TRƯỜNG…
KHOA …
TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ ĐẢNG
Sự phát triển, hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng
khóa I (tháng 11/1939; tháng 11/1940 và Hội nghị tháng
5/1941)
Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,
- 2022
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Đặc điểm tình hình dẫn đến sự phát triển, hồn chỉnh
1.
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc trong các Nghị
quyết Hội nghị Trung ương Đảng khóa I (tháng 11/1939;
1
2
2
tháng 11/1940 và Hội nghị tháng 5/1941)
Sự phát triển, hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng
2.
dân tộc trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng
khóa I (tháng 11/1939; tháng 11/1940 và Hội nghị tháng
4
5/1941)
Kinh nghiệm rút ra từ sự phát triển, hoàn chỉnh đường lối
3.
cách mạng giải phóng dân tộc trong các Nghị quyết Hội
nghị Trung ương Đảng khóa I (tháng 11/1939; tháng
11/1940 và Hội nghị tháng 5/1941)
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
7
14
15
MỞ ĐẦU
Thời kỳ 1939-1945, có vị trí đặc biệt trong tiến trình cách mạng nước ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng;đánh dấu sự phát triển trong nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng về xác định nhiệm vụ chiến lược và chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược cách mạng,phù hợp với tình hình thực tiễn - được thể hiện qua ba nghị
quyết:Nghị quyết Trung ương 6(11/1939), Nghị quyết Trung ương 7(11/1940) và
Nghị quyết Trung ương 8(5/1941).
Cùng với những diễn biến mau lẹ của tình hình trong nước và thế giới địi
hỏi Đảng phải có một quyết sách lớn, bằng một sự chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược phù hợp, nhận thức đúng tính cấp thiết của nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Trên cơ sở đó mà giải quyết những vấn đề như đối tượng cách mạng, lực lượng
cách mạng, phương pháp tổ chức cách mạng trong giai đoạn hiện tại để thực
hiện mục tiêu trước mắt là đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc. Vì “Hồn
cảnh Đơng Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”.
Chủ trương chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ chống đế giải phóng dân tộc
lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” chỉ tịch thu ruộng đất
của đế quốc và những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc. Chủ trương đó được
thơng qua ở ba Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 6,7&8. Vì vậy,
nghiên cứu vấn đề “Sự phát triển, hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng khóa I
(tháng 11/1939; tháng 11/1940 và Hội nghị tháng 5/1941)” làm đề tài tiểu luận
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
1
NỘI DUNG
1. Đặc điểm tình hình dẫn đến sự phát triển, hồn chỉnh đường lối
cách mạng giải phóng dân tộc trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương
Đảng khóa I (tháng 11/1939; tháng 11/1940 và Hội nghị tháng 5/1941)
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 họp từ ngày 06 đến ngày 08
tháng 11 - 1939 tại Bà Điểm, Hóc Mơn, Gia Định do đồng chí Nguyễn Văn Cừ
chủ trì. Hội nghị đã đánh giá tình hình biến đổi trong nước và thế giới, tác động
của chiến tranh. Chiến tranh đã làm đảo lộn trật tự của thế giới cũ làm cho thế
giới rơi vào cuộc khủng hoảng toàn diện, ngày càng trầm trọng hơn. Song cuộc
chiến tranh này sẽ làm suy yếu nền thống trị của chủ nghĩa đế quốc, do đó nó sẽ
tạo điều kiện cho nhân dân các dân tộc bị áp bức vùng dậy đấu tranh “Một thế
giới quang minh rực rỡ sẽ thay thế cho cái thế giới tối tăm, mục nát này” [1,
tr.516].
Về tình hình Đơng Dương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho rằng,
tình hình thế giới biến động sẽ, tác động sâu sắc toàn diện đến mọi mặt đời sống
của Đông Dương. Đông Dương bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh thảm khốc, đời
sống nhân dân ngày càng lâm vào bần cùng, đói khổ. Trong xã hội, các giai cấp,
tầng lớp có sự biến đổi phân hố sâu sắc, người dân Đông Dương bị “áp bức
như trâu ngựa và đẽo rút xương tuỷ” [2, tr.319] làm cho mâu thuẫn giữa các dân
tộc Đông Dương và đế quốc phong kiến Việt gian tay sai ngày càng gay gắt và
sâu sắc hơn. Hội nghị đi sâu phân tích vấn đề dân tộc ở Đông Dương lúc này, chỉ
rõ: Tư tưởng xuyên suốt giải quyết bảo đảm thống nhất giữa lợi ích dân tộc và
lợi ích giai cấp, trong tình hình hiện thời vấn đề dân tộc đang nổi lên gay gắt.
