Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận Triết học: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận và tập vận dụng xử lý một số tình huống đơn giản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.14 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TIỂU LUẬN

Triết học Mác Lênin
Khóa: …./ Lớp: ……
Nhóm 6

Hà Nội, Tháng 10 Năm 2019

Mục Lục
1

Lý luận về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

4

1.1

Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức

4

1.2

Ý thức tác động trở lại vật chất

6


2



Ý nghĩa phương pháp luận:

3

Vận dụng xử lý tình huống đơn giản

7
10

1.3

Vận dụng xử lý từ các tình huống mang tính cá nhân:

10

1.4

Vận dụng xử lý các tình huống mang tính vĩ mơ:

11

1.5

Rút ra lối tư duy giải quyết các vấn đề một cách tổng quát nhất:

14

Trang 2/18



LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới xung quanh ta có vơ vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng.
Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và
ý thức. Trên cơ sở những thành tựu của chủ nghĩa duy vật, khoa học và thực tiễn
xã hội, triết học Mác- Lênin đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trên. Có rất
nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đề về mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác- Lênin là đúng và đầy đủ
nhất: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất sinh ra và quyết định sự
ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất.
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật
chất diễn ra theo 2 hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng,
có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động
của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt
qua những thách thức trong q trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được
cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức. Cịn nếu ý thức của con người phản
ánh khơng đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ
đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược với các quy luật khách quan,
hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực
khách quan.
Để làm rõ hơn mối quan hệ về vật chất và ý thức đồng thời vận dụng được các
quan điểm ấy vào thực tiễn, chúng em quyết định chọn vấn đề: Phân tích mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Từ đó xây dựng ý nghĩa phương
pháp luận và tập vận dụng xử lý một số tình huống đơn giản

Trang 3/18


1


Lý luận về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Quan điểm triết học Mác-Lênin đã khẳng định mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan
hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý
thức khơng hồn tồn thụ động mà nó có thể tác
động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người.
1.1

Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người
lên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế
giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật
chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự
phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa
học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc
người, thế giới ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người nên chỉ khi có con người khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện
tượng phản ánh, lao động, ngơn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế
giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng
phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật
chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát

triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy
luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc
lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà cịn quyết định cả
hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Trang 4/18


Lênin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện sâu sắc và khoa học về phạm trù vật
chất “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác’’.
Từ định nghĩa của Lênin cũng đã khẳng định: vật chất là thực tại khách quan,
vào bộ não con người thông qua tri giác và cảm giác” .Thật vậy, vật chất là nguồn
gốc của ý thức và quyết định nội dung của ý thức .
Thứ nhất, bộ óc con người phải phát triển ở trình độ cao thì mới có sự ra đời
của ý thức. Phải có thế giới xung quanh là tự nhiên và xã hội bên ngoài con người
mới tạo ra được ý thức, hay nói cách khác ý thức là sự tương tác giữa bộ não con
người và thế giới khách quan. Thử giả dụ, nếu một ngày nào đó sinh ra mà bộ não
khơng hoạt động được hay khơng có não bộ thì đương nhiên khơng thể có ý thức
được . Giống như câu chuyện cậu bé sống trong rừng cùng bày đàn sói và khơng
tiếp xúc với xã hội lồi người thì sau khi trở về xã hội loài người hành động của
cậu ta giống như những con sói – tức là khơng có ý thức về hành vi của lồi người.
Thứ hai, là phải có lao động và ngơn ngữ đây chính là nguồn gốc xã hội của ý
thức. Nhờ vào có lao động mà các giác quan của con người phản ánh tinh tế hơn
đối với hiện thực,… ngôn ngữ là cầu nối để trao đổi về kinh nghiệm hay tình cảm ,
hay là phương tiện để thể hiện ý thức . Và ở đây, cũng có thể thấy rằng nguồn gốc
của xã hội mang ý nghĩa quyết định hơn cho sự ra đời của ý thức.
Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý thức lên khi vật chất thay
đổi thì ý thức cũng thay đổi theo.
Ví dụ: Trẻ em vùng sâu vùng xa thường yếu về công nghệ thông tin do thiếu

điều kiện về cơ sở vật chất , máy móc và người có trình độ giảng dạy. Nhưng nếu
vấn đề vật chất được đáp ứng thì trình độ công nghệ thông tin của các em sẽ tốt
hơn rất nhiều. Từ ví dụ này, thấy rằng vật chất thế nào thì ý thức như thế đó.Vật
chất quyết định ý thức.

