Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

VậN DụNG tư tưởng hồ chí minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên vào các trường đại học ở thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 116 trang )

MỤC LỤC

Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN

1.1. Vị trí, vai trò của thanh niên
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng
cho thanh niên

9
9
26

Chương 2: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN
SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TỈNH THÁI
NGUYÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

50

2.1. Những nhân tố tác động tới giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên sinh viên các trường đại học tỉnh Thái Nguyên
2.2 Thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên sinh viên

50

các trường đại học tỉnh Thái Nguyên


2.3. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức

54

cách mạng cho thanh niên sinh viên các trường đại học tỉnh Thái
Nguyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
KẾT KUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

77
93
96


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCHTW

:

Ban Chấp hành Trung ương

CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa

XHCN


:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Mức độ của thanh niên sinh viên về các vấn đề xã hội
Bảng 2.2: Thái độ của sinh viên trước thực trạng còn nghèo nàn, lạc

Trang
55

hậu của đất nước
Bảng 2.3: Mức độ quan tâm của thanh niên sinh viên về đạo đức và

56

chuyên môn
Bảng 2.4: Thái độ của thanh niên sinh viên về sự tác động của sự

58

nghiệp đổi mới đối với sự phát triển đất nước
Bảng 2.5: Mức độ tham gia các hoạt động xã hội của sinh viên
Bảng 2.6: Mức độ và thái độ của sinh viên sa vào các tệ nạn xã hội

58
62

68


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là lực lượng rất quan trọng và sự phát triển của thanh niên
quan hệ trực tiếp đến vận mệnh, tương lai của đất nước, của dân tộc. Vì thế,
bất cứ quốc gia và chế độ xã hội nào muốn tồn tại, phát triển bền vững và
cường thịnh đều phải quan tâm tới việc chăm lo giáo dục cho thanh niên, đặc
biệt là giáo dục đạo đức cho họ.
Đạo đức được coi là cơ sở, là nền tảng đầu tiên cho mọi hành vi hoạt
động của con người. Một xã hội tiến bộ là xã hội đặt con người vào vị trí
trung tâm với nhiệm vụ giáo dục phát triển nhân cách tồn diện về đức, trí,
thể, mỹ. Ngược lại, sự phát triển của xã hội cũng đặt ra yêu cầu giáo dục đạo
đức con người sao cho phù hợp.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo
đức nói chung, giáo dục đạo đức cho thanh niên nói riêng. Tư tưởng của Hồ
Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thanh niên đã được thể hiện ở nhiều bài
nói, bài viết và đặc biệt là những hoạt động và tấm gương của Người đối với
thanh niên. Thông qua nội dung, phương pháp giáo dục sâu sắc, phong phú,
thiết thực, Người đã đào tạo được những thế hệ thanh niên cách mạng góp
phần quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng nước ta. Ngày nay, trong sự
nghiệp đổi mới xây dựng việc quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục đạo đức cho thanh niên nhằm đào tạo những thế hệ cách mạng cho
đời sau có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Nhân loại đang bước vào thời kỳ xây dựng nền kinh tế tri thức phát triển
cao thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, việc giáo dục toàn diện
cho thanh niên nước ta có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển của đất nước.
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trị quan trọng của thanh niên trong sự nghiệp

cách mạng, luôn quan tâm tới công tác giáo dục thanh niên, Đảng và Nhà
nước ta đã đào tạo được lớp người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng giải


2
phóng dân tộc và xây dựng Tổ quốc XHCN. Song những năm gần đây, do tác
động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, đã có khơng ít thanh niên sinh
viên dao động về lý tưởng, lệch lạc trong nhận thức về giá trị cuộc sống, bàng
quan với trách nhiệm xã hội, lười biếng lao động; chạy theo lối sống thực dụng,
buông thả, tự do, tuỳ tiện; không chịu học tập, thiếu ý thức rèn luyện vươn lên,
thoái hố về đạo đức; tình trạng phạm pháp trong sinh viên có chiều hướng gia
tăng. Nghị quyết BCHTW 2 khóa VIII của Đảng (1997) đã gióng lên hồi
chng báo động cho tồn xã hội cho rằng tình trạng một bộ phận học sinh,
sinh viên suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng,
thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước là điều
“đặc biệt đáng lo ngại” [2].
Thái Ngun là một tỉnh có vị trí địa chính trị, kinh tế, văn hố rất quan
trọng ở vùng Đơng Bắc của Tổ quốc. Là căn cứ địa cách mạng và kháng chiến
giải phóng dân tộc, ngày nay trong hồ bình xây dựng đất nước, Thái Nguyên
đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hoá trong khu vực và là nơi tập trung
nhiều trường Đại học, Cao đẳng thu hút được nhiều con em của các tỉnh lân
cận, các dân tộc về học tập nhằm đào tạo ra đội ngũ cán bộ tương lai cho khu
vực đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc. Bởi vậy, việc giáo dục phẩm chất
đạo đức cách mạng cho thanh niên sinh viên của các trường đại học ở Thái
Nguyên là một yêu cầu khách quan, cấp thiết.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên vào các trường Đại
học ở Thái Nguyên” để viết luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa học chính trị,
chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thanh niên, vấn đề
thanh niên và việc giáo dục đạo đức cho thanh niên đã được nhiều nhà khoa