Qua sự phân tích đánh giá tình hình, Hội nghị khẳng định: Con đường
sinh tồn của các dân tộc Đông Dương chỉ có thể là con đường đánh đổ đế quốc
Pháp, chống mọi ách ngoại xâm, một nhận thức rõ ràng: “Đế quốc Pháp cịn,
dân chúng Đơng Dương chết. Đế quốc Pháp chết, dân chúng Đơng Dương cịn”
[3, tr.718].
Tình hình Đơng Dương đã thay đổi, lúc này mục tiêu đấu tranh của nhân
dân Đơng Dương phải hướng vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chứ không thể
2
dừng lại ở mục tiêu đòi dân sinh dân chủ. Trong tình hình mới Hội nghị chủ
trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc, việt gian tay sai giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, tạm gác khẩu hiệu “ Chính quyền
Xơ Viết”, mà chủ trương thành lập chính quyền có sự tham gia của mọi tầng lớp
dân chúng trong phong trào giải phóng dân tộc. Mối quan hệ giữa chống đế quốc
và chống phong kiến, Hội nghị chỉ rõ: Về chiến lược, cách mạng phản đế và
điền địa là hai cái mấu chốt của cách mạng tư sản dân quyền, cách mạng phản
đế, phản phong có quan hệ mật thiết với nhau, khơng thể tách rời. Nhưng “cái
ngun tắc chính ấy” trong tình hình thay đổi hiện thời: “nó phải ứng dụng một
cách khôn khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là
đánh đổ đế quốc” [4, tr.318].
Như vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 (11/1939), Đảng
đã kế thừa tư tưởng chỉ đạo chiến lược mà Cương lĩnh đầu tiên đã hình thành:
phân hoá giai cấp địa chủ, phong kiến tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc để
chĩa mũi nhọn vào kẻ thù nguy hiểm nhất là đế quốc và Việt gian tay sai; và
nâng lên thành một chủ trương lớn tập trung vào mục tiêu chiến lược hàng đầu:
Độc lập tự do cho dân tộc.
Để tập hợp lực lượng cách mạng, Hội nghị quyết định thành lập: “Mặt
trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương” thay cho “Mặt trận dân chủ”
khơng cịn phù hợp, nhằm tập hợp mọi người Việt Nam “có ít nhiều tinh thần
chống đế quốc”. Mục đích của mặt trận là đánh đổ đế quốc Pháp và bọn Việt
gian tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương.
Từ việc xác định nhiệm vụ hàng đầu, mục tiêu trước mắt, Đảng đi vào
giải quyết các vấn đề cơ bản liên quan: Lực lượng cách mạng, phương pháp
cách mạng, chiến thuật tuyên truyền vận động, đặc biệt là yêu cầu xây dựng
Đảng ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 đã đánh dấu sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, xác định đúng đắn vấn đề chủ yếu là tập trung mũi nhọn cuộc đấu tranh vào
3
đối tượng chủ yếu là thực dân Pháp và Việt gian tay sai, chuẩn bị những điều
kiện trực tiếp tiến tới giành chính quyền.
2. Sự phát triển, hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng khóa I (tháng 11/1939;
tháng 11/1940 và Hội nghị tháng 5/1941)
Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc tay sai,
giải phóng dân tộc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là chủ trương hồn tồn
đúng với thực tiễn tình hình cách mạng thế giới và nước ta trong thời kỳ 19391945. Trước nguy cơ tồn vong của dân tộc, trước đòi hỏi bức thiết của nhân dân,
đặt ra cho cách mạng Việt Nam lúc này hơn bao giờ hết phải thực hiện nhiệm vụ
cấp bách, trước mắt là đánh đuổi đế quốc, giành lại độc lập cho dân tộc: “Bước
đường sinh tồn của các dân tộc Đơng Dương khơng có con đường nào khác hơn
là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da
trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập. Đế quốc Pháp cịn, dân chúng
Đơng Dương chết. Đế quốc Pháp chết, dân chúng Đơng Dương cịn” [5, tr.109].
Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là nhiệm vụ thiêng liêng
của Đảng và cách mạng Đông Dương, phù hợp với nguyện vọng chung của tất
cả nhân dân. Bởi vì,thực chất nhiệm vụ giải phóng dân tộc thời kỳ này là trực
tiếp giải quyết một phần vấn đề giai cấp và lợi ích giai cấp, trong giai đoạn hiện
nay ai cũng biết rằng: Nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng của
dân tộc phải chịu kiếp trâu ngựa muôn đời, mà vấn đề ruộng đất cũng không làm
sao giải quyết được.
Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục vụ cho
nhiệm vụ chống đế quốc. Giải thích vấn đề quan hệ giữa hai nhiệm vụ này, Đảng
ta đã chỉ rõ: “Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh
tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì khơng giải
quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại, khơng giải quyết được cách mệnh phản
đế thì khơng giải quyết được cách mệnh điền địa - cái nguyên tắc chính ấy
khơng bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế
4
nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc.
Hiện nay tình hình có đổi mới.... Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy
quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề
điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết” [5, tr.110].
Để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, để tập hợp đông đảo nhất mọi
lực lượng chống đế quốc, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân
tộc phản đế Đông Dương (đến Hội nghị Trung ương 8, tháng 5/1941 đổi là Mặt
trận Việt Minh) nhằm “Liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương dưới nền thống
trị của Đế quốc Pháp, tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế
muốn giải phóng do dân tộc” [5, tr.16].
Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc lên
hàng đầu, Đảng chỉ đạo tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ giai cấp phong kiến” chia
ruộng đất cho dân cày. Song Đảng vẫn khẳng định tính chất của cách mạng
Đơng Dương vẫn khơng đổi “tính chất của cách mạng Đơng Dương vẫn là cách
mạng tư sản dân quyền”, là “cuộc cách mạng gồm có hai tính chất: phản đế và
thổ địa ấy gọi là cách mạng tư sản dân quyền”. Xác định đặt nhiệm vụ đánh đế
quốc lên hàng đầu song khơng có nghĩa Đảng bỏ khơng làm nhiệm vụ điền địa,
“không phải giai cấp vô sản Đông Dương bỏ mất nhiệm vụ điền địa đi đâu, cũng
không phải đi lùi lại một bước, mà chỉ bước một bước ngắn hơn để có sức mà
bước một bước dài hơn” [4, tr.194]. Vì quyền lợi của bộ phận, của giai cấp trong
lúc này phải đặt dưới quyền lợi của toàn thể dân tộc, quyền lợi của nông dân và
thợ thuyền phải đặt dưới quyền lợi giải phóng dân tộc của tồn thể nhân dân. Về
cách mạng điền địa (chống phong kiến) trong lúc này Đảng chủ trương chỉ làm
một bước, chỉ đánh một bộ phận phong kiến địa chủ phản động nhất đi theo đế
quốc chống lại quyền lợi dân tộc, chống lại nguyện vọng giải phóng của tồn thể
nhân dân.
Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế
quốc lên hàng đầu trong thời kỳ 1939 - 1945 của Đảng thể hiện tính cách mạng,
khoa học cao vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc này, vừa là
sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn các cao trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của
5
Đảng, vừa thể hiện sự trung thành và khả năng vận dụng sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng mỗi thời kỳ của Đảng ta.
Trên cơ sở chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đúng với nội
dung cốt lõi “đặt nhiệm vụ đánh đế quốc lên hàng đầu”, Đảng đã từng bước chỉ
đạo toàn dân thực hiện thắng lợi chủ trương đường lối đã xác định. Bằng sự chỉ
đạo linh hoạt sáng tạo, từ việc xác định nhiệm vụ chống đế quốc là nhiệm vụ
hàng đầu song Đảng không chỉ dừng lại ở việc chống đế quốc chung chung, mà
kẻ thù đế quốc lại được Đảng chỉ rõ tính chất nguy hiểm của từng tên đế quốc
trong từng giai đoạn. Nếu năm 1939 Đảng xác định kẻ thù chính là đế quốc Pháp
thì đến 9/1940 khi Nhật nhảy vào Đông Dương, Đảng ta đã chỉ rõ kẻ thù cần
chống là Pháp - Nhật. Nhật vào, với âm mưu độc chiếm Đông Dương từng bước
tước quyền đối với Pháp, thì Đảng lại xác định kẻ thù là Nhật - Pháp. Khi Nhật
thực hiện đảo chính hất cẳng Pháp (9/3/1945) thì Đảng đã nhanh chóng chỉ rõ kẻ
thù trực tiếp duy nhất cần tập trung đánh đổ là phát xít Nhật. Phải nhanh chóng
phát động tồn dân đứng lên giành chính quyền từ tay phát xít Nhật.
