Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Tính dân tộc trong một số tác phẩm điêu khắc giai đoạn 1986 đến 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 83 trang )

1

PHẦN I
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1986, đất nước Việt Nam từ bỏ nền kinh tế bao cấp chuyển sang nền
kinh tế thị trường cũng là lúc nền nghệ thuật thay đổi và chuyển mình, phát triển
bắt kịp xu hướng của thế giới, trong đó các ngành nghệ thuật vận động đó, nghệ
thuật điêu khắc có sự phân hóa hoạt động và sáng tác một cách rõ rệt. Trong thời
kỳ đầu của cơ chế thị trường, các tượng đài được phát triển rất mạnh và rầm rộ.
Điêu khắc với tư cách là một bộ phận của nghệ thuật thị giác góp phần làm
nên thế giới sự nhìn của một cộng đồng văn hóa. Với chiến lược tiếp cận và giáo
dục con người có thế giới quan, nhân sinh quan về nhân cách, trí tuệ và các yếu
tố thẩm mỹ, điêu khắc là một phần thiết yếu của q trình vận động đó, nó là
phương tiện độc đáo để biểu hiện, để khám phá các giá trị vật thể và phi vật thể
của những nền văn hóa, thơng qua ngơn ngữ đặc trưng của mình nó truyền đạt
thông điệp trực tiếp nhất đến người thưởng thức qua kênh thị giác. Qua con
đường thị giác với những ngôn ngữ tạo hình cụ thể là hình khối, đường nét, màu
sắc, bề mặt, chất cảm, không gian được thể hiện rõ nét.
Nghệ thuật điêu khắc lưu giữ và phát tán những tín hiệu văn hóa dân tộc trong
mối quan hệ giữa các nền văn hóa với nhau, khi xã hội chuyển biến, điêu khắc
cũng thay đổi, biến động. Xu hướng phát triển chung của xã hội cho thấy điêu
khắc dù ở được trưng bày ở bất cứ không gian nào cũng đều phản ánh sống động
sự phát triển của văn hóa. Đối với một loại hình mang tính xã hội như điêu khắc
thì cần mở rộng của để hội nhập với thế giới, do vậy tính dân tộc và yêu cầu hiện
đại sẽ bộc lộ bằng chính cái tâm và bản năng của người nghệ sĩ.


2

Năm 1925 thành lập trường Mỹ thuật Đông Dương, từ ngôi trường này các


nhà điêu khắc được đào tạo một cách bài bản và dần khẳng định vị thế, đóng góp
vai trị to lớn của mình vào sự phát triển chung của nền mĩ thuật Việt Nam
đương đại. Cũng từ cái nôi này những “ Cây đa, cây đề” ngành điêu khắc như
Nguyễn Thị Kim, Diệp Minh Châu, Nguyễn Hải, Lê Cơng Thành,…chính họ đã
cống hiến những tác phẩm nổi tiếng, có nhiều sáng tạo, mang nhiều dấu ấn ngơn
ngữ, nội dung, hình thức có tinh thần Việt, dân tộc Việt. Tre già măng mọc, lứa
nhà điêu khắc này già đi lại có lứa điêu khắc trẻ khác kế thừa và tiếp tục sáng tạo
ra những tác phẩm mang hồn cốt Việt tinh thần dân tộc Việt. Đó là những thế hệ
tài năng kế tiếp như: Vương Học Báo, Tạ Quang Bạo, Đào Châu Hải, Lưu Danh
Thanh, Lê Đình Quỳ, Ninh Thị Đền... và hiện nay những nhà điêu khắc trẻ đã
trưởng thành và tiếp nối được các thế hệ đàn anh, tiếp tục say mê sáng tạo làm ra
các tác phẩm đẹp cho đời như: Hoa Bích Đào, Khổng Đỗ Tuyền, Lê Lạng
Lương, Thái Nhật Minh…Có thể nói những tác giả trên đã khai thác mạnh về
nguồn vô giá là những chạm khắc đình làng, là hoa văn, họa tiết, là lối tạo hình,
bố cục, là màu sắc là khơng gian…để làm tác phẩm của mình trở nên gần gũi và
đậm đà bản sắc dân tộc.
Để vấn đề nghiên cứu tính dân tộc trong nghệ thuật điêu khắc Việt Nam hiện
đại một cách chỉnh chu, nghiêm túc nhằm tìm ra giá trị độc đáo của tính dân tộc
có những tác động như thế nào, vai trị của nó ra sao và phát huy nó vào trong
sáng tác các tác phẩm điêu khắc như thế nào? rất cần có những phân tích, chứng
minh một cách rõ ràng và rành mạch.
Chính vì lý do trên và để có thêm những kiến thức về nghệ thuật điêu khắc
Việt Nam, tôi đã lựa chọn đề tài “Tính dân tộc trong một số tác phẩm điêu
khắc giai đoạn 1986 đến 2016” (Nghiên cứu trường hợp Triển lãm MTTQ)
làm khóa luận tốt nghiệp.


3

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Đề tài nghiên cứu về phong cách sáng tạo trong điêu khắc của một số nhà
điêu khắc Việt Nam hiện đại, góp phần nâng cao khả năng thẩm mỹ, xây dựng
hình tượng sáng tác tác phẩm.
Là tài liệu tham khảo cho sinh viên mỹ thuật trường Đại học Hùng Vương.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài này nhằm nghiên cứu và khẳng định tính dân tộc trong các tác phẩm
điêu khắc giai đoạn 1986 đến 2016.
Những giá trị nổi bật của tính dân tộc ở các tác phẩm điêu khắc trong nền
mỹ thuật Việt Nam hiện đại giai đoạn 1986 đến 2016.
Tiếp thu, kế thừa và phát huy những giá trị của tính dân tộc trong các tác
phẩm điêu khắc Việt Nam giai đoạn 1986 đến 2016


4

PHẦN II: NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.

Khái niệm về tính dân tộc
Tính dân tộc được hình thành từ truyền thống, mang đặc điểm và giá trị

văn hóa truyền thống với những bản sắc độc đáo của mỗi dân tộc. Tính dân tộc là
hệ tư duy, hệ thống giá trị, hình thành của giai đoạn văn hóa trong đời sống dân
tộc và nhân loại, tùy theo mỗi nền văn hóa mà tính dân tộc có nội dung khác
nhau.
Như vậy có thể hiểu, tính dân tộc được xác lập bởi chính con người trong
từng thời kỳ lịch sử và trao truyền qua từng thế hệ, có khi tiềm ẩn trong mỗi cá
nhân dưới dạng vơ thức. Hay nói cách khác, tính dân tộc chứa đựng trong đó

những yếu tố tâm sinh lý phù hợp với lịch sử phát triển của dân tộc với tính cách
là một thực thể xã hội.
Tính dân tộc phụ thuộc vào tính chất các quan hệ xã hội cũng như hình
thức hoạt động nghệ thuật chủ đạo của con người trong những giai đoạn lịch sử
khác nhau. Điều này lý giải vì sao những tác phẩm nghệ thuật chân chính có khả
năng tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử, vượt qua cả thời đại mà chúng ra đời và
có ảnh hưởng đến các thế hệ sau này.
1.2. Vài nét về tính dân tộc trong một số loại hình nghệ thuật
1.2.1. Trong văn học
Văn học cũng như mọi loại hình nghệ thuật khác đều là sản phẩm tinh thần
của một cá nhân nghệ sĩ mà cá nhân đó lại thuộc về một cộng đồng, một dân tộc
nhất định. Mỗi tác phẩm văn học ít nhiều đều mang dấu ấn riêng về văn hóa,
phong tục tập quán hay tâm lí, tính cách đặc trưng của dân tộc mình. Vậy tính


