Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Ths luat học chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã của tỉnh bình phước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.4 KB, 128 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng. Vì vậy cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [57, tr.269]. Hơn 80
năm lãnh đạo cách mạng, đặc biệt sau Đại hội VI năm 1986 đến nay, công tác
cán bộ luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng và quan tâm đặc biệt. Hội nghị
Trung ương 3 khóa VIII khẳng định: “Cán bộ là nhân tố trực tiếp quyết định đến
sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [28, tr.34].
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có vị trí rất quan trọng trong
hệ thống chính quyền bốn cấp của nước ta. Vấn đề này được ghi nhận tại Điều
118 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992. Cấp xã là nơi
tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên
giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống hàng ngày của nhân dân ở địa
phương. CBCC CQCX trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, làm cầu nối giữa nhân
dân với Đảng và Nhà nước. Do vậy, đội ngũ CBCC có vai trị rất quan trọng
trong việc quyết định hiệu quả hoạt động của HTCT ở cơ sở nói riêng và
HTCT nói chung.
Cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, trực tiếp thực hiện và bảo đảm
trên thực tế việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà
nước. Quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân có được tôn trọng và bảo đảm
thực hiện hay không trước hết phải được thể hiện ở hoạt động của CQCX mà
thông qua đó là chất lượng của đội ngũ CBCC. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được
việc thì mọi cơng việc đều xong xi” [57, tr.371].



2
Thực tiễn cho thấy, ở nơi nào có đội ngũ CBCC cơ sở vững mạnh thì
nơi đó tình hình chính trị, xã hội ổn định, kinh tế, văn hóa phát triển, quốc
phòng, an ninh được giữ vững. Ngược lại, ở đâu công tác cán bộ không được
quan tâm, đội ngũ CBCC khơng đủ phẩm chất, năng lực và uy tín bị giảm sút
thì địa phương đó sẽ gặp khó khăn, kinh tế - xã hội chậm phát triển, thậm chí
tạo sơ hở cho kẻ địch lợi dụng, gây ra “điểm nóng” về chính trị. Điều đó cho
thấy đội ngũ CBCC CQCX có vai trị rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến
việc xây dựng và củng cố HTCT cơ sở, tác động trực tiếp đến sự nghiệp cách
mạng và quá trình đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Nhận thức được vai trò quan trọng của đội ngũ CBCC cấp xã, Hội nghị
lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ra Nghị quyết số 17NQ/TƯ ngày 18/3/2002 về Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động hệ
thống chính trị ở cơ sở, trong đó xác định:
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, khơng
tham nhũng, khơng ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác
đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với
cán bộ cơ sở [30, tr.167-168].
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức với chương
trình nội dung sát hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ xã, phường” [29, tr.217]. Nghị
quyết Trung ương 6 khóa X tiếp tục xác định: “Thực hiện mạnh mẽ chủ
trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và từng bước nhất thể hóa chức
danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ,
cơng chức ở cơ sở” [36, tr.37].
Bình Phước là một tỉnh miền núi, biên giới và dân tộc, thuộc vùng miền
Đông Nam Bộ, được tách ra từ tỉnh Sông Bé và đi vào hoạt động từ ngày



3
01/01/1997. Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh là thị xã
Đồng Xoài, cách thành phố Hồ Chí Minh 110km; phía Đơng giáp tỉnh Lâm
Đồng và Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Campuchia, phía Nam
giáp tỉnh Bình Dương và phía Bắc giáp tỉnh ĐắkNơng. Bình Phước có diện
tích tự nhiên là: 6.871.543 km2, dân số tính đến ngày 31/12/2010 là 893.353
người với 41 dân tộc anh em cùng sinh sống.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Dưới sự lãnh đạo
đúng đắn của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Phước, cùng với sự chỉ đạo
sát sao và tổ chức thực hiện của Đảng ủy và chính quyền các cấp, trong những
năm qua, đội ngũ CBCC cấp xã đã phát huy được vai trò, trách nhiệm trong
hoạt động quản lý nhà nước và đã đạt được những kết quả nhất định, góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội của địa phương.
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, của địa phương thì
CBCC cấp xã còn nhiều bất cập, nhất là sự hiểu biết về pháp luật liên quan
đến quản lý nhà nước ở cơ sở cũng cịn nhiều hạn chế. Chính vì thế trong quá
trình quản lý khi gặp những tình huống, những vụ việc rắc rối không đề ra
được phương án giải quyết tối ưu. Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 3 khoá VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước của Tỉnh ủy Bình Phước đánh giá: “Cán bộ,
cơng chức ở xã, phường, thị trấn có trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp
vụ thấp” [91, tr.02]. Vì vậy, những lúng túng, vi phạm trong cơng việc là điều
khó tránh khỏi. Đây là một vấn đề rất lớn đặt ra cho tỉnh Bình Phước về đào
tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho CBCC CQCX.
Bên cạnh những hạn chế do trình độ, năng lực, một bộ phận không nhỏ
CBCC do mặt trái của kinh tế thị trường tác động đã có những biểu hiện suy
thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gia
trưởng độc đoán, mất dân chủ; chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, cục bộ,