Trang 5/18


1.2 Ý thức tác động trở lại vật chất
Trước hết chúng ta đưa ra định nghĩa của ý thức: “Ý thức là sự phản ánh sáng
tạo thế giới khách quan vào trong não bộ con người thông qua lao động và ngơn
ngữ. Nó là tồn bộ hoạt động tinh thần của con người như tình cảm yêu thương,
tâm trạng, cảm xúc, lý trí, tập qn, truyền thống, thói quen, quan điểm, tư tưởng ,
lý luận,….”
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thơng
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trị của ý thức là nói đến vai
trị của con người. Bản thân ý thức tự nó khơng trực tiếp thay đổi được gì trong
hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật
chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trị của ý
thức khơng phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho
con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục
tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp,
công cụ, phương tiện, .... để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện
sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực
hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm
cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy
luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình
thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực của

ý thức. Cịn nếu ý thức của con người phản ánh khơng đúng hiện thực khách quan,
bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã
đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với
hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Các yếu tố tinh thần đều có tác dụng trở lại vật chất một cách mạnh mẽ.
Ví dụ: Nếu tâm trạng người cơng nhân mà khơng tốt thì sẽ làm giảm năng suất
của một dây chuyền trong sản xuất nhà máy. Bằng chứng rõ hơn là đường lối cách
Trang 6/18


mạng đúng đắn của Việt Nam , nếu khơng có đường lối đúng đắn của Đảng thì dân
tộc ta cũng không thể thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Pháp
và Mĩ cũng như Lênin từng nói :’’ Khơng có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể
có phong trào cách mạng’’.
Như vậy, ý thức khơng hồn tồn phụ thuộc vào vật chất mà ý thức có thể tác
động trở lại. Vật chất đóng vai trị cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt
động thực tiễn của con người.
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thúc đẩy hoạt động
hoạt động thực tiễn của con người qua quá trình cải tạo thế giới vật chất. Khi phản
ánh đúng hiện thực khách quan thì chúng ta hiểu bản chất quy luật vận động của
các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Ý thức phản ánh khơng đúng thực tại khách quan có thể kìm hãm hoạt động
thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới quan
2 Ý nghĩa phương pháp luận:
Dựa trên những cơ sở quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vật chất,
ý thức và mối quan hệ giữa vật chất ý thức nêu trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng
đã xây dựng nên nguyên tắc phương pháp luận chung nhất, cơ bản nhất đối với
hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người: “ Trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn, cần xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời
phát huy tính năng động chủ quan”.

Đầu tiên, “Xuất phát từ thực tế khách quan, tơn trọng khách quan” có nghĩa là
lấy thực tế khách quan là xuất phát của vật chất, đồng thời phải có thái độ tơn trọng
với hiện thực khách quan – tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy
luật; tơn trọng vai trị quyết định của đời sống vật chất với đời sống tinh thần của
con người và xã hội. Do vật chất có vai trò quyết định ý thức và ý thức là sự phản
ánh vật chất (đã nếu ở trên), nên trong giải quyết các vấn đề nhận thức và thực
tiễn, phải lấy khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động. Bên cạnh đó, phải tơn
trọng sự thật khách quan, tránh thái độ chủ quan, nóng vội, định kiến, thiếu trung
thực. Nhận thức đúng đắn khách quan chính là tiền đề xác định mục tiêu, đường
Trang 7/18


lối, chính sách sao cho phù hợp để từ đó trở thành cơ sở cho hoạt động thực tiễn
của chủ thể. Trong lịch sử, V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh khơng được lấy ý
muốn chủ quan của mình làm chính sách, khơng được lấy tình cảm làm điểm xuất
phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu con người chỉ dựa vào ý nghĩ
chủ quan, khát vọng, niềm tin của bản thân mà không dựa trên những quy luật
khách quan thì sẽ mắc bệnh chủ quan duy ý chí - lấy ý chí chủ quan áp đặt cho
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực.
Trên thực tế, có rất nhiều cá nhân mắc phải chứng bệnh chủ quan duy ý chí, đi
theo chủ nghĩa kinh nghiệm mà không xem xét, cân nhắc về các quy luật khách
quan, dẫn đến nhận thức sai về thế giới. “Chủ nghĩa kinh nghiệm” hay chủ nghĩa
duy nghiệm (Empiricism) là một khuynh hướng lý thuyết về tri thức triết học với
đặc điểm nhấn mạnh vai trị của trải nghiệm. Trải nghiệm có thể được hiểu là bao
gồm tất cả các nội dung của ý thức hoặc nó có thể được giới hạn trong dữ liệu của
các giác quan mà thôi. (Wikipedia, 2018). Chủ nghĩa kinh nghiệm chỉ được kiểm
nghiệm bằng cách quan sát về thế giới tự nhiên, quan hệ chặt chẽ với trải nghiệm.
Mà khi đặt trong mối tương quan giữa các sự vật và hiện tượng thì mọi sự vật, hiện
tượng đều phải đặt trong sự ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau, có nghĩa là, hiện
tượng này xảy ra sẽ kéo theo sự vật, hiện tượng khác và ngược lại.