5

dân tộc có thể được xem như là một thuộc tính xã hội của văn học, là một “thuộc
tính tất yếu của việc sáng tạo”. (Bienlinxki).
Tính dân tộc trong văn học không bộc lộ một cách rõ ràng, cụ thể thành yếu
tố hữu hình mà nó thấm vào trong cảm xúc, trong cách nhìn và phương thức thể
hiện của tác phẩm, thơng qua tác phẩm nó truyền đi thơng điệp một cách rõ ràng
nhất đến người thưởng thức.
Nhà văn không phải cứ chăm chú miêu tả về cảnh sắc thiên nhiên hay kể về
những tên đất, tên làng gắn liền với dân tộc mình đang sinh sống thì tác phẩm
mới có tính dân tộc. Đọc tác phẩm “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du chúng ta thấy
trong tác phẩm xuất hiện nhiều địa danh, nhân vật, kể cả cốt truyện đều có nguồn
gốc từ đất nước Trung Hoa, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được tâm hồn dân
tộc thấm đẫm trong những tranh Kiều.
1.2.2. Nghệ thuật điện ảnh

Tính dân tộc của nghệ thuật điện ảnh bộc lộ ở hai mặt là nội dung tác phẩm
và hình thức thể hiện. Nội dung tác phẩm sẽ mang tính dân tộc khi người sáng
tác đề cập đến những vấn đề cốt lõi, quan thiết của đất nước, phản ánh những suy
nghĩ, tâm tư, tình cảm của những con người trong cộng đồng. Hình thức thể hiện
sẽ mang tính dân tộc khi nội dung tác phẩm được chuyển tải lên màn ảnh theo
đúng cách nghĩ, cách cảm của dân tộc đó, bằng hình ảnh và âm thanh đặc trưng.
Có thể thấy, tính dân tộc đa dạng về chủ đề, đồng hành cùng lịch sử dân tộc. Kể
từ bộ phim truyện nhựa đầu tiên của miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 và cũng
là bộ phim truyện đầu tiên của Nguyễn Hồng Nghi và Phạm Hiếu Dân, hãng
phim truyện Việt Nam) ra đời cho đến nay có thể thấy phim truyện đã thể hiện ở
sâu sắc tâm hồn dân tộc qua từng thời kỳ lịch sử và chính những tác phẩm đó đã
góp vào thành tựu chung của điện ảnh cách mạng Việt Nam 60 năm qua.


6

Những phim truyện đã tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, như Lửa trung tuyến, Vợ chồng A Phủ, Con chim vành
khuyên, Người chiến sĩ trẻ, Nguyễn Văn Trỗi, Nổi gió, Lửa rừng, Tiền tuyến gọi,
Chị Nhung, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Bài ca ra trận…Sau năm 1975, khơng khí
hân hoan của đất nước hịa bình, thống nhất đã tạo nên mơi trường kích thích và
địi hỏi cao sự sáng tạo của người nghệ sỹ, đặc biệt tính dân tộc trong cảm hứng
đất nước thống nhất. Nhiều phim truyện ra đời, đa dạng hơn chủ đề: Phim Sao
Tháng Tám, Ngày lễ Thánh, Mối tình đầu (1977), Tiếng gọi phía trước, Hà Nội
mùa chim làm tổ (1978), Cánh đồng hoang, Mẹ vắng nhà, Tự thú trước bình
minh (1979). Thập niên 80-90 của thế kỷ trước là thời kỳ “hoàng kim” của phim
truyện với nhiều đề tài, gồm: Ván bài lật ngửa, Làng Vũ Đại ngày ấy, Bao giờ
cho đến tháng Mười, Thằng Bờm, Đêm hội Long Trì, Kiếp phù du, Số đỏ, Vị
đắng tình u, Nước mắt học trị, Hoa ban đỏ...
Cũng như các loại hình văn học nghệ thuật khác, tính dân tộc trong tác

phẩm điện ảnh Việt Nam thể hiện ở rất nhiều khía cạnh, nhưng tập trung rõ nhất
ở ba mặt: Tư tưởng, tâm hồn và những nét sinh hoạt của một dân tộc. Đặt trong
bất kỳ một thời kỳ lịch sử nào, phim truyện đã thể hiện bao yếu tố đó ở chủ
nghĩa anh hùng cách mạng với tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc, ở chủ nghĩa anh hùng bình dị với cuộc sống giản dị, bình
thường, sự gắn bó với ông bà tổ tiên, mối quan hệ gắn kết hữu cơ giữa gia đình
và xã hội. Ở chủ nghĩa nhân văn cao cả thì tính nhân văn là một điểm mạnh của
phim truyện, có sức mạnh chinh phục mang tính tồn cầu. Đây khơng phải là đặc
trưng riêng của Việt Nam, song tính nhân văn lại mang tâm hồn dân tộc của
chính quốc gia đó. Điều quan trọng là tinh thần nhân văn của phim Việt được thể
hiện theo tâm hồn, cốt cách Việt Nam, tạo nên nét đặc sắc của tác phẩm…
Trong hình thức thể hiện, tính dân tộc không chỉ bộc lộ một chiều “tô
hồng” nhằm tôn vinh con người cần cù trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu


7

mà còn phơi bày cả những tiêu cực của con người, mặt trái của xã hội. Được xây
dựng từ một cốt truyện hoàn chỉnh, hoặc được gợi ý hoặc chuyển thể từ tác phẩm
văn học, nhân vật trong phim truyện bao giờ cũng được xây dựng theo hai tuyến
rõ rang đối lập với nhau như “nước với lửa”: chính diện và phản diện, chính và
tà, trung và nịnh, thiện và ác…Kết thúc phim thường có hậu. Đó cũng là niềm
mong ước của khán giả.
Điện ảnh thời kỳ đổi mới có những biểu hiện phong phú của tính hiện đại
và tính dân tộc. Nhiều bộ phim tạo được ấn tượng đẹp cho khán giả bởi chính
tâm hồn dân tộc: Đêm hội Long Trì , Kiếp phù du , Canh bạc , Hãy tha thứ cho
em , Vị đắng tình yêu , Thương nhớ đồng quê (1995), Đời cát (1999)…
Là đất nước “Ra ngõ gặp anh hùng”, nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng
thể hiện rất đậm nét trong những phim truyện giàu tính sử thi. Phim truyện phục
vụ nhiệm vụ chính trị của dân tộc là đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập và

thống nhất đất nước. Đặc điểm nổi bật của phim truyện chiến tranh cách mạng là
tính sử thi, tập trung ca ngợi con người với những phẩm chất cao quý như một di
sản tinh thần quý báu của dân tộc: lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần chiến
đấu quả cảm, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp chung. Những phẩm chất được phản
ánh trong phim liên quan đến đặc điểm của tính dân tộc và tính hiện đại. Các nhà
làm phim đã có thời gian tách khỏi cuộc chiến để chắt lọc những chi tiết có sức
nặng. Dưới bề mặt hiện thực ta cảm nhận những triết lý sống sâu sắc của dân tộc,
là chiều sâu của tâm hồn con người Việt Nam, cuộc sống tâm linh trong mối
quan hệ mật thiết với truyền thống dân tộc. Tư duy của người sáng tác cũng có
sự đổi mới để bắt nhịp được với thời đại và trở thành chiếc cầu nối giữa truyền
thống và hiện đại. Cũng cùng chủ đề trên, nhưng khi có “độ lùi” thời gian, tách
khỏi cuộc chiến, những tác phẩm điện ảnh đó chắt lọc để nhìn cuộc chiến bình
tĩnh và có chiều sâu hơn vì có được vốn sống và sự trải nghiệm.