3
học, nhiều đơn vị nghiên cứu, trong đó có một số cơng trình nghiên cứu
tiêu biểu:
* Nhóm cơng trình khoa học đề cập đến vị trí, vai trị của thanh niên
và giáo dục đạo đức cho thanh niên.
- Về sách, có các cơng trình sau:
+ Đỗ Mười (1995), Lý tưởng của Thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp
đổi mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội; TS. Nguyễn Đức Tiến (2005), Phát triển lý
tưởng xã hội chủ nghĩa cho Thanh niên Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Đây là những cuốn sách đề cập tới quá trình thành lý tưởng
xã hội chủ nghĩa của thanh niên, thực trạng và một số giải pháp cơ bản về
phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho thanh niên hiện nay.
+ Nguyễn Phương Hồng (1997), “Thanh niên, học sinh, sinh viên với sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; Phạm Đình Nghiệp (2000), Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong tình hình mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội; Trần Quy Nhơn (2004), Tư
tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Nxb Giáo dục
Hà Nội. Những cuốn sách này đề cập đến việc giáo dục đạo đức, lý tưởng cách
mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn CNH-HĐH đất nước.
+ Đồn Nam Đàn (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh
niên, Nxb CTQG. Hà Nội. Tác giả trình bày những vấn đề cơ bản về nguồn
gốc, quá trình hình thành tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục thanh
niên, việc vận dụng tư tưởng giáo dục thanh niên của Người trong điều kiện
hiện nay và những biện pháp nhằm phát triển toàn diện, phát huy mọi năng
lực của thanh niên phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
+ GS Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên) (2005): Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát

triển văn hố và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách là kết
quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp nhà nước (Mã số: KHXH 04-01) do GS
Đặng Xuân Kỳ làm chủ nhiệm. Trên cơ sở nêu rõ quan niệm về văn hoá và


4
con người trong lịch sử các tác giả đã chỉ ra hệ thống quan điểm, sự kế thừa
những quan niệm đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nêu lên nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hố và con người, chỉ rõ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hố và con người vào việc phát triển văn hoá và xây dựng con
người Việt Nam hiện nay.
- Về các đề tài khoa học, đã có các cơng trình sau:
+ Cơng đồn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2002), Đổi mới
phương pháp dạy học, Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Đây là cơng trình bàn đến
phương pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên và đã đưa ra một số giải pháp
nhằm hạn chế và ngăn ngừa tình trạng suy thối về đạo đức trong một bộ
phận sinh viên giai đoạn hiện nay.
+ Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2009 (B09 - 20): Phương thức giáo dục
tư tưởng Hồ Chí Minh cho Thanh niên, thiếu niên, do PGS.TS Phạm Hồng
Chương - Viện Hồ Chí Minh - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm
chủ nhiệm. Đề tài này đi sâu nghiên cứu làm rõ những nội dung, phương thức,
phương châm giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh niên, thiếu niên và từ
đó đã đưa ra những phương thức cụ thể về giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
cho thanh thiếu, niên hiện nay.
- Về các luận văn, luận án: có các cơng trình sau:
+ Hồng Anh, Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam (Qua thực tế các trường đại học khối xã hội
và nhân văn ở miền Bắc Việt Nam) (2001), Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
+ Trần Minh Đoàn (2002), Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh

theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
+ Đinh Khắc Cao (2006), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
thế hệ trẻ trong thời kỳ đổi mới giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay, Luận


5
văn tốt nghiệp lớp Cao cấp lý luận Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
+ Phạm Tấn Xuân Tước (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo
đức, lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các
trường Đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Hồ
Chí Minh học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
- Về tạp chí, có các bài viết sau:
+ Hồng Chí Bảo (1997), Văn hoá và sự phát triển nhân cách của thanh
niên, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 18, Tr.3-5.
+ Phạm Mạnh Hà (2002), Những nguyên nhân chủ quan chủ yếu của tình
trạng suy thối đạo đức ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 22, tr.15.
+ Lê Thị Tuyết Ba (2003), Chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh của nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 4, tr.9-11.
+ Trương Gia Long (2003), Định hướng giá trị trong giáo dục thanh
niên hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 9, tr.17- 20…
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu về đạo đức và tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh:
- Về sách: có các cơng trình sau:
+ Vũ Khiêu (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội
+ Nguyễn Văn Truy (chủ biên) (1993), Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội
+ Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (2003), Mấy vấn đề về đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.
+ Trần Hậu Kiêm - Đoàn Đức Hiếu (2004), Hệ thống phạm trù đạo đức
và giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
+ Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2005. (Chương 13: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trang 409 - 432)…


6
- Về các đề tài khoa học: đã có các cơng trình sau:
+ Đề tài khoa học cấp nhà nước KX02 có một nhánh đề tài liên quan
đến vấn đề đạo đức đó là KX02.08: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức do
PGS.TS Thành Duy làm chủ nhiệm. Đây là một cơng trình nghiên cứu vừa
tổng hợp vừa hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
+ Đề tài khoa học cấp Bộ (2002 - 2003): Vấn đề dạy và học các bộ môn
khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học ở Hà
Nội: thực trạng và giải pháp, do Nguyễn Duy Bắc - Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm. Đề tài này đã đi sâu nghiên cứu và phân tích
thực trạng dạy và học các mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
ở các trường đại học ở Hà Nội, từ đó tập thể tác giả đã đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa học Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
+ “Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự nghiệp giáo dục” (1990), Kỷ yếu hội
thảo Khoa học khu vực phía Nam - về nghiên cứu giáo dục phía nam thuộc
Viện Khoa học giáo dục Việt Nam xuất bản, thành phố Hồ Chí Minh.
- Về các luận văn, luận án: có các cơng trình sau:
+ Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ
Triết học,Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội….
- Về tạp chí: có các bài viết sau:
+ Song Thành (2004), “Nói đi đơi với làm, phải nêu gương đạo đức một nguyên tắc cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ”, Tạp chí cộng

sản, tr.26 - 30.
+ Nguyễn Thị Ngọc Thu (2004), “Hồ Chí Minh với giáo dục cái đẹp
cho tuổi trẻ”, Tạp chí Cộng sản, tr.29 - 33.
+ Lâm Quốc Tuấn - Trần Văn Tồn (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục đạo đức vừa “hồng” vừa “chuyên” cho thanh niên trí thức”, Tạp chí
Lý luận Chính trị, tr.9,10 - 16…