Ví dụ: Trong ca dao, dân ca Việt Nam có câu:
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”
Đây là một câu ca dao, tục ngữ về kinh nghiệm quan sát thời tiết của cha ơng,
tuy nhiên nó hồn tồn chỉ dựa trên kinh nghiệm chứ khơng hề có sự kiểm chứng
khoa học. Trên cơ sở của mối tương quan giữa sự vật ,hiện tượng, nếu trời mưa thì
chuồn chuồn bay thấp, vậy ngược lại, nếu muốn mưa thì chỉ cần làm cho chuồn
chuồn bay thấp là được, tuy nhiên, điều này là không xảy ra. Từ đó, có thể thấy,
con người khơng nên chỉ dựa vào kinh nghiệm, vì khơng phải kinh nghiệm là luôn
đúng, và cũng không được áp dụng một cách cứng nhắc các kinh nghiệm chủ quan
vào giải quyết các vấn đề thực tế đời sống mà không cần xem xét các yếu tố khách
quan sẵn có.

Trang 8/18


Tuy nhiên, nếu con người không chỉ một mực xuất phát từ thực tế khách quan
mà không kết hợp, phát huy tính năng động chủ quan thì sẽ gây ra “bệnh bị động”.
Theo cở sở lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, ý thức có thể tác động trở lại vật
chất thông qua hoạt động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn nên con
người phải phát huy tính năng động chủ quan.
Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trị tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức và phát huy vai trị nhân tố con người trong việc vật chất hóa
tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Bản thân ý thức tự nó khơng trực tiếp thay
đổi được gì trong hiện thực mà ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực
phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực
tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua
hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu nhận thức cho được quy luật khách
quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, phải có ý chí, phải có phương
pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người
những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, con

người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Tiếp
theo, con người với ý thức của mình xác định các biện pháp để thực hiện tổ chức
các hoạt động thực tiễn. Cuối cùng, bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình,
con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Ở đây ý thức, tư tưởng có thể
quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng
đắn, sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục
tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm
cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách
quan. Vì vậy, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai
trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc
phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình
đổi mới hiện nay.

Trang 9/18


3

Vận dụng xử lý tình huống đơn giản

Từ những phân tích về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức cùng ý nghĩa
phương pháp luận, con người hoàn toàn có thể vận dụng vào giải quyết các vấn đề
đơn giản trong thực tiễn và nhận thức
1.3 Vận dụng xử lý từ các tình huống mang tính cá nhân:

Trước hết, có thể vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
vào trong các vấn đề nhỏ như cuộc sống học tập của sinh viên. Đầu tiên, vật chất
quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát
từ thực tế khách quan. Vì vậy, bản thân mỗi người phải tự xác định được các điều
kiện khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống học tập của bản thân. Ví dụ: Sinh viên

Đại học Kinh tế Quốc Dân phải ưu tiên việc tự học hàng đầu để có thể đạt được kết
quả tốt nhất, trong khi học ở trên một phần thì cần đọc bài trước và xem lại bài khi
về nhà, trong khi quỹ thời gian chỉ có 24h/ngày. Điều đó địi hỏi sinh viên phải có
sự cân nhắc theo điều kiện chủ quan là quỹ thời gian có hạn mà phải học nhiều
mơn, để từ đó lên thời gian biểu cho hợp lý. Mặt khác, mỗi người cần phải đặc
biệt chú ý tơn trọng tính khách quan và hành động theo các quy luật mang tính
khách quan, thể hiện qua một số hành động như: tuân thủ theo thời khóa biểu mà
mỗi khoa đã giao cho sinh viên để đi học đúng giờ, tham dự các tiết học đầy đủ,
v.v.... Ngoài ra, cần phải tuân thủ theo đúng nội quy nhà trường, chấp hành đúng kỷ
luật đặc biệt là những quy chế về việc cấm thi, học lại… Thứ hai, vì ý thức có sự
tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động chủ quan tức
là phải phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức. Điều này có thể
được kiểm chứng rõ rệt trong cách nhà trường cho sinh viên được tự đăng ký tín
chỉ, tạo điều kiện cho sinh viên tự lập, xây dựng lịch học cho bản thân một cách
linh động, phát huy sức sáng tạo, năng động của mình.Ngồi ra, trong kết cấu của ý
thức thì tri thức là yếu tố quan trọng nhất.Tri thức là phương thức vận động và tồn
Trang 10/18