4
kèn cựa địa vị, cơ hội, ý thức tổ chức kỷ luật kém, phát ngôn và làm việc tùy
tiện, gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng; lợi dụng chức quyền làm trái các
nguyên tắc quản lý, tham nhũng, làm giàu bất chính, lãng phí của cơng, bán
và sang nhượng đất đai trái phép bị truy tố trước pháp luật… Mặt khác, hoạt
động của các đại biểu HĐND cấp xã cịn nhiều hạn chế. Năng lực, trình độ
của các đại biểu chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ mà nhân
dân giao phó. Một số đại biểu sau khi được bầu vào HĐND khơng nhiệt tình,
tâm huyết và chưa làm tốt vai trò của người đại biểu. Đáng chú ý là những
biểu hiện tiêu cực này đang có chiều hướng phát triển, làm xói mịn bản chất
cách mạng của cán bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Nhiều cán bộ lãnh đạo không nghiêm túc
tự phê bình và tiếp thu phê bình, tính chiến đấu kém. Có tình trạng nể nang,
né tránh, khơng nói thẳng, nói thật với nhau, bằng mặt mà khơng bằng lịng…
Trước thực trạng đó, trong cơng tác cán bộ tỉnh Bình Phước cần kịp thời
khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, quan tâm chú trọng nâng cao chất lượng
CBCC cấp xã, đồng thời vận dụng, tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp
phù hợp với điều kiện thực tế, góp phần quan trọng trong việc hồn thành mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Do đó, việc làm rõ thực trạng,
nguyên nhân chất lượng CBCC CQCX của tỉnh Bình Phước hiện nay, để từ đó đề
ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng cho đội ngũ này đáp ứng
yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN có ý nghĩa sâu sắc về lý luận và thực tiễn.
Trước yêu cầu cấp thiết của thực tế địa phương, tác giả mạnh dạn chọn
nội dung “Chất lượng cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã của tỉnh Bình
Phước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ Luật, hy vọng sẽ góp phần
nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng CBCC CQCX trong điều kiện
xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân qua đó nhằm xây dựng địa
phương ngày càng vững mạnh.



5
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chất lượng CBCC CQCX khơng cịn là một vấn đề mới nhưng ln là
đề tài có tính thời sự và cũng không kém phần phức tạp. Vấn đề này đã được
nhiều nhà khoa học, quản lý và hoạt động thực tiễn tập trung đi sâu nghiên
cứu, tìm tịi, khảo sát. Đến nay đã có nhiều cơng trình được cơng bố dưới
những góc độ, khía cạnh và hình thức thể hiện khác nhau như:
- PGS Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Lê Minh Thông (2002), “Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và
hoạt động của chính quyền xã ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, (số 3).
- TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông chủ biên (2003), Thực
hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Mạc Minh Sản (2003), Hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền
cấp cơ sở theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- TS Nguyễn Minh Phương (2003), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cơ sở đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 7).
- Nguyễn Hữu Đức (2003), “Từ đặc điểm, tính chất đội ngũ cán bộ,
cơng chức cơ sở để xây dựng chế độ, chính sách phù hợp”, Tạp chí Tổ chức
nhà nước, (số 8).
- Hữu Phan (2003), “Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với các chức danh
cán bộ, cơng chức cấp xã”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (số 10).
- Ths Nguyễn Thế Vịnh (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X), Hà Nội.

- TS Nguyễn Minh Sản (2009), Pháp luật về cán bộ, cơng chức chính
quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Sách
chuyên khảo, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.