7
Dưới những góc độ khác nhau, mỗi một cơng trình trên đã có nhiều
đóng góp quan trọng làm sáng tỏ thêm nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
bồi dưỡng thế hệ trẻ nói chung, giáo dục đạo đức cho thanh niên nói riêng.
Tuy nhiên, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng đó của Người vào việc giáo
dục đạo đức cho thanh niên sinh viên các trường Đại học ở tỉnh Thái
Ngun thì cho đến nay chưa có cơng trình nào đề cập đến. Mặc dù vậy,
các cơng trình trên đây là những nguồn tài liệu quý giá, là cơ sở để tác giả
tiếp tục kế thừa và phát triển làm phong phú và sâu sắc thêm tư tưởng đặc
sắc này của Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
đạo đức cho thanh niên để vận dụng vào thực tế nhằm nâng cao giáo dục đạo
đức cho thanh niên sinh viên các trường Đại học trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ thêm nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục đạo đức cho thanh niên và nghiên cứu, phân tích thực trạng
giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường Đại học ở tỉnh Thái Nguyên trong
những năm gần đây, để đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao giáo
dục đạo đức cho thanh niên sinh viên các trường Đại học ở tỉnh Thái Nguyên.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức thanh niên.
- Thực trạng giáo dục đạo đức đối với thanh niên sinh viên các trường
Đại học ở tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức thanh niên.


8
- Thực trạng giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên ở các trường
Đại học đóng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên (5 trường Đại học: ĐH Y khoa,
ĐH Sư phạm, ĐH Kinh tế, ĐH Kỹ thuật Công Nghiệp, ĐH Nông Lâm)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được triển khai trên nền tảng các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về giáo dục đạo đức
cách mạng cho thanh niên nói chung và giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên sinh viên nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngồi phương pháp lơgíc, phương pháp lịch sử luận văn cịn sử dụng
phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học để
thực hiện đề tài.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hóa một số vấn đề về lý luận để có nhận
định đúng đắn, khách quan trong giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên
sinh viên các trường Đại học ở tỉnh Thái Nguyên.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi, hiệu quả trong giáo dục đạo
đức cách mạng cho thanh niên sinh viên.
- Luận văn hoàn thành có thể làm tài liệu tham khảo cho thanh niên nói

chung, cho thanh niên sinh viên nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.


9
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN
1.1. VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm về đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của triết học, những tư tưởng đạo đức xuất
hiện sớm. Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh Mor (Moris) - Lề thói.
Cịn theo gốc chữ Hy Lạp đạo đức là “Ethicos” nghĩa là lề thói, tập tục. Điều
đó chứng tỏ rằng, khi nói đến đạo đức, tức là nói đến lề thói và tập tục biểu
hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong sự giao tiếp với nhau
hàng ngày.
Ở Phương Đông, phạm trù “Đạo” là một trong những phạm trù quan
trọng nhất của triết học cổ đại Trung Quốc. Đạo có nghĩa là con đường, đường
đi. Đạo cịn có nghĩa là đường sống của con người và trở thành khái niệm đạo
đức, trong tư duy, đạo có nghĩa là đạo lý.
Theo quan niệm của đạo đức học Mác-Lênin, đạo đức với tư cách là
một hình thái, ý thức xã hội, là tồn bộ những quan điểm, nguyên tắc, chuẩn
mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội, nhằm đảm bảo quan hệ lợi ích cá nhân và
cộng đồng. Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người.
Bởi những chuẩn mực và qui tắc đạo đức là yêu cầu của cả xã hội hoặc của
một giai cấp nhất định được công luận của của xã hội hay giai cấp, dân tộc
thừa nhận. Nó hướng dẫn các cá nhân hoạt động trong phạm vi được phép.

Những đòi hỏi trên và biểu hiện của chúng phản ánh tất yếu của lợi ích xã hội
mà hành vi của mỗi cá nhân phải tuân theo, đạo đức là một hệ thống các giá
trị, nó mang tính chuẩn mực: mệnh lệnh, đánh giá.


10
Vậy, đạo đức là một trong những phương thức cơ bản điều tiết chuẩn
mực hoạt động của con người, là một hình thái ý thức xã hội, là một dạng của
quan hệ xã hội (quan hệ đạo đức) nhằm duy trì xã hội trong một trật tự nhất
định để xã hội tồn tại, phát triển.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh ln quan tâm tới
vấn đề đạo đức. Người không đưa ra định nghĩa cụ thể đạo đức là gì, nhưng
trong sử dụng, thuật ngữ đạo đức được Người dùng với 3 nghĩa: rộng, hẹp, và
rất hẹp. Nghĩa rộng, đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự
giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính
người trong các quan hệ xã hội, kể cả trong các quan hệ chính trị, tư tưởng.
Nghĩa hẹp, đạo đức là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành vi con
người trong quan hệ giữa người với người trong hoạt động sống. Nghĩa rất
hẹp đó là hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức là hành động cá nhân thể hiện
quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể
hiện lương tâm hoặc bổn phận cá nhân trong những hoàn cảnh đặc thù khơng
lặp lại. Hồ Chí Minh tập trung bàn nhiều về đạo đức theo nghĩa hẹp với 3 mối
quan hệ cơ bản của mỗi con người (với mình, với người và với việc) và đạo
đức cách mạng.
1.1.1.2. Khái niệm về Đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức của người cách
mạng xuất hiện trong q trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung với
nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
CNXH, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù

nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; ln u
thương, q trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong
sáng… Và đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền tảng của người
cách mạng.


