Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Tiểu luận cao học tư tưởng hồ chí minh về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.5 KB, 41 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) đã trân trọng
ghi vào cương lĩnh và điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”.
Đây là một quyết định có tầm lịch sử, chẳng những có ý nghĩa tun ngơn
trong cuộc đấu tranh bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh trước sự phủ định của các
thế lực thù địch và bọn cơ hội đủ màu sắc mà còn đánh dấu bước phát triển
quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú
chứa đựng trong đó những chân lý bền vững đã được thực tiễn cách mạng Việt
Nam chứng minh, trước kia cũng như hiện nay. Mỗi thế hệ, mỗi giai đoạn cách
mạng, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể đều có thể tìm thấy trong di sản của Người
những thông điệp cần thiết cho thế hệ mình. Điều đó nói lên hàm lượng chân lý
tiềm ẩn phong phú và sức sống bất diệt của tư tưởng Hồ Chí Minh. Sức sống ấy
mãi cháy bỏng cùng với ước nguyện của Người: “Xây dựng một nước Việt Nam
hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới”.
Đất nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đạt được
nhiều thành tựu rực rỡ, có ý nghĩa to lớn. Bên cạnh những thành tựu ấy vẫn còn
nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết. Do đó,
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng ta nhận thức và vận dụng trong thời kỳ đổi
mới như thế nào là vấn đề cần thiết và cấp bách hiện nay. Đó cũng chính là lý do
thúc đẩy chúng tơi chọn đề tài này.

1


2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Quá trình nhận thức và vận dụng của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con


đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới
là một vấn đề nóng bỏng đã được nhiều tác giả đề cập đến. Tuy nhiên, trong giáo
trình cũng như trong sách tham khảo, tạp chí, … các tác giả chỉ mới đề cập một
cách sơ lược, từng mảng riêng biệt. Vì vậy, đề tài mong muốn được đi vào
nghiên cứu một cách chi tiết, cụ thể và tổng quát toàn bộ vấn đề đặt ra.
3. Mục đích của đề tài.
Đề tài mong muốn được góp phần nhỏ bé trong việc đưa tư tưởng Hồ Chí
Minh vào cuộc sống và trở thành tài liệu nghiên cứu bổ ích cho các bạn sinh viên
trong ngành cùng những độc giả u thích tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Nội dung đề tài.
Đề tài có ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và kết luận. Trong phần
nội dung gồm có 2 chương lớn:
Chương 1: Những quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Chương 2: Đảng ta nhận thức và vận dụng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp
như: Phương pháp phân tích, phương pháp lơgic, phương pháp so sánh…

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cơ giáo khoa tư tưởng
Hồ Chí Minh cùng các bạn đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi
hồn thiện đề tài này.
2


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ


NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam - một nước nông
nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường cách mạng khơng ngừng: Tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã có những phát triển sáng tạo về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
I. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh khơng có định nghĩa về chủ nghĩa xã hội với những tiêu chí
đầy đủ, tồn diện, hồn chỉnh của một mơ hình lý tưởng được xây dựng sẵn trong tư
tưởng, nhận thức để từ đó “bắt thực tiễn phải khn vào” như Mác - Ăngghen đã
từng phê phán. Đề cập những nội dung cơ bản, những mục tiêu lâu dài của chủ
nghĩa xã hội, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Người viết:
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho
xã hội khơng cịn người bóc lột người, khơng cịn đói rét, mọi người đều được ấm
no và hạnh phúc”. “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó
khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hồn tồn mới xưa
nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”.
Với Người, chủ nghĩa xã hội không chỉ là mơ ước, lý tưởng mà phải
được thể hiện cụ thể từng bước ngay ở nhiệm vụ trước mắt. Vấn đề sáng tạo lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuất phát từ thực tiễn đất nước, Người đã đề ra mục

3


tiêu trước mắt của chủ nghĩa xã hội một cách rất thiết thực, cụ thể, đáp ứng yêu
cầu nguyện vọng của nhân dân.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, Người đã

giải thích về chủ nghĩa xã hội một cách rất cụ thể, dễ hiểu. Người nói: “Chủ nghĩa
xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc”; “chủ nghĩa
xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”; “chủ nghĩa xã hội là mọi người dân
được áo ấm cơm no, nhà ở tử tế, được học hành”; “chủ nghĩa xã hội là tất cả mọi
người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”; …
Những mục tiêu trước mắt, thiết thực, cụ thể về chủ nghĩa xã hội mà Hồ
Chí Minh đề ra tuy có khác nhau về chi tiết tuỳ thuộc vào đối tượng, vào thời
điểm Người nói hay viết, nhưng nổi lên những điểm chủ yếu sau:
- “Dân làm chủ”, “mọi quyền hành, mọi lực lượng đều ở dân”.
- “Dân giàu nước mạnh”, từng bước xố bỏ bất cơng, xố bỏ bóc lột…
trên cơ sở phát triển sản xuất, dần dần “biến nước ta từ một nước nông nghiệp
lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học
tiên tiến”.
- Gắn phát triển kinh tế với chính sách xã hội, với công bằng xã hội,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc,
“bảo đảm mọi người đều có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành”, “các dân tộc
miền núi tiến kịp các dân tộc miền xuôi”.
- Phát triển văn hoá khoa học giáo dục, “biến nước ta từ một nước dốt
nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao có đời sống tươi vui hạnh phúc”. “Triệt
để thay đổi những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa
hàng ngàn năm”.
- Bình đẳng, hữu nghị với các dân tộc, các quốc gia trên thế giới, trên
tinh thần hợp tác, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, hai bên cùng có lợi.