8

Có thể thấy dưới bề mặt hiện thực ta vẫn cảm nhận những triết lý sống sâu
sắc của dân tộc, là chiều sâu của tâm hồn con người Việt Nam, cuộc sống tâm
linh trong mối quan hệ mật thiết với truyền thống dân tộc. Tư duy của người
sáng tác cũng có sự đổi mới để bắt nhịp được với thời đại và trở thành chiếc cầu
nối giữa truyền thống và hiện đại.
1.2.3. Nghệ thuật Kịch
Kịch là một môn nghệ thuật sân khấu, một trong ba phương thức phản ánh
hiện thực của văn học. Thuật ngữ này bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là
"hành động" (cổ điển Hy Lạp: δρᾶμα, drama), được bắt nguồn từ "I do" (Tiếng
Hy Lạp cổ: δράω, drao). Là sự kết hợp giữa 2 yếu tố bi và hài kịch. Được coi là
một thể loại thơ ca, sự kịch tính được đối chiếu với các giai thoại sử thi và thơ ca
từ khi Thơ của Aristotle (năm 335 trước Công nguyên) - tác phẩm đầu tiên của
thuyết kịch tính ra đời. Mặc dù kịch bản văn học vẫn có thể đọc như các tác

phẩm văn học khác, nhưng kịch chủ yếu để biểu diễn trên sân khấu. Đặc trưng
của bộ môn nghệ thuật này là phải hành cuộc sống bằng các hành động kịch,
thông qua các xung đột tính cách xảy ra trong quá trình xung đột xã hội, được
khái quát và trình bày trong một cốt truyện chặt chẽ với độ dài thời gian không
quá lớn. Mỗi vở kịch thường chỉ trên dưới ba giờ đồng hồ và còn tuy kịch ngắn,
kịch dài.
Căn cứ vào nội dung kịch, có thể chia thành các thể loại: hài kịch, bi
kịch, bi hài kịch, chính kịch... Cũng có thể căn cứ vào nội dung của các đề tài mà
chia kịch thành: kịch cổ điển, kịch dân gian, kịch thần thoại, kịch hiện đại... Một
cách phân chia khác dựa theo chính thời gian biểu diễn, có kịch ngắn, kịch dài.
1.2.4. Trong Âm nhạc
Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật dùng âm thanh để diễn đạt. Các yếu tố
chính của nó là cao độ (điều chỉnh giai điệu), nhịp điệu (và các khái niệm liên


9

quan của nó: tempo, tốc độ), âm điệu, và những phẩm chất âm thanh của âm sắc
và kết cấu bản nhạc. Từ gốc music xuất phát từ tiếng Hy Lạp μουσική (mousike;
"nghệ thuật của Muses").
Bản sắc dường như là một “mặc định” trong suy nghĩ của nhiều người Việt
chúng ta mỗi khi nói tới tính dân tộc trong âm nhạc. Tuy nhiên, để chỉ ra những
gì cụ thể thật khơng đơn giản.

Hình 1.1. Hát xoan cửa đình
Lướt một vịng theo dải đất hình chữ S, chúng ta vẫn cịn q nhiều những
gì thuộc về âm nhạc dân tộc. Chỉ tính riêng những di sản được vinh danh tầm thế
giới đã có một số lượng tương đối. Từ quan họ, ca trù, hát xoan của miền Bắc tới
ví giặm xứ Nghệ, nhã nhạc cung đình Huế, cồng chiêng Tây Nguyên của miền
Trung, vào Nam có thêm đờn ca tài tử. Vẫn cịn đó hát then, hát văn, bài chịi…

đang trên hành trình chờ ngày UNESCO vinh danh. Và cịn biết bao di sản âm
nhạc khác nữa của người Kinh cũng như các tộc người trên khắp đất nước khó có
thể kể đầy đủ ra đây. Cịn chưa nói tới những tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác
nhau của nền âm nhạc mới giờ cũng là một di sản đồ sộ và quý giá. Nhưng tính
dân tộc thể hiện ở đâu trong những di sản ấy? Đương nhiên, nó hiện hữu trong
tất cả các di sản và thể hiện trong từng chi tiết tạo nên diện mạo của mỗi di sản.


10

Điều này tôi luôn coi là một phi thường và từ đó càng thêm nể phục, ngưỡng mộ
những bậc tiền nhân mỗi khi soi lại quá khứ về hành trình âm nhạc của dân tộc.
Gần như chỉ biết tới cây đàn bầu là một trong số hiếm hoi nhạc cụ do cha
ơng ta tạo nên. Cây đàn có âm thanh trữ tình buồn man mác nghe rất quyến rũ.
Sự ra đời gắn liền với người hát xẩm, lại chỉ có nam giới dùng nên dân gian mới
khuyên răn “Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu”. Âm thanh của tiếng đàn rất
gần với giọng người, được ví như giọng hát thứ hai cùng song ca với nghệ nhân.
Vậy thì phải chăng, nhạc hát mới là bản chất của nhạc Việt khi mà hầu hết di sản
xưa nhất đều là những thể loại ca hát dân gian khơng nhạc đệm, có chăng chỉ là
nhạc cụ gõ đơn giản như trong hát xoan, hát ví, hát đúm, trống quân, quan
họ...Tuy nhiên, sự giao lưu tiếp biến không chỉ diễn ra ở riêng nhạc hát dân gian
mà nó ở ngay trong chính những yếu tố du nhập từ bên ngoài vào.
Lớp nhạc sĩ thế hệ đầu tiên nhanh chóng đưa nhạc mới đến gần với màu sắc
dân ca. Ngay cả những bài hành khúc như “Chiến thắng Điện Biên” (Đỗ Nhuận)
cũng tràn ngập âm hưởng dân gian từ đồng bằng đến miền núi phía Bắc. Những
thể loại lớn như ca kịch, nhạc kịch cũng vậy, yếu tố dân tộc ln chiếm vị trí chủ
đạo. Trong khí nhạc tính dân tộc cũng ln ở vị trí hàng đầu. Nhà soạn nhạc
Nguyễn Thiên Đạo thành cơng ở Pháp có lẽ bởi chính từ phương châm sáng tác
của ơng là: “Dân tộc đích thực, nhân loại tiên phong”.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận từng viết: “Tôi thấy cách sáng tác do tinh hoa của vốn cổ

dân tộc (cả hình thức lẫn nội dung) đã “nhập” vào tâm hồn người viết một cách
nhuần nhuyễn và bật ra thành ngôn ngữ thời đại của dân tộc là một cách sáng tác
lý tưởng”. Tính dân tộc trong âm nhạc mang tính trìu tượng nhưng nó lại có sức
sống vơ cùng mạnh mẽ bởi nó nằm trong chính tâm thức, bản năng và suy nghĩ
và hành động của người Việt. Có lẽ trong suốt q trình lập nước ln gắn với
việc đấu tranh đánh đuổi giặc ngoại xâm để giữ nước nên ý thức về tính dân tộc
ln được đặt lên hàng đầu.