Nhờ chủ trương đúng đắn, nhờ sự chỉ đạo linh hoạt, tài giỏi của Đảng,
cách mạng Tháng 8/1945 đã nhanh chóng thành cơng. Đây là một kết quả tất
yếu, một thành quả vĩ đại của toàn Đảng toàn dân tộc đã bền bỉ đấu tranh, không
ngại hy sinh gian khổ. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám là thực tiễn hùng
hồn nhất chứng minh tính đúng đắn sáng tạo của đường lối cách mạng của Đảng
nói chung và chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược thời kỳ 1939 - 1945
nói riêng.
Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế
quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu khơng chỉ có ý nghĩa to lớn quyết định
thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, mà nó cịn có ý nghĩa quan
trọng, là kinh nghiệm quý báu làm cơ sở xác định đường lối chủ trương của
Đảng trong giai đoạn tiếp theo. Là luận cứ khoa học cho Đại hội lần thứ II của
Đảng (02/1951) bổ xung, phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân
tộc,dân chủ nhân dân. Trên cơ sở kiên định mục tiêu nắm bắt tình hình để phát
triển đường lối phù hợp từng giai đoạn; coi trọng mục tiêu chiến lược, đấu tranh
6
với mọi biểu hiện đi chệch hướng mục tiêu cách mạng, song trong từng thời kỳ
cách mạng phải có biện pháp chỉ đạo linh hoạt sáng suốt phù hợp từng hoàn
cảnh mỗi thời kỳ. Bài học quý về giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng thời kỳ 1939 - 1945 được Đảng ta tiếp tục phát triển
trong kháng chiến chống Pháp với việc giải quyết đúng mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ đánh đế quốc và phong kiến, tập trung cho yêu cầu chống Pháp xâm
lược, đồng thời Đảng vẫn tiến hành từng bước nhiệm vụ điền địa như chủ trương
giảm tô, giảm tức, thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến (1953) thắng
lợi, tạo sức cổ vũ hết sức mạnh mẽ cho kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Trong
thời kỳ 1954 - 1975, mối quan hệ đó được phát triển biểu hiện ở đường lối tiến
hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền: Miền Bắc tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tạo sức mạnh tổng hợp cả trong nước và thế giới, sức mạnh dân tộc và thời đại
để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
3. Kinh nghiệm rút ra từ sự phát triển, hoàn chỉnh đường lối cách
mạng giải phóng dân tộc trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng
khóa I (tháng 11/1939; tháng 11/1940 và Hội nghị tháng 5/1941)
Những chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong thời kỳ này được
thông qua ở ba Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6, 7, 8, chứng tỏ
Đảng đã nhận thức sâu sắc tính chất thuộc địa nửa phong kiến của Việt Nam,
trong thời điểm lịch sử có tính chất quyết định cần phải biết tập trung mũi nhọn
đánh đổ kẻ thù nguy hiểm nhất của dân tộc, của giai cấp là bọn đế quốc và tay
sai của chúng giành cho được độc lập tự do. Đây là một chủ trương hết sức khôn
khéo và sáng suốt của Đảng, nhằm tập trung được hết thảy mọi lực lượng, tạo ra
sức mạnh to lớn để giải quyết nhiệm vụ chủ yếu, đồng thời cũng qua đó mà củng
cố khối liên minh cơng nơng vững chắc thêm.
Chính từ chủ trương giải quyết đúng đắn mối quan hệ chống đế quốc
chống phong kiến của Đảng, thời kỳ này là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn tới
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, là kinh nghiệm để Đảng ta tiếp
tục giải quyết mối quan hệ chống đế quốc và chống phong kiến trong cuộc
7
kháng chiến chống Pháp sau này. Chiến tranh với những sự tàn khốc và những
đau thương, đã thức tỉnh, lay động quần chúng đứng dậy. Chiến tranh thế giới
thứ hai đã làm chuyển biến sâu sắc tình hình chính trị, kinh tế - xã hội thế giới,
đã thúc đẩy làm xuất hiện tình thế cách mạng ở một loạt nước trên thế giới, nhất
là các nước thuộc địa. Đó là tình thế mà: “dân các nước tư bản địi giải phóng.