4


- Tiến lên chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng tiên phong. “Yêu tổ quốc, yêu nhân dân, phải gắn liền với yêu chủ

nghĩa xã hội, vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình ngày một no ấm
thêm, Tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm”. Đó là một sự nghiệp to lớn, đẹp đẽ,
phải làm từng bước, phù hợp với tình hình, điều kiện khách quan, khơng thể nơn
nóng, chủ quan.
Luận điểm cực kỳ quan trọng là Người luôn tin ở nghị lực sáng tạo vô
cùng to lớn của nhân dân, luôn nhấn mạnh chủ nghĩa xã hội là do nhân dân tự
xây dựng lấy.
Trong quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội là làm cho dân giàu đặt trong mối quan hệ biện chứng với nước mạnh. Trong
mối quan hệ đó, Người luôn xác định vị thế của nhân dân là chủ thể của đất
nước, đóng vai trị quyết định, tạo nên thế nước mạnh. Người luôn quan tâm xây
dựng cho kỳ được chủ nghĩa xã hội ở nước ta để giữ vững mối quan hệ đất nước
với người dân, trong đó nhân dân là người quyết định sự cường thịnh, trường tồn
của quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy, trong toàn bộ toàn bộ cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình, Hồ Chí Minh ln hướng về dân, lấy dân làm gốc. Từ
trong suy nghĩ và việc làm cụ thể, Người luôn coi trọng xây dựng con người mới
và coi đó vừa là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội vừa là động lực để thúc đẩy cách
mạng xã hội chủ nghĩa phát triển không ngừng. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, để
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa thỉ phải xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Đây là cả một quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ, tiến hành
đồng thời với cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra trên toàn bộ các lĩnh vực hoạt
động xã hội. Nội dung xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng
Hồ Chí Minh bao gồm nhiều mặt: phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, trí
tuệ và tài năng, phong cách và năng lực hoạt động, trong đó xây dựng phẩm chất
chính trị đạo đức đóng vai trị nền tảng. Với tấm lòng thiết tha với chủ nghĩa xã
hội, trước lúc đi xa Người căn dặn Đảng ta phải chăm lo giáo dục thế hệ trẻ, đào
5


tạo họ thành những người kế tục xứng đáng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa

xã hội ở Việt Nam.
Từ những quan niệm của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội,
chúng ta thấy quan điểm của Người về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nuớc ta là
một hệ thống hoàn chỉnh với những định hướng, định hình căn bản phản ánh
trung thành những nguyên lý, quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó, Người đã vận dụng sáng tạo, phát triển lý luận
về xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện thắng lợi ở một nước nông nghiệp lạc
hậu như Việt Nam. Sự phát triển về lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội của chủ
tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nét nhất trong q trình Người cùng tồn
Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong hồn cảnh
đất nước bị chia cắt, có chiến tranh, vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kiên trì tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng nhằm tạo sức mạnh
tổng hợp chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội không chỉ là sự vận dụng,
phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn là sự phù hợp với nguyện vọng,
yêu cầu bức xúc ngàn đời của dân tộc Việt Nam, phù hợp với quy luật về con đường
cách mạng Việt Nam. Vì vậy, nó dễ đi vào lịng người được mọi người dân Việt
Nam chấp nhận, tự nguyện phấn đấu cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
II. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Từ quan điểm Mác - Lênin và thực tiễn đất nước, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của con đường cách mạng
Việt Nam. Quan niệm của Người về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
từng bước được làm rõ vào cuối những năm 50 đã được cụ thể hoá thêm bằng một
nội dung mới: Thời kỳ quá độ, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thuộc
phương thức quá độ gián tiếp. Ở Hồ Chí Minh, quan niệm về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội khơng bị gị bó theo câu chữ kinh điển hoặc kinh nghiệm xây dựng
6



xã hội chủ nghĩa ở các nước khác, nó cho phép chúng ta hiểu một cách biện chứng
toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và các giai đoạn phát triển của nó.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, nước ta có những đặc điểm cơ bản sau.
Về phương diện quốc tế, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế thuận lợi. Chủ nghĩa xã hội đã thành công ở
một loạt nước, chúng ta nhận được sự hỗ trợ, hợp tác to lớn nhiều mặt từ bên
ngoài theo tinh thần giúp đỡ khơng hồn lại. Những mặt khác lại ln bị chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tìm cách phá hoại cơng cuộc hồ bình
xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Điều đó buộc chúng ta phải có ý thức
độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, vượt
qua những khó khăn để xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Về tình hình trong nước: sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, nền chuyên chính dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai
cấp vô sản trên nền tảng liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức được củng cố
vững chắc. Việt Nam tiến dần lên chủ nghĩa xã hội khơng phải trải qua một cuộc
đảo lộn chính trị giành chính quyền; một đặc điểm khác của thời kỳ quá độ ở
Việt Nam là chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất nước vừa có
hồ bình vừa có chiến tranh, đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược ở
hai miền. Nhưng theo Hồ Chí Minh, đặc điểm lớn nhất, phải bao trùm nhất của
nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ, chi phối các đặc điểm khác và quyết định
phương thức quá độ gián tiếp là: “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp
trong tiến trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó đặt ra hàng loạt vấn đề
lý luận và thực tiễn mà chúng ta cần nhận thức và giải đáp một cách đúng đắn để
tìm ra con đường, với những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp cho chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc điểm ấy cũng chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản trong thời
7



kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tiến lên
xây dựng một chế độ xã hội mới có kinh tế cơng nghiệp, nơng nghiệp hiện đại,
có văn hố, khoa học tiên tiến với tình trạng lạc hậu kém phát triển, lại phải đối
phó với bao thế lực cản trở, phá hoại mục tiêu của chúng ta.
Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng
vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa
xã hội có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến.
Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ
và xây dựng nền kinh tế mới mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với bảo vệ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đó, Người vạch rõ, cách mạng phải có
một chuyển biến sâu sắc về tư tưởng và nhận thức, địi hỏi phải có những chính
sách, những biện pháp và cơng tác tổ chức phù hợp với tình hình mới. Trước hết,
phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, phải chính đốn Đảng, nâng
cao sức chiến đấu của Đảng, Đảng phải tự chuyển biến về chức năng và tổ chức
phù hợp với nhiệm vụ lãnh đạo của giai đoạn mới. Phải tăng cường vai trò của
nhà nước, tiếp tục củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất liên minh
công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Sau khi nêu lên những vấn đề về bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ của chủ
nghĩa xã hội, để biến mục tiêu đó thành hiện thực, Người đã vạch ra con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội với những bước đi, phương thức, biện pháp phù hợp với
tình hình nước ta. Ngay khi bước vào thời kỳ quá độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đặt vấn đề: “chúng ta phải dùng phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào
để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội ?”, Người chỉ rõ: “phải dùng lập trường, quan
điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của
Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế,
chúng ta mới dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định
ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ
8



nghĩa, thích hợp với tình hình nước ta”. Từ đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “xây
dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu
dài”, “phải làm dần dần”, “không thể một sớm một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan
và sẽ thất bại”. Khi nói về bước đi của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh nhắc nhở:
“chớ ham làm mau, ham rầm rộ. Làm ít mà chắc hơn làm nhiều, làm rầm rộ mà
không chắc chắn. Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến tới dần dần”.
Xuất phát từ những lý luận và thực tiễn đất nước, Hồ Chí Minh đã nêu ý
kiến về bước đi của nền kinh tế nước ta như sau: Ta cho nông nghiệp là quan
trọng và ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công
nghiệp nặng. Không chỉ riêng lĩnh vực kinh tế mà chúng ta còn phải tiến hành
cải tạo với xây dựng trên tất cả các lĩnh vực: văn hoá, xã hội, tâm lý, tinh thần,
… Về cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tinh thần
độc lập, tự chủ, sáng tạo, phải chống giáo điều rập khuôn kinh nghiệm của nước
ngồi. Người nói: “muốn đỡ bớt sai lầm thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm
của các nước anh em”, nhưng phải biết “áp dụng những kinh nghiệm ấy một
cách sáng tạo”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã bao quát những vấn đề cốt lõi nhất trên cở sở vận dụng và phát triển
sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Tư tưởng đó tập trung giải quyết những vấn đề
lý luận, thực tiễn của một loại hình quá độ cụ thể: quá độ gián tiếp, theo con
đường phát triển rút ngắn. Hồ Chí Minh đã có phương pháp tiếp cận đúng đắn và
giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Vì thế, tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trở thành tài sản vô giá là cơ sở lý luận
và kim chỉ nam cho việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời gợi
mở nhiều vấn đề để tìm tịi con đường, hình thức, biện pháp, bước đi, cách làm
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đặt cơ sở cho việc hình thành từng bước mơ hình,
cấu trúc của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phù hợp với những đặc điểm dân tộc
và xu thế vận động của thời đại ngày nay.

9


Chương 2: ĐẢNG TA NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
I. Đổi mới để phát triển - một quyết sách chiến lược của Đảng cộng sản
Việt Nam.
1. Tác động của tình hình thế giới và trong nước tới công cuộc đổi mới.
Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa, từ
Liên Xô đến các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, từ Trung Quốc đến Việt
Nam và Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đều tiến hành cuộc cải biến cách mạng
dưới những tên gọi khác nhau. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
đi vào cải tổ. Trung Quốc thực hiện cải cách mở cửa, Việt Nam và Lào tiến hành
cải cách đổi mới.
Đổi mới nhằm thốt khỏi tình trạng trì trệ khủng hoảng và thúc đẩy sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội làm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
mỗi nước có hiệu quả hơn, thực hiện được nhiều tính ưu việt thuộc bản chất của
chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, cải tổ - cải cách - đổi mới là một nỗ lực tìm
kiếm mơ hình và con đường, cách thức và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã
hội sao cho phù hợp với thực tế, phù hợp với những biến đổi mạnh mẽ và nhanh
chóng của thế giới, thời đại và thời cuộc lúc bấy giờ. Có khơng ít những nhân tố
và sự kiện tác động vào đời sống của chủ nghĩa xã hội trong những thập niên 7080 của thế kỷ XX mà nổi bật là cách mạng khoa học công nghệ, sự bùng nổ
thông tin và xu thế tồn cầu hố kinh tế đang chi phối sự phát triển của tất cả các
nhà nước - chính phủ, các quốc gia - dân tộc. Đây là những tác động phổ biến
không một nước nào được xem là ngoại lệ, có thể tự tại trong thế ốc đảo ở bên
ngoài xu thế chung ấy. Thế giới tồn cầu và nền kinh tế tồn cầu địi hỏi các quốc
gia dân tộc phải mở cửa để hội nhập phát triển. Chính trong bối cảnh ấy, chủ
nghĩa xã hội hiện thực lại lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đến mức
trở thành một tình huống “tồn tại hay không tồn tại”. Cải tổ - cải cách - đổi mới,