6
- Châu Nam Trung (2009), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
ở tỉnh Cà Mau hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Phương Thảo (2010), Chất lượng cán bộ, công chức cấp
xã của tỉnh Tuyên Quang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- PGS.TS Bùi Đức Kháng chủ nhiệm (2010), Đổi mới phương thức và
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ - công chức nhà
nước đáp ứng yêu cầu hội nhập, Đề tài khoa học cấp bộ, TP Hồ Chí Minh.
Trong các cơng trình trên, các tác giả đã phân tích một cách hệ thống,
hiệu quả và tương đối toàn diện về vấn đề chất lượng CBCC cấp xã nói chung
dưới góc độ lý luận cũng như sự vận dụng lý luận vào việc nâng cao chất
lượng CBCC cấp xã tại một số địa phương. Đó đều là những cơng trình, sản
phẩm trí tuệ có giá trị, ý nghĩa lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn, là cơ sở để
kế thừa cho việc nghiên cứu tiếp theo.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng NNPQ
XHCN thì vấn đề nâng cao chất lượng CBCC CQCX vẫn còn là vấn đề mang
tính thời sự cấp thiết cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện.
Cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu trực tiếp về vấn đề chất lượng
CBCC CQCX của tỉnh Bình Phước với tư cách là một luận văn thạc sĩ Luật
học. Vì vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT ở cơ sở.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là đề xuất những phương hướng, giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng CBCC CQCX của tỉnh Bình Phước, cơ bản đáp
ứng u cầu địi hỏi của thực tiễn địa phương trong điều kiện xây dựng
NNPQ XHCN hiện nay.


7
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về CQCX và chất lượng CBCC CQCX.
Trong đó hệ thống hóa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước ta về CBCC cấp xã; khái niệm, những
tiêu chí đánh giá và những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng CBCC CQCX.
- Phân tích thực trạng chất lượng CBCC CQCX của tỉnh Bình Phước,
qua đó phát hiện ra những tồn tại cần khắc phục cũng như phân tích các nguyên
nhân hạn chế tác động đến chất lượng CBCC cấp xã của tỉnh Bình Phước.
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng CBCC
CQCX của tỉnh Bình Phước nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và
xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đội ngũ CBCC CQCX gồm: Chủ
tịch, Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND và các chức danh
công chức chuyên môn.
- Luận văn nghiên cứu CBCC CQCX của tỉnh Bình Phước giai đoạn từ
năm 2006 đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường
lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác cán bộ và chất lượng đội ngũ
CBCC nói chung, chất lượng đội ngũ CBCC CQCX nói riêng; đồng thời luận

văn kế thừa, vận dụng có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các tác giả
đi trước về vấn đề này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin kết hợp với các phương pháp luận khác như: phương pháp phân tích


8
và tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgic, phương pháp thống kê, so sánh,
phân tích tài liệu thứ cấp…để phân tích và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng và nâng
cao chất lượng CBCC CQCX. Đặc biệt làm rõ đặc điểm của CBCC CQCX ở
một tỉnh miền núi, biên giới và dân tộc như tỉnh Bình Phước, nêu bật những
cơ sở khách quan để xây dựng đội ngũ CBCC CQCX của Bình Phước đáp
ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN trong tình hình mới.
- Làm rõ thực trạng về CBCC CQCX của tỉnh Bình Phước. Từ đó, rút ra
những mặt mạnh, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó, làm tiền đề để
xây dựng và nâng cao hơn nữa chất lượng CBCC CQCX của tỉnh Bình Phước.
- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp nâng cao chất lượng CBCC CQCX đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng NNPQ XHCN trong giai đoạn đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Những kết luận và giải pháp rút ra từ luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo cho việc xây dựng, hoạch định chính sách và quy hoạch đào tạo CBCC
CQCX ở tỉnh Bình Phước. Cụ thể là những nghiên cứu, đóng góp của luận
văn sẽ góp phần thiết thực vào việc triển khai thực hiện chương trình hành
động của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Phước nhiệm kỳ 2010 - 2015 về
“Đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực”.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo

trong nghiên cứu và giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh, các trung tâm Bồi
dưỡng chính trị huyện, thị xã của tỉnh Bình Phước.
- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơng trình
nghiên cứu có liên quan sau này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA CÁN BỘ, CƠNG CHỨC
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ ĐÁP ỨNG U CẦU XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CƠNG CHỨC
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

1.1.1. Chính quyền cấp xã và cán bộ, cơng chức cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của chính quyền cấp xã
Theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân năm 2004, chính quyền xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là một
cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức hành chính nhà nước bốn cấp (trung
ương, tỉnh, huyện, xã) của nước ta. Cấp xã được xác định là cấp cơ sở, là nền
tảng của HTCT, đóng vai trị thiết thực trong việc xây dựng và thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. CQCX bao
gồm HĐND và UBND, trong đó “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân,
do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương
và cơ quan nhà nước cấp trên”. Còn “UBND do HĐND bầu là cơ quan chấp
hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách

nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp
trên và nghị quyết của HĐND”.
Xuất phát từ vị trí của CQCX trong hệ thống hành chính nhà nước nên
nó có vai trị rất quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước của
nhân dân. Nói đến cấp xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Cấp xã là
cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì
mọi cơng việc đều xong xi” [57, tr.371].
Theo quan điểm của Đảng ta, HTCT ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở
đảng - là lực lượng lãnh đạo HTCT ở cơ sở; Chính quyền cấp xã - là trụ cột,