tại của ý thức. Chình vì vậy, sinh viên cần phải tích cực trong học tập, chủ động
tìm hiểu và khai thác vấn đề, khi học bài không quá phụ thuộc vào giảng viên mà
thay vào đó nên suy nghĩ những ý tưởng mới của riêng mình như tìm đến kho kiến
thức của thư viện hoặc tài liệu trên mạng Internet để trau dồi vốn kiến thức chuyên
ngành. Tuy nhiên những tri thức tiếp thu từ sách vở là chưa đủ, xã hội ln địi hỏi
mỗi người phải có một vốn kỹ năng sống dày dặn, chính vì thế mỗi sinh viên cần
năng động, tham gia các hoạt động xã hội hoặc đi tìm việc làm thêm để có thêm
trải nghiệm. Cuối cùng, cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh
bảo thủ trì trệ. Cụ thể là cần phải tiếp thu có chọn lọc những ý kiến mới, việc hôm
nay không nên để ngày mai, khơng chủ quan trước mọi tình huống, phải biết lắng
nghe và tiếp thu sự góp ý của người khác.

1.4 Vận dụng xử lý các tình huống mang tính vĩ mơ:
Khơng chỉ áp dụng trong xử lý các tình huống cá nhân, trong các tình huống
rộng hơn như xây dựng Nhà nước cũng phải vận dụng các điều kiện khách quan và
chủ quan. Trước tiên, theo nguyên lý vật chất quyết định ý thức là phải xuất phát từ
thực tế khách quan và hành động theo nó từ đó xây dựng xã hội theo con đường xã
hội chủ nghĩa.Trước thời kì đổi mới, khi mà cơ sở vật chất còn chưa có chúng ta
vội vàng nơn nóng muốn đốt cháy giai đoạn nên đã phải trả giá. Ở thời kì này
chúng ta phát triển quan hệ sản xuất trước lực lượng sản xuất mà khơng nhìn thấy
vai trị quyết định của lực lượng sản xuất. Khi đó, nước ta là nước nông nghiệp với
hơn 90% tham gia ngành này nhưng lại xây dựng các nhà máy công nghiệp trong
khi lực lượng sản xuất chưa phát triển cộng với việc phân công không hợp lý của
Đảng và Nhà nước….quyền lực quá tập trung vào Đảng, và Nhà nước quản lý quá
nhiều các mặt của đời sống xã hội, thực hiện quá cứng nhắc làm cho toàn xã hội
thiếu sức sống, thiếu năng động và sáng tạo,. Các giám đốc thời kì này chỉ đến
ngồi chơi xơi nước và cuối tháng lĩnh lương, các nông dân và công nhân làm đúng
giờ quy định nhưng hiệu quả không cao... Ở đây chúng ta đã xem nhẹ thực tế phức
tạp khách quan của thời kì quá độ, chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên
xã hội chủ nghĩa là quá trình lịch sử lâu dài và phải trải qua nhiều chặng đường.

Trang 11/18


Từ đây, chúng ta phải có cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa và cơ sở vật chất
phát triển. Chúng ta phải xây dựng lực lượng sản xuất phù hợp quan hệ sản xuất.
Chúng ta có thể bỏ qua tư bản chủ nghĩa nhưng không thể bỏ qua những tính quy
luật chung của q trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Chúng ta cũng phải biết
kế thừa và phát triển tích cực những kết quả của công nghiệp tư bản như thành tựu
khoa học, kỹ thuật và công nghệ - môi trường, là cơ chế thị trường với nhiều hình
thức cụ thể tác động vào quá trình phát triển kinh tế.
Để vực nền kinh tế lạc hậu của nước nhà, Đảng xác định là phải phát triển nền