10


với ý lành mạnh, tích cực của nó chính là câu trả lời cho câu hỏi mang tính tình
huống trên.
Đổi mới ở Việt Nam theo đường lối Đại hội VI (12-1986) của Đảng cũng
chịu tác động chung của tình hình thế giới đối với các nước xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới còn được thúc đẩy bởi những đòi hỏi bức xúc, chín muồi của tình hình
trong nước: cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới cùng thực hiện
một nhiệm vụ chiến lược, xây dựng và phát triển đất nước theo di huấn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh; hậu quả nặng nề của chiến tranh và những khó khăn phức tạp
mới nảy sinh sau chiến tranh đó là: những cải thiện dân sinh, dân trí chậm được
thực hiện, những nhu cầu và lợi ích thường nhật của cuộc sống tối thiểu của con
người không được đáp ứng đầy đủ, khơng có sự cơng bằng trong phân phối lợi
ích dẫn đến mất lòng tin, gây tâm lý chán nản, xao động trong nhân dân. Hơn
nữa, những tiêu cực và tệ nạn phát sinh từ nạn quan liêu tham nhũng làm cho dân
chúng bất bình, quan hệ giữa dân với Đảng và nhà nước bị tổn thương. Cộng
thêm những khuyết điểm, sai lầm trong chỉ đạo thực hiện đường lối trong chủ
trương chính sách làm tăng thêm khó khăn phức tạp của tình hình kinh tế xã hội,
làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng ở nước ta trước đổi mới.
Chính những nguyên nhân khách quan và chủ quan ấy đã chín muồi nhận
thức và quyết sách đổi mới của Đảng tạo ra những bước đột phá mạnh mẽ: Hội
nghị Trung ương 6 khoá IV (8-1979), Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985),
Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8-1986) từng bước dẫn tới lý luận nhận thức mới
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là lời
giải đáp lý luận cho bài toán thực tiễn về phát triển đất nước.
Các nhân tố tác động trên thế giới và trong nước không chỉ tác động tới
sự khởi đầu của công cuộc đổi mới mà còn tiếp tục thâm nhập, ảnh hưởng sâu
sắc đến tiến trình đổi mới trong 20 năm qua và trong những thập niên tiếp theo
của thế kỷ XXI.


11


2. Một số đặc điểm chủ yếu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc
điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, bản thể và chủ thể của đổi mới.
Nói bản thể của đổi mới là nói tới đất nước, con người, xã hội phát triển và
trưởng thành trong đổi mới, là những những đối tượng chịu tác động của đổi mới
đồng thời cũng lại là những lực lượng thực hiện quá trình đổi mới tồn diện đó.
Đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, điều đó cũng có nghĩa là đi
qua đổi mới, một nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội sẽ hình thành, một hệ quan
điểm, nguyên tắc, phương châm, nhiệm vụ, phương pháp, giải pháp đổi mới sẽ
được xác lập về mặt lý luận và thực tiễn để công cuộc đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta đi tới thắng lợi.
Đổi mới vì thế là một sự nghiệp lớn lao của toàn dân tộc, của toàn Đảng,
của toàn dân ta, kể cả đồng bào ta trong cộng động người Việt đang làm ăn sinh
sống ở nước ngoài cũng hướng về Tổ quốc, cũng nhập cuộc với đổi mới, đóng
góp mọi nguồn lực, mọi khả năng cho sự chấn hưng và phát triển dân tộc. Bản
thể của đổi mới như vậy là tất cả những gì hợp thành đời sống hiện thực của xã
hội ta trong cuộc chuyển mình vĩ đại từ thập kỷ 80, vượt ra khỏi khủng hoảng,
tạo lập sự ổn định và đi tới phát triển. Nó bao trùm tất cả mọi lĩnh vực kinh tế chính trị - văn hố - xã hội, nó liên quan tới mọi tổ chức mọi mối quan hệ xã hội
của con người, nó thay đổi trạng thái, tính chất của sự phát triển, từ trì trệ, nghèo
nàn, lạc hậu tới năng động, tăng trưởng, văn minh và hiện đại, từ thiếu hụt suy
giảm động lực phát triển đến xác lập những động lực phát triển nội tại, kết hợp
với khai thác các nhân tố ngoại lực hỗ trợ phát triển đầy hiệu quả. Đổi mới đã
tìm thấy hệ mục tiêu cơ bản của phát triển mà từ đó chủ nghĩa xã hội sẽ sinh
thành và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội được thể hiện.


12


Đổi mới mang theo nó trọng trách lịch sử của Đảng, sức mạnh và sức
phát triển của dân tộc, nhiệt tình, tâm huyết và sự sáng tạo của nhân dân… tất cả
mọi người, mọi thế hệ Việt Nam trong công cuộc xây dựng, kiến tạo đất nước. Vì
thế, năng lực làm chủ của nhân dân nhờ sự cổ vũ, thúc đẩy của đổi mới mà trở
thành sức mạnh thực tế. Cuộc cách mạng thực hiện phát triển của đổi mới chính
là phát triển dân tộc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Thứ hai, cội nguồn phát sinh và những đột phá trong đổi mới.
Có thể nói, đổi mới ở Việt Nam bắt đầu từ Đại hội VI (12-1976) với chủ
thể dẫn đạo đổi mới là Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1986 là năm mở đầu cho
một chuỗi biên niên sự kiện của lịch sử đổi mới ở Việt Nam trong lịch sử hiện
đại và đương đại, song chúng ta không thể bỏ qua những sự kiện gắn liền với
năm tháng, thời gian - cái quá trình ấp ủ, nẩy mầm để sinh thành cái mới, đây là
thời kỳ thai nghén để đổi mới lọt lòng như một cuộc cách mạng. Đó là đổi mới
bắt đầu từ cơ sở, từ nơng thôn - nông nghiệp và nông dân mà đi lên và lan toả ra
xã hội. Đổi mới ở Việt Nam trong hình thái manh nha, mầm mống của nó là đổi
mới từ dưới lên. Đổi mới cũng bắt đầu từ những mày mị, tìm tịi, thử nghiệm ở
từng điểm, từng nơi, từng địa phương rồi tới vùng, miền và cả nước.
Ba bước đột phá có ý nghĩa mở đường cho đổi mới như đã nói diễn ra ở
ba thời điểm khác nhau với những nội dung khác nhau nhưng đều có chung một
điểm: bám sát thực tiễn, đáp ứng những đòi hỏi bức xúc trong cuộc sống của
người dân.
- Bước đột phá mở đầu từ hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8-1979) đã
đánh dấu một chủ trương mới “bằng mọi cách làm cho sản xuất bung ra”.
- Bước đột phá thứ hai, hình thành ở hội nghị Trung ương 8 khoá V (61985), bên thềm của đổi mới, với chủ trương dứt khoát từ bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cũng từ