10
là trung tâm của HTCT; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên - là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. CQCX là trung tâm của HTCT ở cơ sở, là
địa bàn gắn trực tiếp nhất với cuộc sống của nhân dân. Tất cả các tổ chức
quyền lực nhà nước cấp trên suy cho cùng đều phải thơng qua vai trị của hệ
thống CQCX và nếu khơng có chính quyền cơ sở vững mạnh thì các tổ chức
chính quyền cấp trên khó có thể phát huy tác dụng. Sức mạnh của HTCT
được chứng minh qua sức mạnh của chính quyền cơ sở. Cơ sở và chính quyền
cơ sở là yếu tố quyết định sự thành bại trong sự nghiệp đổi mới của đất nước
nói chung và sự phát triển của từng địa phương nói riêng. Vì thế, có thể khẳng
định CQCX là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
- CQCX là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, cấp xã là cơ sở thực tiễn cho việc xây
dựng và kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước trong cuộc sống.
- CQCX là nơi trực tiếp giải quyết các yêu cầu, nguyện vọng của nhân
dân. Trên thực tế cuộc sống nếu cần có sự can thiệp của chính quyền thì nơi
người dân tìm đến đầu tiên là chính quyền cơ sở. Cấp xã cũng là nơi trực tiếp
đưa ra các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền để giải quyết những yêu cầu

chính đáng của người dân, tạo điều kiện cho người dân có cuộc sống bình
n, hạnh phúc và để cho họ thực hiện có hiệu quả các quyền và nghĩa vụ của
mình trước nhà nước và xã hội.
- CQCX là nơi trực tiếp quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội ở địa
phương và có ảnh hưởng quan trọng tới hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội tại
địa phương. Vai trị quan trọng đó được thể hiện ở tính hiệu quả trong hoạt
động quản lý nhà nước của CQCX như cung cấp các dịch vụ công phục vụ
nhân dân và bộ máy nhà nước. Từ đó, CQCX giúp cơ quan nhà nước cấp trên
có những căn cứ để xây dựng, hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội sát với yêu cầu của thực tế cuộc sống.


11
- CQCX cũng là nơi nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân
dân để kịp thời phản ánh với các cơ quan nhà nước cấp trên, giúp Nhà nước
đề ra các biện pháp phù hợp với đặc thù của mỗi địa phương. Thực tế các vụ
việc phát sinh ở một số địa phương như Thái Bình, Tây Nguyên…đã cho thấy
nếu không sâu sát nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân sẽ nảy sinh nhiều
vấn đề phức tạp, dễ bị kẻ xấu lợi dụng, kích động gây chia rẽ trong nội bộ nhân
dân, phá vỡ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
CQCX là trung tâm của HTCT ở cơ sở, là địa bàn gắn trực tiếp nhất với
cuộc sống của nhân dân. Các quan hệ của nhân dân với Đảng, với Nhà nước
được thể hiện trước hết và trực tiếp thông qua quan hệ của CQCX với nhân dân.
Như vậy, CQCX là trung tâm của HTCT cơ sở, là một trong bốn cấp
chính quyền của Nhà nước ta, bao gồm HĐND và UBND, là những cơ quan
quyết định và tổ chức thực hiện các chủ trương, biện pháp liên quan đến phát
triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh và nâng cao đời
sống của nhân dân ở đia phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Xuất phát từ vị trí, vai trị, chức năng nói trên, CQCX có những đặc
điểm riêng như sau:
- Một là, CQCX là cấp cơ sở trực tiếp tiếp xúc với nhân dân. CBCC