11
Mặt khác, Hồ Chí Minh cịn chỉ ra rằng đạo đức cách mạng và đạo đức
đời thường là hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ khơng có đạo đức đời thường
tách rời với đạo đức cách mạng và cũng không thể có đạo đức cách mạng
đứng ngồi, đối lập với đạo đức đời thường. Vì vậy, khơng thể bào chữa cho
khuyết điểm của bản thân mình, “cái đó là việc riêng của tơi, gia đình tơi,
khơng liên quan gì đến cái chung”. Cái riêng mà phù hợp với cái chung (của
Đảng, của cách mạng, của nhân dân) thì đó là đạo đức. Cái riêng mà đi ngược
với cái chung là chủ nghĩa cá nhân, là vi phạm đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức mới là đạo đức cách mạng, nó hồn tồn
khác với đạo đức cũ về chất, ngược lại nó hồn tồn thống nhất với đạo đức
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc với đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức
của nhân loại. Hồ Chí Minh đã làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức
Việt Nam. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng
lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng
lên trời” [38, tr.320 -321]. Đạo đức cũ - đạo đức thực dân phong kiến, là thứ đạo
đức ích kỷ, nó kìm hãm, trói buộc con người, tàn phá con người. Còn đạo đức
mới, đạo đức cách mạng là: “Quyết tâm giúp đỡ loài người ngày càng tiến bộ và
thốt khỏi ách áp bức, bóc lột, ln ln giữ vững tinh thần chí cơng vơ tư”;
“Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” [39, tr.568].
1.1.1.3. Khái niệm thanh niên
Thanh niên là một khái niệm có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều
cách. Tùy thuộc vào nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá

mà người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Về mặt sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh niên là một giai đoạn
xác định trong q trình “tiến hóa” của cơ thể. Các nhà tâm lý học thường
nhìn nhận thanh niên là một giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thơ phụ thuộc sang
hoạt động độc lập với tư cách là một cơng dân có trách nhiệm. Dưới góc độ


12
kinh tế học, thanh niên được xem là một lực lượng lao động xã hội, nguồn bổ
sung cho đội ngũ lao động trên tất cả các lĩnh vực. Với các triết gia, văn nghệ
sĩ, thanh niên lại được định nghĩa bằng cách so sánh hình tượng: “thanh niên
là mùa xuân của xã hội” là “bình minh của cuộc đời”.
Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đặc điểm
truyền thống, tuổi thọ bình quân v.v.. mà mỗi quốc gia có quy định độ tuổi
thanh niên khác nhau. Nhưng hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất
tuổi thanh niên bắt đầu từ 15 hoặc 16. Cịn thanh niên kết thúc ở tuổi nào thì
có sự khác biệt. Có nước quy định là 25 tuổi, có nước quy định là 30 tuổi và
cũng có nước cho đó là tuổi 40. Nhưng xu hướng chung là nâng dần giới hạn
kết thúc của tuổi thanh niên.
Liên hợp quốc định nghĩa thanh niên là nhóm người từ 15 đến 24 tuổi
chủ yếu dựa trên cơ sở phân biệt các đặc điểm về tâm sinh lý và hoàn cảnh xã
hội so với các nhóm lứa tuổi khác. Nhưng cũng Cơng ước quốc tế của Liên
hợp quốc về quyền trẻ em lại xác định trẻ em đến dưới 18 tuổi.
Ở Việt Nam, có một thời gian khá dài tuổi thanh niên được hiểu gần
như đồng nhất với tuổi đoàn viên (15 đến 28 tuổi). Ngày nay, do điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội phát triển, thời gian học tập, đào tạo cơ bản của tuổi
trẻ dài thêm, cùng với nhiều đặc điểm khác mà chúng ta cho thanh niên là
những người trong độ tuổi từ 16 đến 30. Tuy nhiên, cần phải phân biệt rõ tuổi
đoàn viên và tuổi thanh niên. Theo điều lệ Đoàn, Đoàn là một tổ chức chính
trị xã hội của thanh niên, bao gồm những thanh niên ưu tú trong độ tuổi 15 đến

30. Hết tuổi đồn viên theo quy định, người đồn viên đó vẫn có thể tự nguyện
tiếp tục sinh hoạt trong tổ chức Đoàn hoặc tham gia vào Hội liên hiệp thanh niên
và các hoạt động khác của Đoàn và phong trào thanh niên đến 35 tuổi.
Với cách hiểu chung nhất về tuổi thanh niên như vậy nhưng do những
điều kiện khách quan của công tác thống kê tập hợp số liệu nên trong đề tài
này, tùy nội dung phân tích, khai thác và có chỗ phải sử dụng số liệu theo