đây, sản xuất hàng hoá và các quy luật sản xuất hàng hoá đã được thừa nhận.
13


- Bước đột phá thứ ba, hội nghị Bộ Chính trị (8-1986) với kết luận một số
vấn đề về quan điểm kinh tế, trong đó nổi bật là ba vấn đề lớn: lấy nông nghiệp
làm mặt trận hàng đầu trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư; xác định cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần; trong cơ chế quản lý, lấy kế hoạch là trung tâm nhưng
đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá tiền tệ, vận dụng đúng quy luật
giá trị trong chính sách giá.
Chính từ những bước đột phá và sự hình thành đường lối đổi mới, Đảng
ta thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của mình đối với xã hội trong một hồn cảnh hết
sức khó khăn để đạt được mục tiêu thắng lợi.
Thứ ba, định hướng và định hình của đổi mới.
Đổi mới theo định hướng xã hướng chủ nghĩa được Đảng ta xác định là
nguyên tắc đầu tiên của đổi mới tại hội nghị Trung ương 6 khoá VI (3-1989).
Định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là định hướng kinh tế, chính trị trong đổi
mới mà cịn là định hướng phát triển văn hoá, bao gồm cả giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ ở nước ta nhằm phát huy nội lực dân tộc, giữ vững và phát
huy bản sắc dân tộc, đào tạo , bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người trong sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước.
Cho đến nay qua các kỳ đại hội, định hướng xã hội chủ nghĩa và định
hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được khẳng định về cơ bản.
Thứ tư, triết lý của đổi mới, một triết lý phát triển.
Đổi mới mang tầm vóc của một cuộc cách mạng. Thực tiễn 20 năm qua
từ khi Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, đất nước, con người và
dân tộc ta đã có những thay đổi sâu sắc và tồn diện. Đổi mới thực sự là một
cuộc cách mạng. Đó là cuộc cách mạng phát triển, triết lý của đổi mới là triết lý
phát triển.
Đổi mới để phát triển, hướng tới phát triển bền vững nên điều kiện căn

bản, nền tảng, giải pháp quy tụ mọi giải pháp phát triển xã hội trong đổi mới của
Việt Nam là giải phóng mọi tiềm năng phát triển trong xã hội. Đây cũng là bản
14


chất cách mạng của đổi mới. Giải phóng là tư tưởng lớn, chủ đạo, xun suốt
tiến trình đổi mới. Đó là giải phóng sức sản xuất và giải phóng ý thức tinh thần
xã hội.
Để ổn định - đổi mới - giải phóng và phát triển mà mọi sự phát triển đều
hướng tới phát triển con người, nguồn lực con người như một tài nguyên quý giá
nhất thì phải tạo ra những môi trường điều kiện khả năng cho sự phát huy tối đa
năng lực sáng tạo của cá nhân, tập thể, của cộng đồng xã hội.
Vậy triết lý phát triển với tư tưởng nổi bật là giải phóng - sáng tạo nhằm
phát triển dân tộc và con người Việt Nam, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam.
Thứ năm, tính tương đối và tuyệt đối của đổi mới, “dĩ bất biến, ứng vạn
biến” của đổi mới để phát triển ở Việt Nam.
Đổi mới nước ta đã đi qua một chặng đường 20 năm, một khoảng thời
gian dài một phần năm thế kỷ, giá trị, ý nghĩa sức sống của đổi mới là ở tính
tương đối và tuyệt đối của nó, ở tính biện chứng của sự phát triển xã hội thơng
qua những cải cách và đổi mới.
Tính tương đối của đổi mới liên hệ với những bước đi, những kế hoạch,
chương trình hoạt động thực tiễn để thực hiện và giải quyết những nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội đề ra, gắn với những chỉ tiêu phát triển phải đạt được. Theo
ý nghĩa này, kết thúc đổi mới chỉ có nghĩa là kết thúc một cơng việc, một nhiệm
vụ được triển khai trong khung cảnh đổi mới, chịu sự tác động của đổi mới. Như
vậy, trong khuôn khổ của tính tương đối, đổi mới có khởi đầu và có kết thúc. Tuy
nhiên, đây khơng phải là sự kết thúc tư tưởng đổi mới, kết thúc sự nghiệp đổi
mới mà nó chỉ thuần tuý là kết thúc một nhiệm vụ, một cơng việc nào đó mà đổi
mới đặt ra. Đổi mới mang đặc tính của một q trình vận động, biến đổi thường

xun khơng ngừng.
Tính tuyệt đối của đổi mới cần đến những tính tương đối để cho đổi mới
chứa đựng sự phong phú những nội dung thực tế, những tính hiện thực lịch sử cụ
15


thể, để con người vững tin vào sự hữu ích của hoạt động, để được hưởng thụ và
tận dụng mọi thành quả vật chất tinh thần do đổi mới mang lại, nhờ hoạt động
của con người và phục vụ chính cuộc sống của con người.
Đổi mới là một cuộc cách mạng, một cuộc đấu tranh có những mâu thuẫn
và xung đột, những diễn biến phức tạp, vì thế, chủ động và sáng tạo phải đồng
hành cùng đổi mới.
Hồ Chí Minh đã thực hành một phương châm ứng xử, hành động hợp lý,
sáng suốt nhất, phù hợp với hoàn cảnh, kiên định nguyên tắc như một cái “bất
biến” đi liền với linh hoạt, mềm dẻo, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, thiên biến vạn
hoá cho phù hợp với cuộc sống “vạn biến”, khả biến. Chung quy lại, bước vào
đổi mới để phát triển, con người phải nhạy cảm, mẫn cảm với thời cơ, tỉnh táo
sáng suốt với thách thức.
Đổi mới của Việt Nam từ thực tiễn sinh động, khái quát lại chúng ta nhận
rõ những đặc điểm của đổi mới để phát triển và đi tới hiện đại hoá xã hội Việt
Nam.