kinh tế nhiều thành phần để tăng sức sống và năng động cho nền kinh tế, phát triển
lực lượng sản xuất. Phát triển các quan hệ hàng hoá và tiền tệ và tự do buôn bán,
các thành phần kinh tế tự do kinh doanh và phát triển theo khuôn khổ của pháp
luật, được bình đẳng trước pháp luật. Mục tiêu là làm cho thành phần kinh tế quốc
doanh và tập thể đóng vai trị chủ đạo. Song song q trình phát triển nền kinh tế
hàng hố nhiều thành phần thì chúng ta cũng cần phát triển nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nền kinh tế thị trường ở nước ta còn
đang ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng hàng hoá và chủng loại hàng
hoá quá nghèo nàn, khối lượng hàng hố lưu thơng trên thị trường và kim ngạch
xuất nhập khẩu cịn q nhỏ, chi phí sản xuất lại quá cao dẫn đến giá thành cdao,
nhưng chất lượng mặt hàng là kém. Nhiều loại thị trường quan trọng cịn ở trình độ
sơ khai hoặc mới đang trong q trình hình thành như: thị trường vốn, thị trường
chứng khốn, thị trường sức lao động...
Chúng ta cũng cần mở rộng giao lưu kinh tế nước ngồi, nhanh chóng hội
nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, AFTA và các hiệp định song phương
đồng thời phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Muốn vậy, ta phải đa phương
hố và đa dạng hóa hình thức và đối tác, phải qn triệt trên ngun tắc đơi bên
cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và khơng phân biệt chế
độ chính trị - xã hội phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong quan
Trang 12/18


hệ kinh tế quốc dân nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên đất
nước, tăng xuất nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ hiện đại và kinh
nghiệm quản lý. Cùng với đó cũng cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển cơ
sở hạ tầng,…
Từ đó ta có thể thấy rõ một bài học quan trọng là:’’ Mọi đường lối chủ trương
của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan’’. [Đảng Cộng
sản Việt Nam:Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, 1991]

Không chỉ vậy,để xây dựng xã hội chủ nghĩa cũng cần hiểu sâu sắc tác động
của ý thức đối với vật chất.Một trong chủ trương quan trọng là phải lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng
Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lênin là sự thống nhất giữa chủ nghĩa
Mác - Lênin và thực tiễn của đất nước Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã bảo vệ
và quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin đúng đắn và hiệu quả nhất. Như vậy muốn
hiểu sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm vững chủ nghĩa Mác Lênin, nhất là phép biện chứng duy vật và phải nghiên cứu nắm vững thực tiễn,
chúng ta cần tập trung vào hai mặt:
- Một là, về mục tiêu, lý tưởng và đạo đức lối sống.
- Hai là, về yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, mỗi
người trên cương vị trách nhiệm của mình, phải hồn thành nhiệm vụ với hiệu quả,
chất lượng cao. Vì vậy, chúng ta phải đề cao ý chí phấn đấu, phấn đấu khơng mệt
mỏi, khơng sợ hy sinh, gian khổ đồng thời trau dồi kiến thức.
Vai trò ý thức tác động lại vật chất cũng phải được hiện rõ ở khía cạnh phát huy tính
năng động và tích cực và vai trị trung tâm của con người, một số giải pháp cho vấn
đề này:
- Đổi mới hệ thống chính trị dân chủ hố đời sống xã hội nhằm phát huy
đầy đủ tính tích cực và quyền làm chủ của nhân dân.
Trang 13/18


- Đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội phù hợp
có ý nghĩa then chốt trong việc phát huy tính tích cực của người lao động như: cơ
chế quản lý mới phải thể hiện rõ bản chất của một cơ chế dân chủ, và cơ chế này
phải lấy con người làm trung tâm, vì con người, hướng tới con người là phát huy
mọi nguồn lực. Cơ chế quản lý mới phải xây dựng đội ngũ quản lý có năng lực và
phẩm chất thành thạo về nghiệp vụ.
- Đảm bảo lợi ích của người lao động là động lực mạnh mẽ của quá trình
nâng cao tính tích cực của con người: cần quan tâm đúng mức đến lợi ích vật chất,
lợi ích kinh tế của người lao động đảm bảo nhu cầu thiết yếu của họ hoạt động