11

1.2.5. Trong Mỹ thuật
Mỹ thuật Việt Nam hiện đại hình thành trong bối cảnh thuộc Pháp, cùng với
sự ra đời của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (giai đoạn 1925-1945).
Đó là giai đoạn văn hóa Việt Nam giao lưu tiếp xúc văn hóa Đơng - Tây đầy sơi
động, góp phần tạo ra sự biến đổi diện mạo của văn hóa Việt Nam nói chung, mỹ
thuật Việt Nam nói riêng.
Sự tiếp xúc với mỹ thuật Pháp và phương Tây đem lại một diện mạo mới
cho mỹ thuật Việt Nam. Sự hình thành diện mạo mới của mỹ thuật Việt Nam
hiện đại được thực hiện theo quy trình: tiếp nhận, sao phỏng, biến đổi theo
hướng bản địa hóa các yếu tố văn hóa ngoại sinh.
Giai đoạn thời mỹ thuật Đơng Dương có nhiều ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển của mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Đó là bước chuyển từ nền mỹ
thuật dân gian sang nền mỹ thuật hiện đại có tính bác học, hàn lâm theo hướng
phương Tây hóa. Các họa sĩ thời đó được đào tạo trong mơi trường giáo dục
phương Tây, từ giáo trình, chương trình học, thầy giáo cho đến học liệu, họa
phẩm..., nhưng các tác phẩm của họ vẫn phản ánh đậm nét cốt cách và tâm hồn
dân tộc. Trước hết, chúng ta đều nhận thấy đối tượng phản ánh và miêu tả hội
họa Việt Nam giai đoạn này là thiên nhiên và con người Việt Nam. Làng quê và
những người lao động bình dị là chủ đề khá bao trùm trong các bức tranh thời

đó. Trường hợp tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh (1892-1984) là một ví dụ tiêu
biểu. Tồn bộ nhân vật, cảnh sinh hoạt, lao động trong tranh của Nguyễn Phan
Chánh là thể hiện đời sống thôn quê thường nhật, bình dị, ấm áp. Tiêu đề của các
bức tranh đã phản ánh khá rõ chủ đề của chúng, ví như: Chơi ô ăn quan, Ra
đồng, Đi chợ về, Rửa rau cầu ao…
Lúc đầu khi người Pháp mở trường dạy mỹ thuật là nằm trong chiến lược
của chính sách đồng hóa của thực dân. Điều này dễ nhận thấy ở những mục tiêu


12

đào tạo khác nhau trong những giai đoạn khác nhau. Người có cơng lớn cho sự
ra đời của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương là người hiệu trưởng đầu
tiên Vichtor Tardieu. Chính giai đoạn từ 1925 đến 1937, từ ngôi trường danh
tiếng này xuất hiện nhiều họa sĩ Việt Nam danh tiếng, mà các tác phẩm của họ
đặt nền móng cho nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại như Tô Ngọc Vân, Trần Văn
Cẩn, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Đỗ Cung… Người kế nhiệm Vichtor Tardieu
là Evarite Jonchere, một nhà điêu khắc có tư tưởng thực dân đã phát biểu
“Trường Mỹ thuật Đông Dương chỉ nên đào tạo những người thợ lành nghề”. Ý
tưởng đào tạo thợ mỹ nghệ đã được thể chế hóa bằng việc đổi tên trường từ
Trường Mỹ thuật Đông Dương (L' Ecole des Beaux - Art des Indochine) thành
Trường mỹ thuật và mỹ nghệ ứng dụng (L' Ecole superieure des Beaux - Arts et
des Arts appliques de L' Indochine). Tư tưởng này đã bị vấp phải sự phản kháng
mãnh liệt của sinh viên. Một sự kiện được nhiều người nhắc đến, đó là tại Triển
lãm Đấu Xảo 1931 tại Paris, khách tham quan đã rất ấn tượng với bức tranh
lụa Chơi ô ăn quan của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh. Với thành công này, tranh
của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh trở thành người đại diện tiêu biểu cho tranh lụa
Việt Nam hiện đại. Tiếp bước Nguyễn Phan Chánh, những người bạn học của
ông như Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Nguyễn Tường Lân, Lê Thị Lựu, Trần Văn
Cẩn, Lương Xuân Nhị cũng đã bắt đầu vẽ lụa trong khi vẫn tiếp tục vẽ tranh sơn

dầu. Cả nhóm đã sáng tác những bức tranh lụa mang tâm hồn họ cộng hưởng với
truyền thống dân tộc. Những bức tranh Em bé cho chim ăn của Nguyễn Phan
Chánh, Hiện và hoa của Nguyễn Tường Lân, Chị em của Lê Thị Lựu, Thiếu
nữ của Lê Văn Đệ, Mai Trung Thứ...đã dần khẳng định tranh lụa Việt Nam là
một trường phái độc đáo chứ không phải là bản sao của tranh lụa Trung Quốc.
Vẽ lụa nhưng không dùng nét như tranh quốc họa của Trung Quốc hay tranh
khắc gỗ Nhật Bản, xây dựng hình họa vững vàng, nhưng khơng theo lối diễn tả
sáng tối như của Châu Âu.


13

Là một trong số ít nữ sinh mỹ thuật thời đó, bà Lê Thị Lựu tham gia hội các
nữ họa sĩ và điêu khắc, sau khi đã tốt nghiệp trường mỹ thuật và được nhận giải
thưởng về tranh lụa của hội. Tranh của Lê Thị Lựu mang đậm hình ảnh người
phụ nữ Việt Nam và Châu Á. Bà thích những đề tài về gia đình và thích bày tỏ
tình u qua các đề tài phụ nữ và trẻ em. Phong cách nghệ thuật của bà mang
tính kinh điển, nhưng ln thể hiện bằng một bút pháp mềm mại và một gam
màu dịu dàng. Lúc đầu bà cũng vẽ theo phong cách Trung Quốc, dùng các mảng
màu có viền nét, sáng tối phân cách, sau mới chuyển dần sang các ảnh hưởng
của phái ấn tượng Pháp như Cezanne, Renoir, nhưng cái cốt lõi vẫn luôn là một
tinh thần phương Đông, đặc biệt là Việt Nam.
Họa sĩ Mai Trung Thứ tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đơng Dương
khóa đầu tiên (1925-1930). Tác phẩm hội họa của ơng thoạt nhìn giống như là
nghệ thuật dân gian: đường nét, màu sắc mộc mạc, có khi khơng theo luật viễn
cận. Tranh của ơng chứa chan tình cảm luyến tiếc cái cổ xưa, cái thiện lương.
Nói đến tranh sơn mài Việt Nam, người ta khơng thể khơng nói đến danh
họa Nguyễn Gia Trí. Ơng là người đầu tiên trong số nhiều họa sĩ Việt Nam gặt
hái được thành cơng rực rỡ trên con đường tìm tịi chất liệu tạo hình mới mang
nét đặc sắc Việt Nam. Mặc dù ông áp dụng cả phương pháp tiếp cận hội họa hiện

đại phương Tây nhưng kỹ thuật sơn mài của ơng dùng là thuần Việt. Có thể nói,
Nguyễn Gia Trí đặt chuẩn mực cho hội họa sơn mài chính thống Việt Nam, tranh
của ơng dường như là hình ảnh phản chiếu của đối tượng dưới một mặt nước
trong veo. Các họa sĩ vẽ tranh sơn mài khác như Trần Văn Cẩn, Trần Quang
Trân, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Văn Tỵ...đều có những đóng góp đáng kể
cho việc khẳng định tính chất độc đáo của hội họa sơn mài Việt Nam. Họ thường
vẽ phong cảnh, đình chùa, cầu quán, bờ tre, sông biển...với những màu sơn mài
truyền thống như son, then, vàng, bạc cánh gián cùng gam màu lạnh và các thủ
pháp tạo hình khơng dễ làm chủ.