II. Quá trình nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức đồng thời là vật kiểm chứng tính đúng
sai của nhận thức. Mỗi bước tiến trong nhận thức lý luận của Đảng không phải là
sản phẩm tự tiện lấy từ chủ quan của đầu óc mà là kết quả của một q trình bám
sát thực tiễn để phân tích và tổng kết, để phát hiện tình huống và tìm tịi giải
pháp xử lí các tình huống đó với thái độ khách quan và năng lực tư duy khoa học
của Đảng.

Câu hỏi “chủ nghĩa xã hội là gì?” và “xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế
nào trong điều kiện và hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam?” đã được Đảng ta giải
quyết trong tính thống nhất hữu cơ giữa lý luận với thực tiễn và giữa thực tiễn
với lý luận.

16


1. Nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của Việt Nam trước hết thể hiện ở nhận thức mới về chủ nghĩa MácLênin và thời đại ngày nay, về cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện
thực và những sai lầm của cải tổ dẫn tới sự đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đơng Âu, về vai trị của lý luận đối với hoạt động lãnh đạo và
năng lực cầm quyền của Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học được xác định là hệ tư
tưởng của Đảng và của xã hội ta. Cuộc đấu tranh ý thức hệ diễn ra trong thế giới
ngày nay, nhất là từ sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ về thể chế trở nên đặc
biệt gay gắt và phức tạp. Tuân theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh “phải giữ chủ nghĩa
cho vững”. Đảng ta trong mọi thời kỳ và hoàn cảnh đã ln trung thành với chủ
nghĩa đó, với lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Thể hiện rõ rệt và nhất
quán sự trung thành đó là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra từ khi giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin và
truyền bá chủ nghĩa đó vào trong nước để gây dựng phong trào cách mạng.
Với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đặt vấn đề rất nghiêm túc, đó là: cần
làm rõ những giá trị bền vững trong kho tàng kinh điển Mác - Lênin, những giá
trị ấy không chỉ là lý luận mà còn là phương pháp, chúng ta cần nhận thức và vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn đổi mới hiện nay. Nó ln là điểm tựa thế giới quan
và phương pháp luận cho mọi hành động của chúng ta. Mặt khác, đối với những
quan niệm, tư tưởng không cịn phù hợp với tình hình hiện nay, cần được nhận
thức phát hiện với tinh thần phê phán khoa học và cách mạng.
Đại hội VII của Đảng họp vào thời điểm khó khăn và sóng gió của chủ

nghĩa xã hội hiện thực, bên cạnh việc khẳng định chính thức trong văn kiện về vị
trí, tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cịn vạch ra cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nó phù hợp với thực
tiễn về tính chất, trình độ phát triển của đất nước. Nó cũng nhất quán với tư
tưởng đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, với cách nhìn hiện
17


thực, Đảng ta nhận thức rằng: chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đang là một định
hướng phát triển chứ chưa phải là một chủ nghĩa xã hội đã định hình đầy đủ. Sự
đánh giá ấy đã vượt lên những hạn chế trước đây bởi những tư tưởng giáo điều
và khơng tưởng thốt ly thực tế.
Đảng ta cịn đạt được nhận thức đúng đắn về thời đại ngày nay. Dù chủ
nghĩa xã hội đang rơi vào thoái trào, dù hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới
khơng cịn tồn tại, song đặc điểm cơ bản của thời đại ngày nay vẫn là thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Những mâu thuẫn, những đặc
điểm và nội dung chủ yếu của thời đại vẫn được nhận thức và đánh giá một cách
nhất quán dù chúng có những biểu hiện mới.
Văn kiện Đại hội Đảng đã nhận thức đúng những căn nguyên sâu xa cũng
như những nguyên do trực tiếp dẫn tới biến cố chính trị đầy kịch tính xảy ra ở
Liên Xơ và Đơng Âu, đó là sự đổ vỡ chế độ và Đảng Cộng sản mất đi vai trò
lãnh đạo, cầm quyền.
Rút ra những bài học tự sự đổ vỡ ấy, trong đổi mới, Đảng ta luôn đặt vấn
đề xây dựng Đảng là then chốt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, phải thực
hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, phải dựa vào dân mà xây dựng Đảng, phải
đảm bảo cho Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực và uy tín để lãnh đạo và
cầm quyền.
2. Nhận thức về bản chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội từ thực
tiễn đổi mới mở cửa và hội nhập quốc tế.
Đại hội VI đã đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong tư duy lý luận

của Đảng, mở đầu quá trình đổi mới và sự hình thành nhận thức mới của Đảng
về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cuộc cải biến cách mạng lâu dài, tồn diện
và triệt để, có kế thừa và có phát triển.
Trong văn kiện của Đại hội VII, câu trả lời “chủ nghĩa xã hội là gì?”, “xã
hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội như thế nào?” đã lần
18