13
cách hiểu truyền thống, có chỗ phải sử dụng số liệu do các sở ngành cung cấp,
hoặc có chỗ sử dụng số liệu tổng hợp của Đoàn, của Hội… nhưng tựu chung
đều nhằm mục đích khắc họa được tình hình và diện mạo của thanh niên tỉnh
Thái Nguyên hiện nay một cách khách quan, khoa học.
1.1.1.4. Khái niệm giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho thanh niên và sinh viên. Theo Người, thanh niên phải luôn rèn
luyện đạo đức cách mạng và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên
được Người tóm tắt trong mấy điểm sau đây:
- Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với
Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp.
- Dũng cảm: Không sợ khổ, khơng sợ khó, thực hiện:" Đâu cần
thanh niên có, việc gì khó có thanh niên làm”, "gian khổ thì đi trước,
hưởng thụ sau mọi người”
- Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, khơng khoe cơng,
tự phụ [42, tr.621].
Người còn dạy rằng:
Đối với các cháu học sinh đại học, sau mấy năm học các cháu sẽ
bước vào đời, trở thành những cán bộ có trình độ văn hố, khoa học
khá. Nhưng các cháu có biết nghĩa cán bộ là gì khơng? Các chú dạy
các cháu rất nhiều điều, nhưng có một điều phải thật rõ: Làm cán bộ

tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c
này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới
thuộc được [44, tr.555].
Người cịn nói:
Trước đây, Bác và các chú bước vào con đường cách mạng, ai cũng
sẵn sàng nhận lấy hai cái này: một là ngồi tù, hai là lên máy chém.
Ngoài cái được lớn là độc lập tự do cho nhân dân, Tổ quốc, không ai


14
nghĩ sẽ dành phần danh lợi cho cá nhân mình. Bây giờ ta có chính
quyền rồi, hồn cảnh đã khác trước. Một số cháu khi phấn đấu vào
Đoàn hay vào Đảng lại có ý nghĩ là để được tín nhiệm, để mau được
đề bạt và lên lương! Phải uốn cây từ lúc cây non, đừng để cho tâm
hồn các cháu bị vẩn đục vì chủ nghĩa cá nhân như thế [44, tr.555].
Hồ Chí Minh nói rằng: "Nhiệm vụ của thanh niên khơng phải là địi hỏi
nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước
nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi
ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?” [39, tr.455].
Người căn dặn sinh viên trong việc đổi mới động cơ mục đích học tập
như sau:
Vạch rõ ranh giới, chia rõ phải trái. Vạch rõ ranh giới là phải nhận
rõ ai là bạn, ai là thù? Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân,
cho Tổ quốc đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân
và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành
động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng
và hành động có hại Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù. Thế là chẳng
những ở ngồi, mà chính ở trong mình ta cũng có bạn và thù. Vì vậy
chúng ta cần phải ra sức tăng cường bạn ở trong và ở ngoài, kiên
quyết chống lại kẻ thù ở ngoài và ở trong mình ta. Điều gì phải, thì

cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh,
dù là một điều trái nhỏ [39, tr.454 - 455].
Hồ Chí Minh căn dặn sinh viên phải ln trung thành, thật thà, chính
trực. Chính vì vậy, theo Người thanh niên cần chống những biểu hiện: "Thanh
niên cần phải chống tâm lý tự tư tự lợi, chỉ lo cho lợi ích riêng và sinh hoạt
riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng, tránh khó nhọc. Chống thói
xem khinh lao động nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng xa xỉ, chống
cách sinh hoạt uỷ mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang” [39, tr.455].


15
Như vậy, với cách đặt vấn đề như đã nêu, Hồ Chí Minh đã chỉ ra được
phần nào về khái niệm cũng như phương châm tiến hành giáo dục đạo đức
cách mạng cho thanh niên.
1.1.2. Vị trí, vai trị của thanh niên
1.1.2.1. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội, của dân tộc
Đầu thế kỷ XX, nhà yêu nước Phan Bội Châu sớm nhận rõ: Ai bảo
thanh niên lay trời phải rung, lay đất phải chuyển thì điều ấy đối với tơi khơng
có gì là lạ. Trong mạch nguồn nhận thức ấy, giữa những năm hai mươi của thế
kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Thanh niên là một bộ phận quan trọng
của dân tộc. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh
niên. Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng, một mặt phải rèn
luyện tinh thần và lực lượng của mình. Mặt khác, cả dân tộc phải dồn hết toàn
tâm toàn lực để giáo dục rèn luyện, đào tạo họ trở thành những người kế thừa
sự nghiệp cách mạng vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh là người đã từng hoạt động trong các
phong trào thanh niên, sớm được tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin, từng
tham gia Đại hội Quốc tế thanh niên Cộng sản, là người trực tiếp sáng lập và
lãnh đạo tổ chức thanh niên tiến bộ ở nước ta, là chiến sỹ cộng sản lỗi lạc.
Chính vì vậy, Người đã nhìn nhận, đánh giá một cách nhân hậu, khách quan

và khoa học về vị trí, vai trị thanh niên trong tiến trình lịch sử của dân tộc,
nhất là trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng
Chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ những năm đầu tiên trên hành trình bơn ba tìm đường cứu
nước, Hồ Chí Minh vơ cùng lo lắng cho tiền đồ cách mạng trước thực trạng
của thanh niên chưa được tổ chức, chưa được giáo dục:
Thế thì thanh niên của ta đang làm gì? Nói ra thì buồn, buồn lắm: họ
khơng làm gì cả. Những thanh niên khơng có phương tiện thì khơng
dám dời q nhà, những người có phương tiện thì lại chìm ngập