14

Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội. Khi một nền nghệ thuật phát
triển đến trình độ có khả năng phản ánh mâu thuẫn xã hội thì khuynh hướng
nghệ thuật kết tinh của ý thức xã hội mới phát triển. Trong thời kỳ Pháp thuộc,
họa sĩ theo xu hướng hiện thực phản ánh đời sống thực tế của nhân dân, nhất là
nhân dân lao động, họ nêu lên được những đức tính cần cù, chịu khó, tâm hồn
mộc mạc, chất phác của tầng lớp này, làm cho người xem tranh biết yêu quê
hương đất nước, biết trăn trở và suy nghĩ trước thực tại.
1.3. Khái niệm về tính dân tộc trong nghệ thuật điêu khắc
Tính dân tộc trong nghệ thuật điêu khắc có thể được hiểu là những đặc
điểm nổi bật của cộng đồng người có chung lãnh thổ, ngơn ngữ, phương thức và
chế độ chính trị trải qua một thời kì lịch sử lâu dài được chiêm nghiệm, được
nghiên cứu, vận dụng ngơn ngữ tạo hình để chuyển tải vào tác phẩm thơng qua
bàn tay, khối óc, sự sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm đưa đến người xem một tác
phẩm hồn chỉnh nhất.
Như vậy có thể hiểu tính dân tộc trong tác phẩm điêu khắc được nhà điêu
khắc trải qua quá trình chiêm nghiệm, nghiên cứu, suy tư những giá trị truyền
thống, giá trị văn hóa với những bản sắc độc đáo của mỗi dân tộc, của cộng

đồng, lãnh thổ, đất nước, chuyển tải nó vào tác phẩm thông qua các phương
pháp, cách thức, ngôn ngữ thể hiện nhằm đưa đến người xem một nội dung cụ
thể nhất định.
1.3.1. Tính dân tộc trong điêu khắc cổ truyền của người Việt
Phải nói rằng tính dân tộc được hình thành phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên, phương thức sản xuất và lối sống của dân tộc. Những yếu tố này tác động
đến cách nghĩ, cách cảm, cách ứng xử cụ thể trên những vật thể xác định. Trước
một tác phẩm điêu khắc như tượng phật, tượng thú, người Việt có xu hướng
thiên về một sự vật có kích thước vừa phải, khơng to hoặc nhỏ q, vẻ ngồi ít
phơ trương, mang tính hịa đồng nhiều hơn là tính nổi trội. Tượng được kết hợp


15

những đường nét trang trí hài hịa, mềm mại, khơng cứng nhắc. Chủ đề của
những bức tượng thường có sự liên kết với đời sống hàng ngày, ít mang tư tưởng
thần bí mà chủ yếu mang tính nhân văn.
Có thể phân tích và quan sát nhận thấy tượng hổ ở lăng Trần Thủ Độ có
cấu trúc tạo hình khối thơ, mang tính gợi hơn là tả. Dáng vẻ của tượng cũng hiền
lành nên dù là tượng về một loài thú dữ nhưng trông vẫn gần gũi với con người.
Hay tượng hổ ở đền Y Sơn (Đông Môn tự), lăng Nguyễn Cơng Triều, dù mang
tính tả thực nhưng cũng được tạo hình theo dáng vẻ của con vật ni, khơng thấy
biểu trưng rõ nét nào của một loài thú dữ. Cả hai tượng có tạo dáng như chú chó
đang canh nhà, đượm một vẻ đẹp hồn nhiên, bình dị. Tượng hổ của người Việt ở
chốn tâm linh có lối tạo hình và dáng vẻ khác biệt so với tượng cùng chủ đề của
nước ngoài, chẳng hạn như ở Nhật Bản.
Tượng điêu khắc bằng đá xuất hiện rất nhiều trong những công trình tín
ngưỡng của người Việt, từ lăng mộ cho đến đền, chùa, miếu... với nhiều dáng vẻ
khác nhau.
Những tượng đá mang mỹ cảm của dân tộc Việt đều có một tinh thần

chung, có tính biểu cảm riêng, khác biệt so với tượng của những nước khác. Nét
đặc trưng trong cách tạo hình của tượng người Việt được hình thành từ tâm lý
dân tộc với bản tính chịu ảnh hưởng, tác động từ nền văn hóa lúa nước trọng âm,
trọng tình. Trong cách tạo hình tượng thú hầu như khơng xuất hiện lối tạo hình
hướng ngoại hay mang dáng vẻ dữ tợn, hung bạo như ở một số nền văn hóa
trọng dương. Những con vật tượng trưng cho sức mạnh, nhanh nhẹn như voi, hổ,
ngựa, chó được người Việt tạo hình với dáng vẻ mềm mại, nhẹ nhàng, mang tính
ước lệ cao.
Tượng con vật mang tính huyền thoại của người Việt như nghê cũng được
tạo hình gần gũi với những con vật thân thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng
ngày của người dân. Tượng nghê đá ở lăng Dinh Hương là một điển hình về sự
tài tình trong lối tạo hình của nghệ nhân dân gian. Tượng này mang tính tổng


16

hợp cao của những con vật gần gũi trong cuộc sống như cách điệu dáng ngồi,
chân của chó và vẩy cá, miệng của cá chép...
Theo Phật giáo, các con vật dù với vẻ bên ngoài dữ tợn, nhưng khi đến nhà
Phật đều mang dáng vẻ hiền lành bởi đã được cảm hóa. Theo ý nghĩa biểu tượng
trong Phật giáo, tượng sư tử biểu thị cho sự uy mãnh của trí tuệ hay tượng voi
mang ý nghĩa tượng trưng cho sự kiên định của lý trí. Hiểu được ý nghĩa của
tượng thú trong chùa như vậy thì chắc rằng khơng ai đi đặt những tượng sư tử dữ
tợn trong và ngoài cửa chùa, bởi trí tuệ khơng phải thứ đi hù dọa người khác mà
là phương tiện để giúp mỗi người hiểu mình, hiểu người, tự giác ngộ, sớm xóa
bỏ sự vô minh.
Tượng cừu đá ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) cũng như vậy. Cừu là
con vật được mang đến vùng đất Việt cùng quá trình truyền giáo của người Ấn
Độ ở giai đoạn đầu của thiên niên kỷ đầu tiên, nhưng qua cấu trúc tạo hình tổng
thể và những nét trang trí mang bản sắc, dễ nhận ra của văn hóa và con người

vùng đất tạo ra nó.
Ngay cả tượng con lân, một con vật huyền thoại, linh thiêng có xuất xứ từ
nền văn hóa phương Bắc, nhưng khi xuất hiện ở khơng gian văn hóa Việt, cũng
đã được những nghệ nhân dân gian tạo hình cho phù hợp với mỹ cảm dân tộc.
Tượng lân đá ở lăng họ Ngọ (Hiệp Hòa, Bắc Giang) cho chúng ta thấy dáng vẻ
hiền hòa, gần gũi, đáng yêu của một con thú nuôi, chứ không tạo cảm giác uy
quyền, xa cách. Cách tạo hình của tượng lân càng làm chúng ta hiểu hơn về sự
tinh tế trong cách người Việt đón nhận những giá trị của nền văn hóa khác nhưng
có sự biến đổi cho phù hợp với thẩm mỹ chung của cộng đồng, chứ không tiếp
nhận hay vay mượn một cách máy móc.