đầu tiên được đề cập tới một cách có hệ thống dưới hình thức luận đề, xác định
sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa và bảy phương hướng xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Sáu đặc trưng đó chính là những dấu hiệu nhận biết bản chất, mục tiêu,
động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sáu đặc trưng đó là:
• Do nhân dân lao động làm chủ
• Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
• Có nền văn hố tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
• Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo
năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển tồn diện cá nhân.
• Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
• Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới.
Có thể nói sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã
hội kiểu mới mà nhân dân ta xây dựng là một quan niệm đúng về chủ nghĩa xã hội
không chỉ ở thời điểm những năm 90 của thế kỷ XX mà về cơ bản cịn đúng trong
tình hình hiện nay, dù quan niệm đó vẫn cịn có thể bổ sung và phát triển.
Tính đúng đắn từ sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nêu trên biểu hiện ở

những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đã xác định chủ thể xã hội là nhân dân lao động, hơn nữa chủ
thể đó cịn có năng lực để làm chủ xã hội. Đặc trưng này nổi bật bản chất mới
của chủ nghĩa xã hội là: quần chúng nhân dân lao động nước ta mà nịng cốt là
cơng - nơng - trí thức đã được giải phóng, đã trở thành tự do, từ thân phận nô lệ
trước đây trở thành người chủ của chế độ mới.
19


Nội dung đặc trưng ấy cho thấy bản chất của chủ nghĩa xã hội trong quan
niệm của Đảng ta là thống nhất, trùng hợp với quan niệm của chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người coi độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc và hạnh phúc cho đồng
bào là tất cả những gì Người nhận thức được, người mong muốn về chủ nghĩa xã
hội.
Bản chất, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chính là hệ giá trị
độc lập, tự do, hạnh phúc, là giải phóng con người và xã hội thơng qua giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội, là phát triển hài hoà con người và xã hội, cá nhân và cộng đồng.
Sau này, trong các văn kiện, nghị quyết ở thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn
nhấn mạnh một cách nhất quán rằng con người là mục tiêu và động lực của đổi
mới của chủ nghĩa xã hội. Nhân tố con người là quyết định, nguồn lực con người
là nguồn lực của mọi nguồn lực, chiến lược con người ở vị trí trung tâm và chủ
đạo trong mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, Đảng ta đã nêu lên
khẩu hiệu hành động “tất cả vì hạnh phúc của nhân dân”.
Quan niệm về bản chất, mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội mà
Đảng ta xác định trong cương lĩnh đã thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, đó là chủ nghĩa xã hội khoa học mang bản chất cách mạng, nhân đạo và
nhân văn. Đó là sự thầm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh định hướng xã hội chủ
nghĩa vào hệ giá trị độc lập - tự do - hạnh phúc, một chủ nghĩa xã hội mang bản
chất khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân trong mối liên hệ mật thiết với
sức mạnh dân tộc và tính nhân dân sâu sắc. Một trong những điểm cốt lõi, thực

tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là làm cho dân có ăn, có
mặc, có chỗ ở, ai cũng được học hành, tiến bộ.
Xác định bản chất này của chủ nghĩa xã hội là một sự xác định có tầm
khái quát nhất, một giá trị xã hội lớn nhất, bền vững, chỉ ra thước đo văn hố
quan trọng nhất, đó là thước đo về giải phóng con người, thực hiện tự do và hạnh
phúc cho con người làm chủ trong xã hội mà mình là chủ.
20


Thứ hai, sáu đặc trưng ấy đã thể hiện nhận thức mới của Đảng về bản
chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội, nhấn mạnh lực lượng sản xuất hiện đại, thấy rõ
vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, trong đó có
chế độ sở hữu, đó là sự trở về đúng với nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa MácLênin.
Những biến đổi của cơ cấu các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu,
có chính sách cho các chủ thể sản xuất kinh doanh đã được thể hiện trong các
nghị quyết và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước từ Đại hội VII
(1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001), Đại hội X (2006). Đó là q
trình cụ thể hoá, phát triển về tư duy kinh tế của Đảng, một nội dung cốt lõi của
tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Những định hướng và chủ trương đúng đắn
đó đã góp phần rất quan trọng tháo gỡ các lực cản kìm hãm sức sản xuất, vượt ra
khỏi sự trì trệ, ách tắc trong sản xuất, lưu thông, phân phối và sức ỳ xã hội để
hướng tới sự phát triển năng động như ngày nay trên con đường cơng nghiệp
hóa, hiện đại hố.
Thứ ba, sáu đặc trưng trong cương lĩnh là một chỉnh thể kinh tế - chính
trị - văn hố - xã hội mà q trình xây dựng và phát triển đều nhằm vào mục đích
phục vụ cuộc sống của nhân dân lao động.
Từ sau Đại hội IX, Đảng ta đã hình thành nhận thức coi phát triển kinh tế
là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và coi văn hoá là nền tảng tinh thần của
xã hội. Gần đây, Đảng còn đặt vấn đề xây dựng văn hoá trong Đảng, làm cho văn
hoá với cốt lõi là lý luận, hệ tư tưởng thấm sâu vào đời sống xã hội, vào đời sống

của Đảng, dùng sức mạnh văn hoá để tăng cường lãnh đạo và cầm quyền của
Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Điều đó thể hiện sự nhận thức và
vận dụng tư tưởng chiến lược của chủ tịch Hồ Chí Minh “văn hóa khơng ở bên
ngồi mà ở trong kinh tế và chính trị”, phải đem văn hóa soi đường cho quốc dân
đi, dùng văn hoá và đạo đức để sửa chữa tệ quan liêu và thói phù hoa xa xỉ.