16
trong sự biếng nhác; còn những kẻ đã xuất dương thì chỉ nghĩ đến
việc thoả mãn tính tị mị của tuổi trẻ mà thôi! Hỡi Đông Dương
đáng thương hại! Người sẽ chết mất nếu đám Thanh niên sớm già
cỗi của Người khơng sớm hồi sinh [34, tr.132 - 133].
Vì sao lúc bấy giờ phải khẩn trương “hồi sinh”, “thức tỉnh” thanh
niên? Như Nguyễn Ái Quốc đã nhận định vì có tình trạng “sớm già”. Biểu
hiện của tình trạng này là thanh niên lâm vào tình trạng bế tắc tư tưởng, họ “
khơng tìm thấy lối ra” sau những thất bại liên tiếp, kéo dài của những phong
trào yêu nước, của nhiều cuộc vận động cứu nước. Họ “bơ vơ không có người
lãnh đạo”, họ “có Tổ quốc mà khơng có quyền yêu nước”. Nếu tình trạng
“sớm già” của thanh niên cứ tiếp tục kéo dài nghĩa là thanh niên không được
“thức tỉnh”, không được “hồi sinh” để vùng lên cứu nước thì vận mệnh của
dân tộc đứng trước nguy cơ bị diệt vong. Rõ ràng thanh niên có vai trị quyết
định với sự mất còn của đất nước, vận mệnh của dân tộc nằm trong tay thanh
niên chứ không ai khác.
Từ nhìn nhận đó, Hồ Chí Minh quyết tâm thức tỉnh, giác ngộ, tổ chức
giáo dục thanh niên, đưa thanh niên bước vào cuộc đấu tranh cách mạng.
Người khẳng định, thanh niên là một bộ phận của dân tộc. Dân tộc bị nơ lệ thì

thanh niên cũng bị nơ lệ. Dân tộc được giải phóng thì thanh niên mới được tự
do. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên, đặc
biệt là phải rèn luyện cho thanh niên những nhân cách đạo đức, coi đó là
phẩm chất tiêu biểu nhất, là “cái gốc” làm nên nhân cách con người. Vì vậy,
việc xây dựng con người mới nói chung, các thế hệ thanh niên nói riêng là
yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng.
Sau ngày nước nhà được độc lập, Hồ Chí Minh đã chủ trương phát
động một cuộc cách mạng triệt để trong lĩnh vực đạo đức. Người khẳng định:
để trở thành người cách mạng, mỗi thanh niên phải rèn luyện đạo đức cách
mạng, phải đấu tranh bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, “cũng như


17
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Thanh niên là người
chủ tương lai của đất nước, không chỉ vì họ chiếm khoảng một phần ba dân số
mà chủ yếu vì thanh niên là bộ phận trẻ, khoẻ, dám nghĩ, dám làm, năng
động, sáng tạo, giàu ý chí, nghị lực, ước mơ và hồi bão.
Theo Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức của thanh niên dưới chế độ mới
gồm cả “đức” và “tài”, “hồng” và “chuyên”. “Đức” với “tài” phải đi đôi với
nhau, quyện chặt vào nhau và thống nhất với nhau trong đó “đức” là gốc. Đức là
cái nền cho tài năng nảy nở và phát triển. Giữa “đức” và “tài”, Người không
đặt vấn đề mặt nào quan trọng hơn mặt nào, vấn đề là ở chỗ vai trị, vị trí mỗi
yếu tố đó trong phẩm chất con người. Đạo đức và tài năng là hai mặt không
thể tách rời nhau trong phẩm chất con người. Đạo đức chỉ có ý nghĩa khi nó
dẫn đến tài năng, thông qua tài năng mà bộc lộ, tài năng chỉ có tác dụng tích
cực khi nó đặt trên nền tảng của đạo đức, phục vụ cho mục tiêu phấn đấu của
đạo đức.
Hồ Chí Minh nói: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu
từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [36, tr.167]. Đây là một khái
niệm đầy hình ảnh nói về tuổi thanh niên, từ khái niệm này Người chỉ ra thời

kỳ đẹp nhất, sống động như mùa xuân tràn đầy nhựa sống. Tuy là một khái
niệm được diễn đạt bằng hình ảnh nhưng lại bao hàm tính khoa học rõ rệt,
phù hợp với lứa tuổi đẹp nhất đời người, đẹp nhất xã hội. Chính vì vậy, Người
ln ln tin vào thanh niên trong công cuộc kiến thiết đất nước. Nước nhà
trông cậy, mong đợi ở các thế hệ trẻ rất nhiều, tương lai dân tộc nằm trong tay
thanh niên, những người sẽ tiếp bước cha anh đưa cách mạng đến thắng lợi
cuối cùng.
Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh thường
xuyên quan tâm giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Người chăm chú theo dõi,
biểu dương những cố gắng, tiến bộ của thanh niên và luôn đánh giá cao tiềm
năng và những cống hiến to lớn của họ. Người khẳng định: Thanh niên là “bộ


18
phận quan trọng”, “năng động”, “tốt đẹp nhất”, “to lớn nhất” và “hi vọng
nhất” của dân tộc. Trong nhiều lần và ở các thời điểm khác nhau, khi nói
chuyện với thanh niên, Người thường ân cần nhắc nhở thanh niên đấu tranh
khắc phục những nhược điểm như ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh
cá nhân, tự cao, tự đại, bệnh anh hùng chủ nghĩa…
Ngày nay, khi đất nước hoàn tồn giải phóng, Tổ quốc thống nhất đi lên
xây dựng Chủ nghĩa xã hội, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hoá (CNH,
HĐH) chúng ta phải nhận thức sâu sắc tầm nhìn xa trơng rộng và sự tin cậy
của Người đối với thế hệ trẻ.
Từ thực tiễn đấu tranh của dân tộc, Hồ Chí Minh đã nêu lên bốn luận
điểm có tính quy luật: “Thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc.
Dân tộc bị nơ lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải phóng, thanh
niên mới được tự do. Vì vậy thanh niên hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của
dân tộc” [39, tr.398].
1.1.2.2. Sự phát triển của xã hội phụ thuộc phần lớn vào thanh niên
Xuất phát từ vị trí, vai trị của thanh niên, Hồ Chí Minh vơ cùng u