17

Hình 1.2. Tượng hổ đá lăng Trần Thủ Độ
Sự tiếp biến văn hóa với thái độ chủ động này cịn được thấy ở ngay hệ
thống tượng lăng mộ của người Việt. Tượng thú lăng mộ của người Việt chủ yếu
là những con vật quen thuộc như voi, ngựa, chó, nghê, cá sấu, lân...Tượng thú dữ
như hổ xuất hiện rất ít, nhưng cũng được tạo hình mềm mại, khơng tạo cảm giác
dữ tợn. Tượng sư tử đá dữ tợn, gân guốc với dáng vẻ đe dọa, đặc trưng của tượng
thú canh lăng mộ của Trung Hoa, mang ý nghĩa trấn áp tà ma, không xuất hiện
trong những lăng mộ của người Việt.
Tìm hiểu về điều này để thấy được sự xa lạ trong dáng vẻ cũng như tinh
thần mà một số tượng ngoại lai được đặt ở những nơi công cộng thời gian qua.
Rõ ràng, chúng không phù hợp với cảm xúc thẩm mỹ của người Việt, kể cả trong
tiềm thức của cộng đồng. Điều rất thú vị là, những tượng thú, tượng linh vật của
người Việt được trưng bày tại một số cuộc triển lãm quy mơ tồn quốc được
người dân thích thú, hào hứng và cảm phục sự sáng tạo tài tình của nghệ nhân
điêu khắc cổ truyền. Đa số các ý kiến của người dân sau khi xem triển lãm đều
khẳng định việc cần thiết phải tuyên truyền, quảng bá sâu rộng cho mọi người

biết những giá trị của văn hóa nghệ thuật dân tộc, góp phần quan trọng giúp
người dân tự ý thức được niềm tự hào dân tộc, có những hành xử phù hợp trong


18

việc mua, trưng bày, cúng tiến tượng đến các cơ sở tơn giáo, tín ngưỡng. Mỹ
cảm của dân tộc ln hiện hữu trong tâm thức mỗi người dân chứ không dễ dàng
thay đổi hoặc biến mất. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, giới thiệu… giúp người
dân hiểu biết đúng về những giá trị của nền văn hóa dân tộc nói chung, trong đó
có những hiện vật tượng đá là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Trong bài báo của họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, đăng trên báo Ngày nay, số 14,
ngày 7-1-1939, cũng cũng thể thấy niềm tự hào dân tộc, căn ngun hình thành
nên tính dân tộc trong các tác phẩm của các họa sĩ Việt Nam: “Ông (tức Evarite
Jonchere - NV) là một nhà điêu khắc gia, tơi mời ơng hãy chịu khó xem qua
những đồ khắc ở chùa Đậu, đình Đình Bảng, chùa Cói, chùa Keo hay đình Chu
Quyến và mời ơng thử so sánh những nét chạm từ cổ chí kim của Nhật Bản hay
những tác phẩm của ông, xem đằng nào thâm trầm, gân guốc và đặc sắc hơn, rồi
lúc đó sẽ thong thả nghe ơng tun bố lại. Đó là tơi cũng chưa kể đến Ăngkor
cũng của người Đơng Dương đó”.
1.3.2. Vài nét về nghệ thuật điêu khắc Việt Nam hiện đại
Điêu khắc là tác phẩm nghệ thuật ba chiều được tạo ra bằng cách tạo hình
hoặc kết hợp vật liệu như kim loại, đá, thủy tinh, hoặc gỗ. Vật liệu cũng có thể
được sử dụng như đất sét, dệt may, nhựa, polyme và các kim loại nhẹ nhàng hơn.
Thuật ngữ này đã được mở rộng để cơng trình điêu khắc bao gồm cả không gian
âm thanh, ánh sáng, không gian hư ảo và không gian tâm linh.
Các nhà điêu khắc làm việc bằng cách loại bỏ như khắc, hoặc họ có thể
được lắp ráp như hàn, làm cứng như đúc. Trang trí bề mặt bằng sơn có thể được
áp dụng. Điêu khắc đã được mơ tả như là nghệ thuật tạo hình cơng nghiệp vì nó
liên quan đến việc sử dụng các vật liệu có thể được đổ khn hoặc điều chế. Sản

phẩm thu được là tác phẩm điêu khắc.


19

Điêu khắc là một hình thức quan trọng của nghệ thuật công cộng. Một bộ
sưu tập nghệ thuật điêu khắc trong một khu vườn có thể được gọi là một khu
vườn điêu khắc.
Một cách tiếp cận nghiên cứu nghệ thuật thơng qua q trình giao lưu, tiếp
biến văn hóa được các nhà dân tộc học Pháp và nhân học phương Tây đưa ra vào
cuối TK XIX. Cách tiếp cận này nói đến sự tiếp xúc trực tiếp và lâu dài giữa hai
nền văn hóa khác nhau, dẫn đến sự biến đổi của một số loại hình văn hóa thuộc
một hoặc cả hai nền văn hóa đó. Nói cách khác, giao lưu tiếp biến văn hóa là cơ
chế của biến đổi văn hóa. Sự biến đổi này mang tính tất yếu nhưng khơng xóa bỏ
những giá trị đặc trưng mà có thể cịn làm giàu có thêm cho mỗi nền văn hóa.
Đây cũng là cách tiếp cận của sử học nghệ thuật, khi xem xét nghệ thuật trong
mối tương quan với bối cảnh văn hóa xã hội, được khởi xướng bởi Carl Jacob
Christoph Burckhardt (1818 - 1897) và Hippolyte Adolphe Taine (1828 - 1893).
Tác giả Jacob C. Burckhardt đưa ra quan điểm nghệ thuật nhằm mơ tả tinh thần
và các hình thức biểu hiện của một thời đại đặc biệt, một con người đặc biệt,
hoặc một địa điểm cụ thể. Và tác giả Hippolyte A. Taine thì đặc biệt chú ý đến
cách tiếp cận ba yếu tố chủng tộc, môi trường, thời điểm để nghiên cứu một tác
phẩm nghệ thuật. Sau này, nhà nghiên cứu Thái Bá Vân có bài viết Sử học mỹ
thuật như một hệ thống và đưa ra một số luận điểm: sử học mỹ thuật Việt Nam
không thể đứng ngoài hệ thống thế giới; nội dung lịch đại của sử mỹ thuật; vấn
đề xa rời sử sách và thời sự nước ngoài trong nghiên cứu mỹ thuật… Theo ơng,
nghệ thuật là một cái gì phổ qt, liên tục và thường trực bởi vậy không bao giờ
đứng yên mà luôn luôn hiện diện trong những tiếp xúc. Với quan điểm này, điêu
khắc hiện đại Việt Nam lần lượt thực hiện những cuộc tiếp xúc trong hoàn cảnh
lịch sử khác nhau. Nếu cuộc tiếp xúc đầu tiên với nghệ thuật Pháp, qua trường

Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương trước đây, đã xác lập một nền điêu khắc hiện
đại có hệ thống, từ việc đào tạo chính thức trong nhà trường đến tác giả, tác


20

phẩm thì cuộc tiếp xúc lần thứ hai với phong trào hiện thực xã hội chủ nghĩa đã
tạo nên một bước chuyển trong tư duy thẩm mỹ cũng như phong cách tạo
hình. Sau đó, trong cuộc tiếp xúc hiện nay, với một thế giới mở rộng và đổi
khác, đã tạo nên một nền điêu khắc phong phú, đa dạng về hình thức thể hiện và
tạo nên tính chất riêng biệt cho mỗi tác giả.
Cuộc tiếp xúc lần thứ nhất dẫn đến sự xuất hiện của mỹ thuật hiện đại Việt
Nam nói chung, trong đó có nghệ thuật điêu khắc. Trong những năm
đầu TK XX, người Pháp đã thành lập một số trường đào tạo người có tay nghề,
hình thành đội ngũ lao động bản địa phục vụ cho mục đích khai thác thuộc địa.
Năm 1901, họ mở trường Mỹ nghệ bản xứ Thủ Dầu Một; năm 1903, mở trường
Mỹ nghệ bản xứ Biên Hòa; năm 1913, mở trường Mỹ nghệ bản xứ Gia Định;
năm 1918, mở trường Canh nông kỹ nghệ tại Hà Nội; năm 1920, lập trường
Nghệ thuật thực hành…Sinh viên ở các trường này được học hình họa và thực
hành theo chương trình cụ thể, khác với hình thức truyền nghề trước đây. Cũng
trong bối cảnh này, nhiều cuộc triển lãm được tổ chức tại Pháp và Việt Nam
nhằm giới thiệu tranh, tượng của Pháp hay những hiện vật đặc sắc của văn hóa
Việt như trống đồng Ngọc Lũ, tượng cổ, đồ mỹ nghệ trang trí bằng vàng, bạc,
gốm, tre…Năm 1923, Hội Khai trí tiến đức đã tổ chức cuộc đấu xảo đầu tiên của
người Việt tại Hà Nội với mục đích khuyến khích việc sáng tạo của các nghệ
nhân, khẳng định những giá trị tiêu biểu của mỹ nghệ dân tộc. Do có sự giao lưu
với nghệ thuật phương Tây nên thời kỳ này, một số tượng như quan hầu, lính
hầu, thú ở lăng Khải Định đã có những sự thay đổi về cấu trúc và chất liệu, như
bê tông cốt thép thay cho gỗ, đá… và đặc biệt, xuất hiện bức tượng tả chân dung
vua Khải Định bằng đồng (năm 1922).

Có thể nói, giai đoạn trước năm 1925, cùng với việc tiếp nối những giá trị
tạo hình của điêu khắc cổ truyền, một số cá nhân đã được làm quen, tiếp xúc với
nền điêu khắc hiện đại trên thế giới và đã có tác phẩm điêu khắc theo xu
hướng này như Em bé ngồi học, Sĩ nông công thương của Nguyễn Đức Thục…


21

Tuy nhiên, điêu khắc hiện đại Việt Nam được tính từ khóa 1 (1925 1930) của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, với sự tham gia của sinh
viên đầu tiên là Nguyễn Gia Khánh (Georges Khánh). Thời điểm đó, người Việt
Nam đến với nghệ thuật phương Tây với một tâm trạng háo hức tìm kiếm những
giá trị của cái đẹp khác với những gì họ đã biết. Trong trường, họ được tìm hiểu,
học tập có bài bản, trường quy, bắt đầu từ chủ nghĩa cổ điển TK XVII. Chính
điều này đã tác động nhiều đến những sáng tác điêu khắc thời kỳ đầu, chủ yếu là
tượng tròn và phù điêu, theo xu hướng diễn tả khối mượt mà, tả thực. Các tác
giả cố gắng tái hiện hình ảnh của nhân vật sao cho có sự chân xác, đặc biệt là
phản ánh được tâm trạng chung của xã hội đương thời. Điều này khác biệt với
những tác phẩm hội họa cùng thời khi họa sĩ Tơ Ngọc Vân nói: “Cái đẹp trong
tranh khơng phải cái đẹp ngồi đời”. Mặc dù trong giai đoạn từ 1925 đến 1945,
ngành điêu khắc của trường chỉ có 10 sinh viên nhưng cũng đủ để lại dấu ấn
đáng kể, với những tác phẩm tiêu biểu như Cơ gái cài lược (1929), tượng trịn
của Vũ Cao Đàm, Đường phố(1937), phù điêu thạch cao của Phạm Gia Giang…
Phải kể đến một số giáo sư, họa sĩ người Pháp tham gia giảng dạy tại
trường như V.Tardieu, J. Inguimberty, C.A.Lemaire, E.Jonchère... đã có những
ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của một số sinh viên điêu khắc thời kỳ
này, trong đó vai trị của E. Jonchère (1892 - 1956) là rất lớn.
Về mặt lý thuyết, cuộc tiếp xúc lần thứ hai được khởi đầu bằng Hội nghị
tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc (tháng 9 - 1949) nhưng trên thực tế, ảnh hưởng
sâu rộng của lý thuyết ấy bắt đầu rõ nét từ cuối những năm 50, TK XX, chủ yếu
ở miền Bắc và về sau ở vùng giải phóng của miền Nam. Sau Cách mạng tháng

Tám, trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương bị giải thể, thay vào đó là trường
Mỹ thuật Việt Nam do họa sĩ Tơ Ngọc Vân làm hiệu trưởng. Nhưng hồn cảnh
lúc đó chỉ cho phép trường được chính thức hoạt động từ năm 1950 với khóa
sinh viên đầu tiên gồm 22 người, khơng có ai học điêu khắc. Đến khóa thứ hai
(1954 - 1957), trường có 4 người theo học điêu khắc, là các ông Phạm Mười,


22

Nguyễn Phước Sanh, Võ Văn Tấn, Lê Công Thành. Cùng với sự thay đổi của bối
cảnh xã hội, nền điêu khắc hiện đại non trẻ của nước nhà đã có những biến đổi
trong nhận thức và chủ đề sáng tác. Đối tượng phục vụ lúc này của nghệ thuật là
tầng lớp công - nông - binh, người dân lao động. Do vậy mỹ thuật cần phải dễ
hiểu, giản dị, gần gũi với quần chúng, nội dung cần phản ánh được thời cuộc.
Kỹ thuật thể hiện và hiệu quả thị giác trên bề mặt tác phẩm vẫn mang âm hưởng
của giai đoạn trước, kế thừa mà khơng có sự thay đổi đột ngột bởi đội ngũ họa sĩ
trong giai đoạn này vẫn được đào tạo và ảnh hưởng của phong cách, kỹ thuật
trong giai đoạn trước.
Trong giai đoạn 1954 - 1975, điêu khắc hiện đại Việt Nam ở miền Bắc
chịu sự chi phối bởi xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa nên hầu hết các tác
phẩm được sáng tác phục vụ mục đích tuyên truyền cho cách mạng, phản ánh
tinh thần thời cuộc. Những tác phẩm giai đoạn này dù không nhiều nhưng đã
phản ánh được ý thức của người nghệ sĩ trước khơng khí chung của xã hội lúc
bấy giờ. Các nhà điêu khắc sử dụng lối tạo hình chân thực, dễ hiểu đối với đại bộ
phận người dân để phản ánh chủ đề tư tưởng. Tác phẩm điêu khắc thời kỳ này là
sự kết hợp giữa chủ nghĩa hàn lâm kinh viện và chủ nghĩa tự nhiên, không chú
trọng nhiều đến sắc thái biểu cảm cho khối. Đến những năm 60, TK XX, đội ngũ
những nhà điêu khắc đã được mở rộng với sự đào tạo tại 2 trường Cao đẳng
Mỹ thuật Việt Nam và trường Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội, cũng
như một số nhà điêu khắc được đào tạo tại nước ngoài trở về (chủ yếu là từ Liên

