câu đố trên là gì? (Là lá tre)
+ Em cần phải dựa vào chi tiết nào nữa để tìm ra lời giải? (Dựa vào chi
tiết: Ngo ngoe dưới nước)
+ Vậy sự vật so sánh ở đây là sự vật nào? (Là con đỉa)
Với các câu đố tơi đưa ra các em rất thích thú và tìm cách giải. Qua những
câu đố như vậy các em cũng sẽ được khắc sâu kiến thức của mình về cách tìm
sự vật có nét tương đồng với sự vật đã cho.
* Giải pháp 6. Dạy biện pháp so sánh tích hợp vào các mơn học.
a. Tích hợp trong mơn Tiếng Việt :
Ngồi việc giúp cho học sinh nhận biết được biện pháp tu từ so sánh qua
các tiết học và các bài tập của phân môn Luyện từ và câu, tơi cịn giúp học sinh
khai thác và tìm hiểu các hình ảnh so sánh trong các phân mơn khác như: Tập
đọc, Tập làm văn, …Từ đó học sinh được củng cố, khắc sâu, mở rộng thêm kiến
thức về so sánh.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Tập đọc: "Hai bàn tay em" SGK Tiếng Việt 3 tập I
(Trang 7). Trong bài này có hình ảnh tu từ so sánh, giáo viên cần nhấn mạnh để
gây hứng thú cho tiết học Tiếng Việt tiếp theo là phân môn Luyện từ và câu, với
bài đầu tiên là làm quen với biện pháp tu từ so sánh, giáo viên có thể cho học
sinh trả lời câu hỏi:
+ Hai bàn tay của bé được so sánh với gì? (Hai bàn tay bé được so sánh
với hoa đầu cành)
17



+Em có cảm nhận gì về hai bàn tay của bé qua hình ảnh so sánh trên?
(Hai bàn tay của bé rất đẹp và đáng yêu)
Ví dụ 2: Khi dạy bài Tập đọc “Cửa Tùng”, để giải thích từ ngữ (chiếc
thau đồng, bờ biển Cửa Tùng) GV có thể cho học sinh tìm câu văn có sử dụng
biện pháp so sánh. Học sinh sẽ rất dễ dàng tìm ra câu:
- Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển .
- Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi
cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
Với những câu văn hay như thế, học sinh đã tìm được thì sẽ nhớ rất lâu và
sẽ áp dụng tốt trong việc viết văn của nình
b. Tích hợp biện pháp tu từ so sánh qua các môn học khác:
- Dạy Tự nhiên xã hội:
Khi dạy bài “Các thế hệ trong gia đình’’ Giáo viên có thể cho học sinh
tìm những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ nói về tình cảm của những ngưịi thân
trong gia đình. Học sinh đại trà tìm tự do. Học sinh hồn thành tốt, giáo viên có
thể u cầu cao hơn (có sử dụng biện pháp so sánh)
- Anh em như thể chân tay
- Con hơn cha là nhà có phúc
- Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau một thời gian nghiên cứu và thực nghiệm, để nắm được kết quả học
tập của học sinh lớp tôi về biện pháp tu từ so sánh, tôi đã tiến hành khảo sát học
sinh trong lớp 3B đợt 2 với phiếu bài tập sau:
PHIẾU BÀI TẬP
Bài 1: Đọc các câu thơ, câu văn sau rồi làm bài tập bằng cách điền vào bảng:
a. Những ngón tay thon thon như những búp măng.
b. Cánh đồng trông xa như một tấm thảm màu vàng.
c. Những chú gà con mới nở trông như những hòn tơ nhỏ.

Sự vật được so sánh

Từ so sánh

Sự vật so sánh

Bài 2 : Khoanh tròn vào chữ cái trước câu có hình ảnh so sánh:
a. Nắng là ánh sáng của mặt trời.
b. Nắng là từng dòng lửa xối xuống mặt đất.
c. Nắng tạo ra từng dòng lửa xối xuống mặt đất.
Bài 3: Thêm các từ ngữ vào chỗ chấm để tạo thành câu văn có hình ảnh
so sánh:
a. Những bông hoa …………………………………………………….
18


b. Đôi mắt của em bé ……………………………………………………..
c. Những đám mây trên trời ………………………………………………
d.Tiếng mèo kêu trong đêm …………………………………………….
Bài 4: Em hãy viết một đoạn văn khoảng 3 - 5 câu văn tả đặc điểm của con vật
nuôi mà em yêu thích nhất, trong đó có sử dụng biện pháp so sánh.
Sau khi nghiên cứu và lựa chọn một phiếu bài tập nhằm kiểm tra tổng quát kiến
thức cơ bản về biện pháp so sánh, tôi thu được kết quả như sau:
Bài kiểm tra HS nhận biết được biện pháp tu từ so sánh, HS biết vận dụng biện
pháp tu từ so sánh để viết văn, HS chưa biết vận dụng biện pháp tu từ so sánh để
viết văn.
Kết quả thu được như sau:
Lớp