Dân tộc các thuộc địa địi độc lập” và nhận định : “Cách mạng giải phóng dân
tộc Đơng Dương sẽ thắng!”.
Cách mạng Tháng Tám năm1945 là một trong những trang sử vẻ vang
chói lọi nhất trong lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc ta, đập tan ách thống trị
của Đế quốc thực dân gần một trăm năm, lật đổ chế độ phong kiến hàng ngàn
năm; đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập tự do; đưa nhân
dân ta từ địa vị nô lệ lên làm chủ đất nước...Thắng lợi đó là kết quả tổng hợp của
nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan. Nhưng trước hết đó là kết quả tất yếu
của sự lãnh đạo tài giỏi của Đảng Cộng sản Việt nam với một đường lối, chủ
trương đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo.
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong thời kỳ
1939- 1945 với nội dung cốt lõi là tư tưởng “nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, tạm gác khẩu
hiệu cách mạng ruộng đất”, là thể hiện sự nhận thức và giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là chống đế
quốc và chống phong kiến.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến của Đảng ta trong thời kỳ 1939- 1945 là chủ trương hoàn toàn
đúng đắn vừa mang tính cách mạng, khoa học vừa thể hiện năng lực sáng tạo
của Đảng. Đó là thể hiện sự nhất quán với tư tưởng về việc giải quyết mối quan
hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến trong Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng; sự kế thừa phát triển tư tưởng của Luận cương tháng 10/1930; là kết
quả của sự tổng kết kinh nghiệm của thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam
thời kỳ 1930 - 1931 và thời kỳ 1936 - 1939; sự trung thành và vận dụng sáng tạo
8
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn tình hình cách mạng thế giới và Việt
Nam thời kỳ 1939 -1945.
Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay khi mới ra đời (3/2/1930) trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam và mối quan hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ ấy. Tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng ở Việt Nam phải đồng thời tiến hành hai
nhiệm vụ là “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, nhằm mục
tiêu “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” và đem lại “ruộng đất cho dân
cày nghèo”. Tư tưởng đánh cả đế quốc và phong kiến thể hiện Đảng ta đã nắm
chắc thực tiễn, đặc trưng cơ bản của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến,
với sự cấu kết chặt chẽ giữa hai kẻ thù đế quốc và phong kiến nhằm đàn áp bóc
lột nhân dân ta. Hai nhiệm vụ chiến lược đó của cách mạng Việt Nam tiếp tục
được khẳng định trong thời kỳ 1939 - 1945 cùng với việc xác định lúc này phải
đề cao nhiệm vụ đánh đế quốc, phải đặt nhiệm vụ đánh đế quốc giải phóng dân
tộc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đó là sự nhận thức đúng tư tưởng của
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng trong tình hình mới.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến thời kỳ 1939 - 1945 cũng thể hiện sự kế thừa và bước phát
triển mới tư tưởng trong Luận cương chính trị tháng 10/1930 của Đảng. Do
nhiều nguyên nhân, Luận cương chính trị tháng 10/1930 cịn q nhấn mạnh vấn
đề giai cấp, chưa đánh giá đúng mức vị trí của vấn đề dân tộc và giải phóng dân
tộc, nên chưa có chủ trương phù hợp để tập hợp đơng đảo các giai tầng trong xã
hội, đồn kết xung quanh hai giai cấp công nhân và nông dân tạo sức mạnh tổng
hợp cho cách mạng. Do vậy, chủ trương “nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
đặt nhiệm vụ đánh đế quốc lên hàng đầu” trong thời kỳ này là sự tiếp nối tư
tưởng về hai nhiệm vụ chiến lược trong Cương lĩnh đầu tiên và khắc phục mặt
hạn chế trong Luận cương chính trị về vấn đề xác định mục tiêu và nhiệm vụ
chủ yếu, kẻ thù chủ yếu; vấn đề giải phóng dân tộc và đồn kết các lực lượng.
Chủ trương giải quyết đúng mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc
và chống phong kiến trong thời kỳ 1939 - 1945 của Đảng cũng là kết quả của sự
9
tổng kết kinh nghiệm của thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam thời kỳ
1930 - 1931 và1936 - 1939.