Xơ). Chính việc được đào tạo có hệ thống kết hợp với giao lưu, học tập, tìm hiểu
về nghệ thuật ở bên ngồi nên một số nhà điêu khắc đã có những tác phẩm tạo
nên sự khác biệt trong mặt bằng chung của nền mỹ thuật Việt Nam thời kỳ này.
Cùng giai đoạn 1954 - 1975, ở miền Nam, có nhiều hoạt động mỹ thuật sơi
nổi, với trung tâm lớn nhất là Sài Gòn. Ngày 31-12-1954, trường Cao đẳng
Mỹ thuật Sài Gòn được thành lập. Việc điều hành trường được giao cho họa sĩ
Lê Văn Đệ. Với vai trị giám đốc, ơng phát biểu “Trường Cao đẳng Mỹ thuật Sài


23

Gòn được tổ chức theo nền tảng của các trường: Trường Cao đẳng
Mỹ thuật Đông Dương, trường Cao đẳng Mỹ thuật Paris và Viện Đại học Mỹ
thuật Roma”. Việc xác lập này đã đưa nội dung, phương pháp học tập của nhà
trường theo khuynh hướng nghệ thuật tân cổ điển. Những giảng viên điêu khắc
tham gia đợt đầu Trương Đình Ý, Nguyễn Phi Hùng, Nguyễn Văn Yến, Lê Văn
Mậu, Nguyễn Thanh Thu, Lê Thành Nhơn…Bên cạnh đó, việc ra đời của trường
Cao đẳng Mỹ thuật Huế vào năm 1957 cũng đóng góp khơng nhỏ trong việc đào
tạo nên những nhà điêu khắc giai đoạn này. Lúc này, một số nhà điêu
khắc từng học ở Pháp cũng về tham gia giảng dạy như nhà điêu khắc Lê Ngọc
Huệ.
Như vậy, điêu khắc hiện đại Việt Nam giai đoạn này vận động theo hai
khuynh hướng khác nhau. Các tác phẩm sáng tác ở miền Bắc và vùng giải phóng
miền Nam hướng về nhiệm vụ cách mạng và đời sống nhân dân, phát triển nền
nghệ thuật theo xu thế hiện thực XHCN, chân phương, giản dị. Trong khi đó,
một số tác phẩm tại miền Nam theo xu hướng xóa bỏ những phong cách nghệ
thuật trước đó, cổ vũ sức sáng tạo, những đột phá trong điêu khắc (nhất là nhóm
Sáng tạo, hội Họa sĩ trẻ…).
Cuộc tiếp xúc thứ ba là cuộc hội ngộ giữa nghệ sĩ hai miền Nam Bắc và
cũng là cuộc tiếp xúc với các xu hướng của điêu khắc thế giới. Những yếu tố này

đã giúp cho nghệ sĩ sáng tác được cởi trói trong sáng tạo bởi mục đích của nghệ
thuật khơng cịn phải chú trong q mức đến việc phục vụ chính trị và phản ánh
đời sống xã hội. Sự mở rộng của phạm vi của đề tài và quan niệm thẩm mỹ là
những tác động quan trọng, động lực cho những sáng tác điêu khắc sau này bởi
hình khối khơng chỉ tái hiện hình ảnh của hiện thực mà còn thể hiện những chất
chứa bên trong tâm hồn hoặc có khi, ghi nhận lại những khoảng khắc ấn tượng
của thị giác.
Có thể nói, sử mỹ thuật thì khơng phải chỉ ghi nhận những gì đã đi qua
mà là nói đến những gì cịn lại. Với cách tiếp cận của sử mỹ thuật, chúng ta sẽ có


24

được cái nhìn mang tính tiếp biến giữa các thời kỳ để từ đó góp phần lý giải
được sự vận động của điêu khắc hiện đại Việt Nam, tính kế thừa và hình thức
biểu đạt của nó nói lên nỗi niềm của người nghệ sĩ trước bản thân mình với dân
tộc và thời đại mà họ đang sống.
*Tiểu kết chương
Lịch sử còn minh chứng rất nhiều điều về bước khởi đầu của nền điêu
khắc Việt Nam hiện đại với sự đóng góp của các nhà điêu khắc học tập và trưởng
thành trong giai đoạn 1925 - 1945. Và một điều đáng trân trọng ở lớp các nhà
điêu khắc đó là họ đã đặt nền móng và khẳng định trước thế giới về một nền
nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại nhưng đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính dân tộc trong tác phẩm điêu khắc luôn được nghệ sĩ nghiên cứu tìm
hiểu, trải qua quá trình phát triển, gặt hái nhiều thành tựu từ năm 1925 khi
thành lập trường Cao đẳng mĩ thuật Đơng Dương cho đến hiện nay, có lúc
thăng, lúc trầm, xuất hiện nhiều tác giả, nhiều tác phẩm có tiếng vang lớn, tạo
dấu ấn sâu đậm, từ đó từng bước có kế thừa, có phát triển, có thay thế, có đổi
mới để rồi hình thành nên những thế hệ nhà điêu khắc nối tiếp nhau tiếp tục
làm nên những bài ca ca ngợi cuộc sống, quê hương, đất nước bằng hình

tượng nghệ thuật, bằng sự sáng tạo, tạo ra sức sống mãnh liệt cho nghệ thuật
điêu khắc Việt Nam.
Có thể nói chức năng tạo hình trong nghệ thuật điêu khắc luôn bị hạn chế
bởi không gian thời gian nhất định. Do vậy người nghệ sĩ thường phải tìm tịi
chắt lọc và suy tính từng chi tiết trong nội dung, hình thức để hình tượng nghệ
thuật được đạt tới giá trị khái quát cao nhất.
Tất cả những giá trị tạo hình có tính dân tộc được thể hiện rõ nét qua
những nội dung và hình thức biểu đạt, các nghệ sĩ đã thổi hồn mình vào những
chất liệu khiến chúng khơng cịn đơn thuần là vật liệu kiến trúc mà thành


25

những tác phẩm vật thể có ngơn ngữ đặc biệt, những tác phẩm điêu khắc là tư
liệu quý giá phản ánh q trình phát triển văn hóa tín ngưỡng, tơn giáo, tinh
thần của từng thời kỳ, từng thế hệ.
Từ những nghiên cứu về tính dân tộc, các nhà điêu khắc đã để lại cho dân
tộc những giá trị nghệ thuật tạo hình rất độc đáo ở hình thể với sự đơn hậu,
hiền lành, bình dị và vẻ đẹp với nội tâm trong sáng, nhân từ, tất cả tạo nên
những báu vật của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam hiện đại.


×