CQCX thực hiện nhiệm vụ không chỉ với tư cách là người thực thi quyền lực
nhà nước mà còn bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ họ hàng, huyết thống,
xóm làng lâu đời nên phần nào chi phối đến hiệu quả và chất lượng công việc.
Là người trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống hằng ngày của
nhân dân nên CBCC cấp xã phải đáp ứng được hai yêu cầu: một mặt phải làm
đúng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; mặt khác phải thấu tình
đạt lý để giữ được mối quan hệ trong cộng đồng làng xóm, họ hàng. Đây là
một thực tế không thể phủ nhận và cũng là khó khăn, trở ngại lớn nhất trong
việc thực thi quyền lực nhà nước đối với CBCC CQCX.
- Hai là, tổ chức bộ máy của CQCX khác với các đơn vị hành chính
cấp trên. Ngồi tổ chức đảng, đồn thể, CQCX chỉ có HĐND và UBND mà


12
khơng có các cơ quan tư pháp hay các cơ quan chun mơn như ở cấp huyện.
Vì thế, CQCX phải thực hiện nhiều chức năng, nhiều công việc khác nhau mà
khơng có các phịng, ban chun trách.
- Ba là, CQCX là cấp thấp nhất, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể, là cấp đưa chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước vào thực tế cuộc sống. Ngoài việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của mình, CQCX cịn phải căn cứ vào tình hình thực tế địa phương mà đề ra
các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và vận động nhân dân thực
hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chủ động tìm kiếm các
biện pháp nhằm thúc đẩy, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời
sống của nhân dân ở địa phương.
1.1.1.2. Khái niệm cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã
Cho đến nay, trên thế giới vẫn chưa có một quan niệm thống nhất về
CBCC. Công chức là thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên
thế giới. Đây là khái niệm mang tính lịch sử, phản ánh những đặc điểm riêng
biệt của nền công vụ và tổ chức bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia. Ở các quốc

gia tồn tại nhiều đảng phái chính trị, cơng chức chỉ được hiểu là những người
giữ công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước, được xếp vào ngạch,
bậc công chức, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Còn ở những nước chỉ có
duy nhất một đảng lãnh đạo thì quan niệm về cơng chức được mở rộng hơn,
ngồi những chủ thể trên còn bao gồm cả những đối tượng có dấu hiệu tương
tự nhưng làm việc trong các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội. Do đó,
trong thực tế khó tìm được quan niệm chung về cơng chức cho tất cả các quốc
gia trong q trình phát triển của nó.
Nói về CBCC, có một số quan niệm ở một số quốc gia như sau:
Ở Cộng hòa Pháp, quan niệm về công chức rất rộng gồm những người
được tuyển dụng và bổ nhiệm vào ngạch, làm việc ở các công sở trong cơ
quan công quyền, tổ chức phục vụ sự nghiệp cơng do chính phủ trung ương


13
thống nhất quản lý [40, tr.40]. Còn ở Úc và Newzealand quan niệm công chức
chỉ gồm những người làm việc trong các cơ quan nhà nước từ trung ương đến
cơ sở, trong đó có các cơ quan hành chính và các đơn vị sự nghiệp của nhà
nước mà không bao gồm những người làm việc trong các cơ quan của đảng
và tổ chức chính trị - xã hội.
Ở Việt Nam, CBCC là khái niệm thường được dùng để gọi chung
những người làm việc cho Nhà nước hoặc các tổ chức trong HTCT. Theo Từ
điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, năm 2006) cán bộ được
định nghĩa là: “người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà
nước, Đảng và đồn thể có chức vụ”, cơng chức là “những người được tuyển
dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước,
hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp”. Như vậy, trong tổ chức đảng và
đoàn thể, cán bộ được dùng để chỉ những người được bầu vào các chức vụ
lãnh đạo, làm công tác chuyên trách hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Cịn
khái niệm cơng chức theo Từ điển Tiếng Việt không đề cập đến lực lượng làm

việc trong cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội. Các yêu cầu phải “được
tuyển dụng”, “được bổ nhiệm” và “hưởng lương từ ngân sách nhà nước”
không phải là đặc trưng riêng của đối tượng công chức. Lực lượng cán bộ ở
các cơ quan đảng cũng được bổ nhiệm và cũng hưởng lương từ ngân sách nhà
nước. Với định nghĩa như trên thì khơng thể phân biệt được cán bộ và cơng
chức dẫn đến khó khăn cho các cấp có thẩm quyền trong việc hoạch định các
chính sách cụ thể đối với CBCC.
Khắc phục được những hạn chế nói trên, Luật CBCC được Quốc hội
nước Cộng hịa XHCN Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thơng qua ngày
13/11/2008 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2010), quy định tại Điều 4 như sau:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung


14
ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là
cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Cơng an nhân dân mà không
phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn
vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách

nhà nước;
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công
dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực HĐND, UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người
đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội;
Cơng chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một
chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [71, tr.8-9].
Như vậy, kể từ ngày 01/01/2010 các đối tượng là CBCC đã được xác định rõ
và luật chỉ điều chỉnh đối với các chức danh cán bộ chủ chốt hay cán bộ chun
trách và cơng chức cấp xã. Cịn các đối tượng là những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã theo Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 23/10/2003 Về
chế độ, chính sách đối với CBCC cấp xã thì luật khơng điều chỉnh.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau: CBCC
CQCX là công dân Việt Nam, được bầu cử hoặc được tuyển dụng để giữ chức


15
vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực HĐND, UBND hoặc giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước.
Theo quy định của Luật CBCC năm 2008 và Nghị định số 92/2009/NĐ-CP
ngày 22/10/2009 của Chính phủ “Về chức danh, số lượng, một số chế độ,
chính sách đối với CBCC ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động
không chun trách ở cấp xã”, thì CBCC CQCX có các chức vụ, chức danh
và số lượng được xác định như sau:
- Cán bộ chính quyền cấp xã có các chức vụ sau đây:
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND.
- Cơng chức chính quyền cấp xã có các chức danh sau đây:

+ Trưởng Cơng an;
+ Chỉ huy trưởng Quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng - đơ thị và mơi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nơng nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
+ Tài chính - kế tốn;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội.
- Số lượng CBCC cấp xã được bố trí theo loại đơn vị hành chính cấp
xã, cụ thể như sau:
+ Cấp xã loại 1: không quá 25 người;
+ Cấp xã loại 2: không quá 23 người;
+ Cấp xã loại 3: không quá 21 người.
Việc xếp loại đơn vị hành chính cấp xã thực hiện theo quy định tại Nghị
định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về việc phân loại
đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.


16
Từ những quy định trên đây cho thấy đội ngũ CBCC CQCX có một số
đặc điểm chung cơ bản như sau:
+ Về tiêu chuẩn: CBCC cấp xã có tiêu chuẩn chung được quy định tại
Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Hầu hết CBCC CQCX đều đảm nhận các vị trí cơng tác quan trọng, chủ chốt
tại cơ sở nên tiêu chuẩn về chính trị là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu,
quan trọng nhất. Tiêu chuẩn chính trị đảm bảo cho CBCC CQCX đủ phẩm
chất để lãnh đạo các mặt công tác quan trọng ở cơ sở.
+ Nguồn hình thành cán bộ CQCX rất đa dạng: Do cán bộ được bầu cử
nên các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể
là nơi cung cấp nguồn cho cán bộ CQCX, từ đó cho thấy cán bộ CQCX được

hình thành từ rất nhiều nguồn.
Trên thực tế, trình độ chuyên môn của cán bộ CQCX không đồng đều.
Nguyên nhân là do cán bộ hình thành từ cơ chế bầu cử nên tiêu chuẩn chuyên
môn, nghiệp vụ chưa được chú ý đúng mức. Tuy nhiên, do cán bộ được sự tín
nhiệm nên được giữ những trọng trách quan trọng mặc dù có thể chưa đủ tiêu
chuẩn theo quy định. Đây là một đặc điểm cơ bản, phổ biến không chỉ đối với
cán bộ CQCX của tỉnh Bình Phuớc nói riêng mà cả đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
trong cả nước nói chung. Từ đặc điểm này địi hỏi các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phải chú trọng cơng tác đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa đội ngũ
cán bộ này.
+ Theo quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, công chức cấp xã phải có trình độ chun mơn phù
hợp từ trung cấp trở lên. Chính từ quy định này nên cơng chức cấp xã có sự
đồng nhất và tương đối đạt chuẩn về trình độ chun mơn, nghiệp vụ.
Cơng chức cấp xã phải thông qua tuyển dụng và phụ trách những lĩnh
vực cơng tác cụ thể nên nhìn chung có sự đảm bảo về tiêu chuẩn chun mơn
và tính ổn định trong cơng tác. Tính ổn định của cơng chức cấp xã cao hơn so


17
với cán bộ CQCX. Công chức cấp xã trực tiếp tham mưu cho lãnh đạo UBND
cấp xã trong việc điều hành, chỉ đạo công tác. Do vậy, chất lượng của cơng
chức cấp xã sẽ góp phần quyết định đến hiệu lực, hiệu quả trong quản lý hành
chính nhà nước của CQCX.
Đội ngũ CBCC CQCX có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và là lực
lượng chiếm số lượng hết sức đông đảo trong tổng số biên chế hiện nay của
Nhà nước ta. Chính vì vậy, việc xác định rõ đặc điểm, vị trí, vai trị của CBCC
CQCX là vấn đề cần thiết để có chủ trương và chính sách phù hợp.
1.1.2. Vị trí, vai trị của cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã trong