q và quan tâm đến lớp thanh niên. Tuy nhiên, không phải vì yêu quý, tin
tưởng mà Người đánh giá thiếu khách quan, thiếu tồn diện, thiên lệch và cảm
tính về họ. Ngay từ tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927), Người đặt vấn đề
phải cấp bách tổ chức thanh niên Cộng sản đồn ở Đơng Dương để thực hiện
các chủ trương, đường lối để tổ chức và giáo dục thanh niên, nhi đồng thành
những chiến sỹ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên tổ chức Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam mang tên
Thanh niên (Thanh niên Cộng sản Liên đoàn) và tờ báo cách mạng đầu tiên ra
đời ngày 21/06/1925 là tờ “Thanh niên”. Sau này, Người tiếp tục khẳng định:
Thanh niên là thế hệ anh hùng trong thời đại mới, thanh niên phải ra sức phấn
đấu, rèn luyện để xứng đáng là những anh hùng trong sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội.


19
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đất nước vẫn tạm
thời bị chia cắt, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở miền Bắc tuy gặp nhiều
khó khăn, nhưng Hồ Chí Minh tin tưởng rằng, với một thế hệ thanh niên hăng
hái kiên cường chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền
Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong bối cảnh miền Bắc
bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội làm hậu phương vững chắc
cho cuộc kháng chiến ở miền Nam, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận thanh niên là
lớp người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế, văn hoá, trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an
và dân quân tự vệ đang hăng hái giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ Tổ quốc. Người
khẳng định trong mọi việc, thanh niên đều thi đua thực hiện khẩu hiệu: “Đâu
cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên” [42, tr.166].
Ở miền Nam, Mỹ - nguỵ ra sức thẳng tay đàn áp, khủng bố hòng tiêu
diệt các chiến sỹ cộng sản nằm vùng, tiêu diệt các phong trào yêu nước đòi thi
hành hiệp định Giơ - ne - vơ. Trong tình hình đen tối đó, Hồ Chí Minh đã biểu

dương kịp thời tinh thần anh dũng, chí khí cách mạng kiên cường của tuổi trẻ
miền Nam và khẳng định vai trò của họ với niềm tin tưởng tuyệt đối: “Các
cháu thanh niên miền Nam sinh ra và lớn lên trong hai cuộc chiến tranh yêu
nước, ngày nay dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã
được rèn luyện thành thế hệ thanh niên vô cùng gan dạ, thông minh, không sợ
gian khổ, hy sinh, quyết chiến, quyết thắng” [43, tr.504]. Thanh niên luôn thể
hiện rõ vai trị là lực lượng xung kích của cách mạng trên mặt trận chiến đấu
cũng như phát triển kinh tế, luôn luôn đi đầu trong việc thực hiện chủ trương,
đường lối do Đảng đề ra và là nguồn lực bổ sung, xứng đáng là cánh tay đắc
lực của Đảng.
Từ việc xác định rõ vị trí, vai trị của thanh niên trong tiến trình cách
mạng của dân tộc, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng,
củng cố tổ chức thanh niên nhằm tập hợp, giáo dục, đào tạo thanh niên nói


20
chung, giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên nói riêng. Ngày
26/03/1931, Đồn thanh niên Cộng sản Đơng Dương ra đời. Trước sự kiện to
lớn đó, Người rất tự hào sung sướng thấy như mình trẻ lại, thấy tương lai dân
tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang. Người đặc biệt quan tâm, dìu dắt tổ
chức Đồn thanh niên từ việc xây dựng tổ chức, định hướng hoạt động, chỉ rõ
nhiệm vụ chính trị của phong trào thanh niên đến việc cải tiến lề lối, tác
phong làm việc của cán bộ đoàn nhằm tập hợp và giáo dục toàn diện, trước
hết là giáo dục đạo đức cho từng đồn viên, thanh niên. Người dạy thanh niên
phải có tinh thần làm chủ, phải trau dồi đạo đức cách mạng, xung phong đi
đầu trong mọi công tác. Đồng thời, Người cũng phê phán mạnh mẽ những
thanh niên chỉ biết nghĩ đến lợi ích riêng của mình, tự tư tự lợi, tham lam vật
chất, ham sung sướng, tránh khó nhọc, lười biếng, coi thường lao động.
Người căn dặn: Huy hiệu của thanh niên nước ta là tay cầm cờ đỏ sao vàng
tiến lên, ý nghĩa của nó là phải xung phong gương mẫu trong công tác, trong

học tập, lao động và chiến đấu. Người mong toàn thể các cháu nam nữ thanh
niên cố gắng làm tròn nhiệm vụ để xứng đáng với cái huy hiệu tươi đẹp và vẻ
vang ấy. Qua thực tiễn hoạt động của tổ chức Đoàn thanh niên, Hồ Chí Minh
vui mừng khẳng định:
Là người theo dõi tổ chức thanh niên từ bước đầu hiếm hoi chỉ có
tám cháu, ngày nay từng thấy có hàng triệu đồn viên thanh niên…
với một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên cường, chúng ta nhất
định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc [44, tr.66].
Nhận thức đúng vị trí, vai trị của thanh niên trong tiến trình lịch sử của
dân tộc, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở Đảng, Nhà nước và các đồn
thể chính trị - xã hội ln coi trọng lực lượng chính trị trong thanh niên, rèn
luyện và đào tạo toàn diện để họ trở thành lực lượng kế tục xuất sắc sự nghiệp
cách mạng vẻ vang. Trong công tác giáo dục thanh niên, trước hết phải giáo