21


Rõ ràng, xây dựng xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội văn hố cao,
đó là một xã hội lao động, xã hội học tập, một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, hiện đại.
Thứ tư, đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đặc biệt chú
trọng tới sự phát triển dân tộc, phát huy động lực quan trọng và mạnh mẽ nhất là
đoàn kết dân tộc. Một nét nổi bật khác nữa là Đảng ta khẳng định đường lối đối
ngoại hồ bình, hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Một quan niệm chủ nghĩa xã hội như vậy là một chủ nghĩa xã hội đổi mới
và hiện đại, vừa trung thành với nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa phát huy tinh thần dân tộc, vừa chú trọng mở rộng,
hợp tác để phát triển trong thời đại ngày nay.
Từ đại hội VI đến đại hội X, vấn đề bản chất, mục tiêu và động lực của
chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta xác định và không ngừng bổ sung, hồn thiện
với các tiêu chí: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Nhận thức về thời kỳ quá độ và những đặc điểm của con đường quá độ bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Vấn đề
định hướng xã hội chủ nghĩa của đổi mới.
Trên phương diện này, tư duy lý luận của Đảng ta qua hai thập kỷ đổi
mới đã có một bước tiến căn bản.
Các văn kiện của Đảng trước thời kỳ đổi mới xác định bỏ qua chủ nghĩa
tư bản hay bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, dù diễn đạt khác nhau

nhưng đều xuất phát tự một nhận thức đối lập hoàn toàn giữa chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội, coi những gì đã có trong chủ nghĩa tư bản đều phải loại bỏ,
không dung nạp được trong chủ nghĩa xã hội. Đó là biểu hiện của nhận thức giáo
điều siêu hình. Cũng xuất phát từ nhận thức ấy lại mắc phải một lầm lẫn khác:
đồng nhất “phát triển rút ngắn” với “phát triển ngắn” trong khi trên thực tế lại là
một cuộc đi “không hề ngắn”.

22


Theo tư tưởng của Lênin và Hồ Chí Minh, Đảng ta trong thời kỳ đổi mới
đã từng bước khắc phục những tư duy giáo điều và siêu hình đó, đã nhận thức
một cách thực tiễn và biện chứng các vấn đề về thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Thực tiễn phát triển của nước ta với điểm xuất phát thấp và lạc hậu đòi
hỏi phải ra sức chú trọng học tập kinh nghiệm của các nước tiên tiến, học tập cả
những thành tựu và giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản đã đạt được trong tổ chức
quản lí sản xuất, phát triển kinh tế văn hố, trình độ khoa học trong tổ chức đời
sống xã hội.
Chúng ta đề ra các nhiệm vụ của thời kỳ quá độ, đó là một quá trình lịch
sử rất lâu dài, trải qua hàng thế kỷ, nối tiếp nhiều thế hệ. Khái niệm “bước đi ban
đầu”, “chặng đường đầu”, “chặng đường tiếp theo” thể hiện mặt định tính và
định lượng trong phân tích thời kỳ quá độ ở Việt Nam đã hình thành từ thực tiễn
đổi mới trên những đường nét cơ bản. Một trong những nhiệm vụ lịch sử của
thời kỳ quá độ là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó
vấn đề mấu chốt là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá. Đảng ta đã xây dựng
một quan niệm mới về cơng nghiệp hố gắn liền với hiện đại hố. Đó là cơng
nghiệp hố hướng về xuất khẩu, tận dụng lợi thế so sánh, chú trọng cơng nghiệp
hố gắn liền với đơ thị hố nơng thơn, có chiến lược phát triển tồn diện nơng
nghiệp - nơng thơn và nơng dân. Từ Đại hội VIII trở đi đã có những phát triển lý

luận mới về vấn đề này, đấy cũng chính là sự trở về với những lời dạy quý báu
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đổi mới đã hình thành quan điểm lý luận về định hướng xã hội chủ
nghĩa, đề phịng nguy cơ chệch hướng để khơng xa rời mục tiêu, lý tưởng và con
đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã kiên trì theo đuổi. Khái niệm định hướng
xã hội chủ nghĩa cịn có thể nói, nó tương đồng với khái niệm quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Có định hướng

23


đúng đắn thì tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội dần dần từng bước mới làm
cho chủ nghĩa xã hội định hình trong thực tế.
Tại Đại hội X Đảng ta đã xác định rõ, nắm vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là: “thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và
không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xố
đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ
người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển: tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa, y tế, giáo
dục,…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực
hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trị quản lí,
điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng.

4. Nhận thức về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nứơc ta. Con
đường và mơ hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của
Việt Nam.
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã nêu lên phương hướng cơ bản của
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta gồm 7 điểm sau đây:
- …Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân
và tầng lớp trí thức làm nền tảng… do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

24


- …Phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hố đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền cơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung
tâm của thời kỳ quá độ.
- …Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hoá làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị
trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
- Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc.
- …Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam …
- …Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ…
- …Tiếp tục đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa …
Bảy điểm trong phương hướng nêu trên chính là những nhiệm vụ lớn
phải giải quyết trong thời kỳ quá độ, là nội dung của con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Nội dung đó là một hệ thống có tính tồn diện từ chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội, con người, từ xây dựng Đảng tới xây dựng nhà nước, từ thực
hiện chức năng công quyền đến chức năng xã hội của nhà nước.
Từ phương hướng trên cho thấy con đường và mơ hình để đi tới chủ

nghĩa xã hội chính là tạo ra tổng lực của phát triển, kết hợp nội lực với ngoại lực
để tăng cường nội lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế và thời
đại để giải quyết thành công nhiệm vụ chiến lược độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Như vậy, chế độ chính trị mà Đảng và nhân dân ta xây dựng là chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo đầy đủ và thực chất quyền dân chủ và làm
chủ của nhân dân lao động ở nước ta, làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh “nước ta là
một nước dân chủ, chế độ ta là chế độ dân chủ, bao nhiêu lợi ích là của nhân dân,
bao nhiêu quyền lực là của dân, thuộc về dân, mọi quyền hành và lực lượng đều
ở trong dân” trở thành hiện thực…
25


×