sáng tạo như ăn, ở, mặc, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, nghỉ ngơi. Và đương
nhiên cũng cần những chính sách đảm bảo phát triển về mặt tinh thần.
Sự nghiệp đất nước càng phát triển thì tính tích cực và năng động của con người
càng tăng lên một cách hợp quy luật.
1.5 Rút ra lối tư duy giải quyết các vấn đề một cách tổng quát nhất:
Từ hai vấn đề nhỏ ở trên, có thể thấy, để giải quyết được các vấn đề trong thực
tế và đời sống, con người phải xem xét trên các góc độ về điều kiện khách quan và
điều kiện chủ quan rồi từ đó cân nhắc, đưa ra hướng giải quyết sao cho tối ưu nhất,
đúng đắn và sáng suốt nhất
Thế những, trong thực tế, khơng thể phủ nhận, sẽ có các vấn đề cần giải quyết
nhưng điều kiện khách quan lại bị giới hạn, hoặc sẽ có khi là khơng đủ để cân
nhắc, giải quyết giải quyết vấn đề. Ví dụ như sinh viên có q nhiều mơn phải học
trong khi thời gian một ngày phải làm rất nhiều việc, từ học ở trường rồi phải về
nhà nấu cơm, vệ sinh cá nhân rồi lại chuẩn bị bài, xem lại bài. Hoặc ở các vấn đề
xây dựng đất nước đổi mới, nguồn nhân lực để phát triển kinh tế, tăng năng suất
lao động là có hạn, vậy làm như thế nào để đạt được tiến độ đề ra. Khi gặp phải các
trường hợp có điều kiện khách quan giảm như vậy, phải tăng cường nỗ lực, tăng
điều kiện chủ quan (tri thức, ý chí, động lực, v.v…) dựa trên những điều kiện
Trang 14/18


khách quan đã có. Nếu thời gian một ngày khơng đủ để làm hết các việc, việc học
ở trường không thể bỏ, việc cá nhân cũng vậy, thì có thể phát huy tính năng động
chủ quan bằng cách như rút ngắn thời gian làm các công việc cá nhân như vệ sinh
cá nhân lại, tăng thời gian cho việc học nhiều hơn, hoặc thay vì một mơn học trong
60 phút, thì sinh viên có thể tăng mức tập trung từ 100% lên 200%, để có thể học
được nhiều mơn hơn trong một khoảng thời gian xác định mà vẫn đảm bảo thời
gian nghỉ ngơi, thư giãn, đảm bảo cho việc học. Hoặc trong việc phát triển kinh tế
xã hội cũng vậy, nếu lực lượng sản xuất hiện tại là không đủ, vậy cần khuyến
khích phát triển dân số đi đơi với kế hoạch hóa gia đình,tuy nhiên khơng để bùng

nổ dân số, đồng thời tích cực đào tạo các nguồn nhân lực trẻ cho sau này. Ngồi ra
có thể tăng năng suất lao động bằng cách thay đổi, nâng cấp tư liệu sản xuất, nhập
khẩu thêm máy móc tiên tiến hơn, thay thế con người, v.v…
Một lần nữa, chúng ta có thể khẳng định, để giải quyết các vấn đề trong cuộc
sống, phải cân nhắc giữa điều kiện khách quan, tơn trọng điều kiện khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. “Thế giới không thỏa mãn con người,
và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình”. Những hành
động biến đổi thế giới của con người chỉ có hiệu quả khi nó được thực hiện bởi
những công cụ, phương tiện vật chất và phù hợp với quy luật vốn có của thế giới
vật chất, nghĩa là hành động ấy luôn là một thể thống nhất giữa nhận thức và thực
tiễn.

Trang 15/18


KẾT LUẬN
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận
thức cái đúng đắn sự vật, hiện tượng trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất,
tồn tại xã hội để giải quyết tận gốc vấn đề chứ khơng phải tìm nguồn gốc, nguyên
nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào. “tính khách quan của sự xem xét” chính
là ở chỗ đó. Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật
chất, cho nên trong nhận thức phải có tính tồn diện, phải xem xét đến vai trò của
nhân tố tinh thần. Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện
khách quan và giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng
sự thật. Đồng thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng
động của các nhân tố tinh thần, tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động
của con người đạt hiệu quả cao. Khơng chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối
quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hồn cảnh
hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố của từng
yếu tố vật chất hoặc ý thức.


Trang 16/18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1991). Đảng Cộng sản Việt Nam:Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.: NXB Sự thật. Hà Nội
Wikipedia. (10 6 2018).

Trang 17/18



×