Ngay sau khi thành lập (3/2/1930), nhờ có chủ trương đúng, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân ta đồng thời đánh cả đế quốc và phong kiến nhằm mục tiêu
giành quyền dân chủ, tự do cho nhân dân lao động. Thực tiễn, Đảng đã phát
động được một phong trào cách mạng rộng lớn khắp cả nước mà đỉnh cao là Xô
viết Nghệ Tĩnh. Cao trào đã xứng đáng là cuộc Tổng diễn tập lần thứ nhất của
Đảng chuẩn bị cho cách mạng Tháng Tám.
Thời kỳ 1936 - 1939, khi tình hình cách mạng có diễn biến mới, với sự
xuất hiện của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới đặt ra cùng với
chính sách vơ vét bóc lột của đế quốc thực dân trong nước; Đảng đã xác định
đúng chủ trương, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng là “chống phát xít, chống
chiến tranh, địi tự do dân chủ, cơm áo và hồ bình”.Nhờ chủ trương đúng và
mục tiêu nhiệm vụ sát hợp, cùng sự chỉ đạo linh hoạt, Đảng ta đã phát động
được một phong trào đấu tranh địi dân sinh, dân chủ, cơm áo, hồ bình, một
cách mạnh mẽ, hiếm có ở một xứ thuộc địa từ trước đến nay; tạo ra trận địa
vững chắc và lực lượng chính trị hùng hậu, thực sự là cuộc Tổng diễn tập lần thứ
hai chuẩn bị cho cách mạng Tháng Tám.
Qua thực tiễn kinh nghiệm, tổng kết từ hai phong trào cách mạng 19301931 và 1936 - 1939 đã giúp cho Đảng ta nhận thức đúng về vấn đề dân tộc, là
vấn đề có ý nghĩa bao trùm và gắn bó chặt chẽ với vấn đề giai cấp. Đánh giá
đúng vị trí vấn đề dân tộc, xác định đúng mục tiêu, đáp ứng đúng nguyện vọng
của toàn thể nhân dân, của dân tộc là yêu cầu quan trọng hàng đầu để tập hợp
lực lượng đông đảo tạo sức mạnh tổng hợp to lớn cho cách mạng.
Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc tay sai,
giải phóng dân tộc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là chủ trương hồn tồn
đúng với thực tiễn tình hình cách mạng thế giới và nước ta trong thời kỳ 19391945. Trước nguy cơ tồn vong của dân tộc, trước đòi hỏi bức thiết của nhân dân,
đặt ra cho cách mạng Việt Nam lúc này hơn bao giờ hết phải thực hiện nhiệm vụ
cấp bách, trước mắt là đánh đuổi đế quốc, giành lại độc lập cho dân tộc: “Bước
10
đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn
là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da
trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập. Đế quốc Pháp cịn, dân chúng
Đơng Dương chết. Đế quốc Pháp chết, dân chúng Đơng Dương cịn” [5, tr.536].
Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là nhiệm vụ thiêng liêng
của Đảng và cách mạng Đông Dương,phù hợp với nguyện vọng chung của tất cả
nhân dân. Bởi vì,thực chất nhiệm vụ giải phóng dân tộc thời kỳ này là trực tiếp
giải quyết một phần vấn đề giai cấp và lợi ích giai cấp, trong giai đoạn hiện nay
ai cũng biết rằng: Nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng của dân
tộc phải chịu kiếp trâu ngựa muôn đời, mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao
giải quyết được.
Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục vụ cho
nhiệm vụ chống đế quốc. Giải thích vấn đề quan hệ giữa hai nhiệm vụ này, Đảng
ta đã chỉ rõ: “Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh
tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì khơng giải
quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại, khơng giải quyết được cách mệnh phản
đế thì khơng giải quyết được cách mệnh điền địa - cái nguyên tắc chính ấy
khơng bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế
nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc.
Hiện nay tình hình có đổi mới....Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy
quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề
điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết” [5, tr.538-539].
Để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, để tập hợp đông đảo nhất mọi
lực lượng chống đế quốc, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân
tộc phản đế Đông Dương ( đến Hội nghị Trung ương 8, tháng 5/1941 đổi là Mặt
trận Việt Minh) nhằm “Liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương dưới nền thống
trị của Đế quốc Pháp, tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế
muốn giải phóng do dân tộc” [5, tr.555].