Tổng số

HS

3B

29

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

TL

SL

TL

SL

18

62,1 %

11

37,9%


0

TL

Qua phiếu bài tập, tôi đã nhận thấy rõ sự tiến bộ của học sinh. Ở bài tập số 1
hầu hết các em làm rất tốt, chỉ có bài tập số 2 vẫn cịn một số ít em nhầm lẫn.
Riêng bài tập số 3, các em làm tốt, các em đã biết chọn những sự vật phù hợp để
so sánh với sự vật cho trước một cách hợp lý và thể hiện được tính nghệ thuật
trong câu văn. Mục tiêu chủ yếu của phân môn Luyện từ và câu là rèn kỹ năng
dùng từ đặt câu. Từ đó bồi dưỡng thói quen dùng từ và viết câu đúng, có ý thức
sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Bám sát mục tiêu môn học, áp dụng các biện
pháp dạy phép so sánh trong Luyện từ và câu, tôi đã rút ra được những kinh
nghiệm trong giảng dạy có hiệu quả. Trong việc vận dụng kinh nghiệm vào thực
tế giảng dạy, trải nghiệm đối với các đối tượng học sinh, tôi nhận thấy đã đạt
được một số kết quả khả quan:
- Các em u thích mơn Tiếng Việt trong đó có phân mơn Luyện từ và
câu, vui vẻ, hào hứng, hăng say trong học tập.
- Các em hoàn thành tương đối tốt các bài tập vận dụng, thực hành.
- Học sinh đã biết dùng từ đặt câu đúng mẫu, đúng nghĩa và có hình ảnh.
Nhiều học sinh đã viết những câu văn, những bài văn có sử dụng biện pháp so
sánh một cách hiệu quả.
- Các em đã biết diễn đạt sự cảm nhận cái hay, cái đẹp của nghệ thuật so
sánh. Hơn thế nữa, thông qua luyện tập nhận biết và vận dụng các biện pháp tu
từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu, các em đã tích luỹ cho mình được
vốn kiến thức về ngơn ngữ nghệ thuật, đồng thời các em cịn được bồi dưỡng
tình cảm u q đồ vật, cây cối, loài vật và thiên nhiên gần gũi với mình.

19



III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu tài liệu và thực tế giảng dạy, tôi thấy việc dạy
cho các em tìm hiểu về các biện pháp nghệ thuật so sánh là cả một quá trình
thường xuyên, liên tục và dần dần đạt được kết quả ở nhiều mức độ. Điều cơ bản
để làm được việc đó là giáo viên cần định hướng để học sinh tự phát hiện kiến
thức mới. Sau đó giáo viên cần nhấn mạnh, chốt lại kiến thức sau khi học sinh
đã hồn thành bài tập. Ta khơng thể ép học sinh phải lập tức làm được điều mình
mong muốn vì “Quy tắc và khái niệm không đi trực tiếp từ đầu giáo viên sang
đầu học sinh” cho nên cần phải kiên trì, tác động liên tục để các em hình thành
được kiến thức và vận dụng các bài học có hiệu quả. Để đạt được điều này đòi
hỏi người giáo viên phải thực sự yêu nghề, tâm huyết với nghề. Phải thực sự coi
học sinh như con và coi tri thức của học sinh là sản phẩm trí tuệ của mình. Vì
vậy người giáo viên phải có sự kiên trì trong các giờ học nói chung và giờ
Luyện từ và câu nói riêng. Đối với những học sinh tiếp thu chậm, giáo viên
tránh nóng vội hay phê bình, mạt sát học sinh mà phải kiên trì uốn nắn, sửa chữa
kịp thời cho các em thật tận tình, chu đáo.
Qua việc áp dụng những biện pháp trên, tôi thấy kỹ năng nhận biết của
học sinh lớp 3 tôi dạy đã được nâng lên đáng kể. Học sinh khơng những nhận
biết mà cịn sử dụng tốt biện pháp so sánh. Góp phần đáng kể vào việc viết văn
và diễn đạt bằng ngôn ngữ của học sịnh. Tôi nghĩ, phương pháp này rất đơn
giản, dễ sử dụng và hiệu quả .
2. Kiến nghị
Đối với giáo viên: Trong q trình dạy học nói chung và dạy học mơn
Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu,
vận dụng nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh.
Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ mà chúng tôi đã thử nghiệm tại đơn vị
để góp phần nâng cao chất lượng dạy, học phân mơn Luyện từ và câu lớp 3. Rất
mong nhận được sự góp ý của Hội đồng khoa học và bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Xác nhận của Hiệu trưởng
Trường TH Lộc Sơn.

Lộc Sơn, ngày 10 tháng 3 năm 2022
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh
nghiệm trên là do bản thân viết, không
sao chép nội dung của người khác.
Người viết

20


Trần Thị Hương

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiếng Việt 3 (Sách giáo viên) - Tập 1 - Nhà xuất bản giáo dục
2. Tiếng Việt nâng cao 3- GS.TS Lê Phương Nga - Nhà XBGD - 2004
3. Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt Tiểu học
4. Vở bài tập nâng cao Luyện Từ và câu - Lớp 3 - GS.TS Lê Phương Nga TS Lê Hữu Tỉnh- Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
5. Tiếng Việt 3 - Tập 1- Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên) - Nhà xuất bản
giáo dục –


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Trần Thị Hương
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Lộc Sơn

TT
1.
2.

3.

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
Kết quả
xếp loại
đánh giá
(Phòng,
xếp loại (A,
Sở,...)
B, hoặc C)

Năm học đánh
giá xếp loại

Một số biện pháp rèn chữ
viết cho học sinh lớp1

Phòng

B


2010 - 2011

Kinh nghiệm giúp học
sinh lớp 3 học tốt phân
mơn Tập đọc

Phịng

B

2014 - 2015

Giúp học sinh lớp 3 học
tốt phần giải tốn có lời
văn

Phịng

B

2017 - 2018



×