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành
công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Lênin đã chỉ rõ: “Trong lịch sử
chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu khơng đào tạo ra
được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, người đại biểu tiên
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [43, tr.478]. Năm
1922, khi đã giành được chính quyền, Lênin khẳng định: “Nghiên cứu con
người, tìm ra những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt, nếu khơng
thế thì tất cả mệnh lệnh và quyết định chỉ là mớ giấy lộn” [49, tr.449].
Nói về cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu
rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng,
Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [57, tr.269]. Cán bộ là “cầu
nối” giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân, Người đặt cán bộ ở vị trí có tính
chất quyết định: chính sách đúng có thể khơng thu được kết quả nếu cán bộ
sai, cán bộ yếu kém. Xác định vai trò của người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đánh giá: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “Muôn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [57, tr.269, 240].


18
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta xác định con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó
“cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng” [24, tr.34]. Đảng ta ln coi cán bộ có vai trị quyết định
đối với sự nghiệp cách mạng. Nghị quyết Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
VII khẳng định trong cơng cuộc đổi mới của đất nước thì:
Cán bộ hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới. Cán bộ nói
chung có vai trị rất quan trọng, cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí nền

tảng cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp thực hiện mọi chủ trương
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chất lượng và hiệu
quả thực thi pháp luật một phần được quyết định bởi sự triển khai ở
cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gắn với quần chúng; tạo dựng
phong trào cách mạng quần chúng. Cơ sở xã, phường, thị trấn mạnh
hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán
bộ xã, phường, thị trấn [24, tr.21].
Trong hệ thống hành chính nhà nước hiện nay, CQCX có vị trí, vai trị
đặc biệt quan trọng khơng chỉ trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước mà
còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của
các cộng đồng dân cư và toàn thể nhân dân trong xã; là cầu nối giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân, là mắt xích quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền
lực nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
đều phải thực hiện ở cấp xã. Với vị trí nền tảng, vai trị của CBCC CQCX
được thể hiện qua các mối quan hệ: với đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước; với bộ máy chính quyền; với cơng việc và với quần
chúng nhân dân, cụ thể ở các điểm cơ bản sau:
- Quan hệ giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị với CBCC CQCX là mối
quan hệ nhân quả. CBCC CQCX có phẩm chất và năng lực tốt mới có thể cụ


19
thể hóa, tổ chức thực hiện và bổ sung hồn chỉnh tốt đường lối của Đảng. Nếu
CBCC không vững mạnh thì cho dù đường lối, nhiệm vụ chính trị có đúng
đắn cũng khó trở thành hiện thực. Như vậy, CBCC CQCX góp phần quyết
định sự thành bại của đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước
ở cơ sở.
- CBCC CQCX là những người trực tiếp đem chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng
thời nắm bắt việc triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính

sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng, phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, vị trí vai trị của
CBCC CQCX là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với quần chúng nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành xây dựng NNPQ
XHCN, mở rộng dân chủ XHCN, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Vì vậy, vai trị này của đội ngũ CBCC
CQCX càng có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho nhân dân biết và nắm được
các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trên cơ sở đó
họ sẽ tham gia, đóng góp vào việc thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính
sách đó.
- Trong mối quan hệ với bộ máy CQCX, CBCC là nhân tố chủ yếu,
hàng đầu và là nhân tố “động” nhất ở cơ sở. Tuy nhiên, CBCC CQCX lại chịu
sự chi phối, ràng buộc của tổ chức. Tổ chức bộ máy CQCX buộc người
CBCC phải hoạt động theo những nguyên tắc và khn khổ nhất định. Vì vậy,
tổ chức bộ máy CQCX khoa học, hợp lý sẽ nhân sức mạnh của CBCC lên gấp
nhiều lần. CBCC CQCX chỉ có sức mạnh khi gắn với tổ chức chính quyền và
nhân dân ở cơ sở, nếu tách rời những bộ phận trên thì họ sẽ mất hết sức mạnh
quyền lực và hiệu lực do nhân dân tạo nên.
Trong NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân, đội ngũ CBCC CQCX
với tư cách là người thực thi pháp luật càng có vị trí, vai trò quan trọng trong