21
dục họ sống có lý tưởng, có ý chí nghị lực quyết tâm vượt qua mọi khó khăn
gian khổ “Khơng có việc gì khó, chỉ sợ lịng khơng bền, đào núi và lấp biển,
quyết chí ắt làm nên” [38, tr.95]. Nhiệm vụ của người thanh niên trí thức là
phải học, học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân làm cho dân giàu
nước mạnh. Cần phải đặt câu hỏi, học để làm gì? Học để phụng sự ai? Học
phải đi đơi với hành, chỉ biết lao động trí óc mà khơng biết lao động chân tay;
chỉ biết lí luận mà khơng biết thực hành thì tri thức ấy mới đạt được một nửa.
Thanh niên trong thời đại mới phải vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Đối với thanh niên công nhân, nông dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến
tinh thần trách nhiệm, ý thức làm chủ, ra sức tăng ra sản xuất, thực hành tiết
kiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đối với thanh niên các lực lượng vũ trang,
Người căn dặn: “phải trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hồn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [43, tr.350].

Đối với thanh niên các dân tộc, Người căn dặn phải đoàn kết chặt chẽ, thương
yêu giúp đỡ lẫn nhau như anh em một nhà, nâng cao cảnh giác cách mạng giữ
gìn trật tự an ninh, bảo vệ biên giới.
Hồ Chí Minh đã nhìn nhận, đánh giá thanh niên theo quan điểm thực
tiễn và phát triển; thấy rõ ưu điểm đồng thời cũng chỉ ra nhược điểm, hạn chế
của thanh niên. Người thường căn dặn cán bộ, đảng viên và nhân dân ta khi
nhìn nhận đánh giá thanh niên phải đấu tranh chống thói xem thường, bảo thủ,
thành kiến, hẹp hịi; khơng nên đánh giá thanh niên một cách cứng nhắc, mà
phải đi sâu vào đời sống để hiểu rõ tâm lý của tầng lớp thanh niên, giúp đỡ họ
giải quyết vấn đề một cách thiết thực. Đối với những thanh niên mắc khuyết
điểm, sai lầm, Hồ Chí Minh khơng cho là hư hỏng, bỏ đi mà chỉ coi là chậm
tiến để động viên khuyến khích họ phấn đấu tiến bộ. Đó khơng chỉ là tình yêu
thương sâu sắc, trách nhiệm cao cả mà còn là cách nhìn biện chứng, khoa học
đối với thế hệ trẻ. Chính điều đó đã đem lại cho tổ chức Đồn và phong trào
thanh niên thêm sức mạnh về tư tưởng, tổ chức trong các hoạt động học tập,


22
lao động sản xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà trực tiếp là giáo dục đạo
đức cho thanh niên.
1.1.2.3. Thanh niên là đội hậu bị, cánh tay đắc lực của Đảng, đồng
thời là người giáo dục dìu dắt thiếu niên, nhi đồng
Sinh thời, Hồ Chí Minh ln đề cao vai trị của Đồn thanh niên Cộng
sản trong việc tổ chức, tập hợp đoàn kết, giáo dục thanh niên. Theo Người,
“Trong mọi công việc thanh niên ta luôn luôn hăng hái xung phong và họ
xứng đáng là cánh tay đắc lực của Đảng” [42, tr.271]. Thanh niên luôn đi đầu
trong việc thực hiện những chủ trương, đường lối do Đảng đề ra. Thơng qua
hoạt động, tổ chức Đồn phát hiện và giới thiệu những đoàn viên ưu tú cho
Đảng. Như vậy, Đoàn thanh niên là nguồn bổ sung lực lượng cho đội ngũ của
Đảng những người trẻ, khỏe. Điều đó làm cho Đảng càng đơng và càng mạnh.

Hồ Chí Minh cũng đã đề cập đến trong nhiều bài nói, bài viết cụ thể về
mối quan hệ giữa Đảng với tổ chức Đoàn. Trong tác phẩm “Đường cách
mệnh”, Người viết: “Đường chính trị, thì thanh niên theo Đảng chỉ huy,
nhưng việc làm thì thanh niên độc lập” [34, tr.295]. Nghĩa là, Đoàn thanh niên
do Đảng cộng sản lãnh đạo và phải lấy mục tiêu, lý tưởng của Đảng làm tôn
chỉ hoạt động của tổ chức mình nhưng Đồn thanh niên hoàn toàn tự chủ
trong việc đề ra kế hoạch, chương trình hành động. Theo Hồ Chí Minh, Đồn
thanh niên cộng sản vừa là tổ chức gần gũi Đảng, vừa là người phụ tá đắc lực
cho Đảng. Điều đó thể hiện trước hết ở nhiệm vụ Đoàn là người trực tiếp giúp
Đảng giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho thanh niên, vận động thanh niên đi
theo lý tưởng của Đảng; lôi cuốn, tập hợp đông đảo thanh niên xung phong
thực hiện và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng giao phó. Được tổ
chức Đồn dìu dắt, giúp đỡ, thanh niên không ngừng rèn luyện, phấn đấu
vươn lên xứng đáng là lực lượng kế thừa sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đồn thanh niên cịn có vai trị là người
giáo dục dìu dắt thiếu niên, nhi đồng. Cách mạng là sự nghiệp của nhiều thế


×