11
Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc lên
hàng đầu, Đảng chỉ đạo tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ giai cấp phong kiến” chia
ruộng đất cho dân cày. Song Đảng vẫn khẳng định tính chất của cách mạng
Đơng Dương vẫn khơng đổi “tính chất của cách mạng Đông Dương vẫn là cách
mạng tư sản dân quyền”, là “cuộc cách mạng gồm có hai tính chất: phản đế và
thổ địa ấy gọi là cách mạng tư sản dân quyền”. Xác định đặt nhiệm vụ đánh đế
quốc lên hàng đầu song khơng có nghĩa Đảng bỏ không làm nhiệm vụ điền địa,
“không phải giai cấp vô sản Đông Dương bỏ mất nhiệm vụ điền địa đi đâu, cũng
không phải đi lùi lại một bước, mà chỉ bước một bước ngắn hơn để có sức mà
bước một bước dài hơn” [5, tr.542]. Vì quyền lợi của bộ phận, của giai cấp trong
lúc này phải đặt dưới quyền lợi của tồn thể dân tộc, quyền lợi của nơng dân và
thợ thuyền phải đặt dưới quyền lợi giải phóng dân tộc của toàn thể nhân dân. Về
cách mạng điền địa (chống phong kiến) trong lúc này Đảng chủ trương chỉ làm
một bước, chỉ đánh một bộ phận phong kiến địa chủ phản động nhất đi theo đế
quốc chống lại quyền lợi dân tộc, chống lại nguyện vọng giải phóng của toàn thể
nhân dân.
Để thực hiện một bước nhiệm vụ điền địa, Đảng ta đã xác định khẩu hiệu
đấu tranh lúc này là: “chống bọn ăn cướp đất... chống địa tơ cao, chống vay nặng
lời...” [5, tr.534]. Chính sách ruộng đất của Đảng lúc này là “tịch kỳ và quốc hữu
hoá ruộng đất của đế quốc thực dân, cố đạo và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của
bọn phản bội, bọn cố đạo, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng
nơng dân cày cấy” [6, tr.76]. Chính sách điền địa và khẩu hiệu đấu tranh của
Đảng vừa thực hiện làm trung lập phân hố kẻ thù, lơi kéo bộ phận lớn địa chủ
phong kiến có tinh thần dân tộc đi theo cách mạng, làm cô lập đế quốc thực
dân và tay sai phản động. Vừa cổ vũ động viên, bồi dưỡng tinh thần cách
mạng của đông đảo nông dân hăng hái cùng giai cấp công nhân làm nịng cốt
phong trào chống đế quốc giải phóng dân tộc. Chính sách điền địa của Đảng
đã góp phần tập trung lực lượng, nhằm đánh đúng kẻ thù chính của cách
mạng. Vì theo Đảng ta: “Trong lúc này kẻ thù chính của nhân dân Đông
Dương là đế quốc chủ nghĩa Pháp, Nhật. Kẻ thù phụ là phong kiến bản xứ”.
12
Lực lượng cách mạng là đông đảo quần chúng nhân dân, trong đó “chủ lực
cách mạng là giai cấp vơ sản; sức dự trữ trực tiếp của cách mạng là: Trung
bần nông...và địa chủ phản đế” [6, tr.77].
Như vậy, chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ
đánh đế quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng là hoàn toàn đúng với
thực tiễn kẻ thù của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng yêu cầu giải quyết mâu
thuẫn cơ bản, chủ yếu nhất của xã hội Việt Nam: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với đế quốc tay sai; phù hợp với nguyện vọng bức thiết của đông đảo quần
chúng nhân dân.
13
KẾT LUẬN
Ngày nay, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới hồ bình xây
dựng đất nước. Chúng ta càng cần kiên trì khẳng định con đường chủ nghĩa xã
hội mà Đảng và Bác Hồ đã chọn, phải giải quyết đúng mối quan hệ chặt chẽ
giữa hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với tinh thần: trong khi
không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phải đặt lên hàng đầu nhiệm
vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng và bảo vệ đất nước phải biết lựa chọn đúng những khâu trọng
tâm đột phá, lựa chọn hình thức, bước đi và cách làm phù hợp nhằm mục tiêu ổn
định và phát triển đất nước bền vững vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi quan điểm tư
tưởng muốn phủ nhận vai trò của Đảng, phủ nhận thành quả và công lao vĩ đại
của Đảng trong cách mạng Tháng Tám, phủ nhận chủ trương đúng và sự chỉ đạo
sắc bén của Đảng trong thời kỳ 1939 - 1945 cũng như mọi sự xuyên tạc đường
lối của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối đổi
mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 1, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2000.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 2, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2000.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 4, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2000.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 5, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2000.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 6, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2000.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 7, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2000.
15