20
việc góp phần xây dựng và hồn thiện NNPQ, đặc biệt là trong triển khai, tổ
chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống.
- CBCC CQCX là lực lượng “nịng cốt” trong quản lý và tổ chức cơng
việc ở địa phương. Mỗi CBCC được giao thực hiện một khối lượng cơng việc
rộng, nhiều và có tác động ảnh hưởng lớn trong xây dựng NNPQ XHCN của
dân, do dân, vì dân. Chính họ cũng có khả năng đóng góp một khối lượng lớn ý
kiến đề xuất với các cơ quan nhà nước cấp trên để xây dựng hệ thống pháp luật

hoàn chỉnh, phù hợp hướng tới NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân.
- CBCC CQCX là những người gần dân nhất, có vai trị trực tiếp bảo
đảm kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã hội,
ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Họ là những người đóng vai trị tiên
phong, đi đầu trong đấu tranh chống các hiện tượng quan liêu, tham nhũng,
cửa quyền và các biểu hiện tiêu cực khác, làm cho tổ chức Đảng, bộ máy
CQCX trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Thơng qua
hoạt động của CBCC CQCX, nhân dân thể hiện được quyền làm chủ và trực
tiếp thực hiện quyền làm chủ của mình.
Tóm lại, nhận thức được vị trí, vai trị của đội ngũ CBCC CQCX trong
quá trình xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân, Nghị quyết Trung
ương 5 khóa IX đã xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở là một trong ba
vấn đề cơ bản, bức xúc nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính
trị cơ sở [30, tr.337]. Trong nhiều năm qua, đội ngũ CBCC CQCX ở nước ta
đã khẳng định được vị trí, vai trị quan trọng của mình, có nhiều đóng góp to
lớn trong q trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần quan trọng vào q
trình xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN .
1.1.3. Chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
1.1.3.1 Khái niệm chất lượng cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã
Thực tiễn đã chỉ ra rằng, hiệu quả công việc phụ thuộc phần lớn vào
chất lượng CBCC. Có chủ trương, chính sách đúng nhưng phải có đội ngũ cán


21
bộ có đầy đủ khả năng triển khai thực hiện thì chủ trương, chính sách đó mới
đi vào cuộc sống. Để hiểu được khái niệm chất lượng CBCC CQCX, chúng ta
cần phải làm rõ một số khái niệm có liên quan, như sau:
Khái niệm chất lượng: Chất lượng được hiểu ở nghĩa chung nhất là “cái
tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc” [65, tr.44].

Đối với mỗi con người, chất lượng của cá nhân được hiểu là tổng hợp
những phẩm chất nhất định về lý trí, ý chí, chun mơn nghiệp vụ, phẩm chất
đạo đức, niềm tin, năng lực; ln gắn bó với tập thể, với cộng đồng và tham
gia một cách tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, yêu cầu chất lượng đối
với mỗi con người trong xã hội nói chung đã cao thì u cầu đối với chất
lượng đội ngũ CBCC nói riêng càng cao hơn. Điều này đòi hỏi người CBCC
phải gương mẫu, đi tiên phong về lý luận và thực tiễn, chấp hành nghiêm
chỉnh các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, giữ vững tiêu chuẩn và tư cách của người cán bộ cách mạng.
Khái niệm chất lượng CBCC CQCX: Qua việc làm rõ khái niệm chất
lượng, chất lượng CBCC CQCX được xem xét dưới các góc độ sau:
Thứ nhất, chất lượng của CBCC CQCX được xác định trong mối tương
quan giữa số lượng với vị trí, vai trị và nhiệm vụ được giao. Chất lượng đội
ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đòi hỏi phải có một
số lượng, cơ cấu hợp lý so với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Tính hợp lý được
biểu hiện ở sự tinh giản ở mức tối ưu, đảm bảo gọn nhẹ, hoạt động có hiệu
quả, trong đó mỗi cá nhân phát huy được hết năng lực, sở trường của mình, có
thể đảm đương tốt cơng việc được giao, đảm bảo cho bộ máy nhà nước vận
hành thông suốt và đạt hiệu quả cao nhất. Một đội ngũ quá đông sẽ gây ra sự
trì trệ trong cơng việc, trong điều hành, gây ra sự dư thừa, lãng phí nhân lực
và do đó thiếu sự thúc đẩy tính tích cực của mỗi cá nhân.
Tính hợp lý về số lượng cịn biểu hiện ở sự cân đối và phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với yêu cầu của công


22
việc, nhiệm vụ đặt ra. Một cơ cấu hợp lý, đó là sự cân đối giữa các thành phần
giai cấp, dân tộc, nghề nghiệp, giới tính, độ tuổi, thế hệ…Sự hợp lý trong cơ
cấu cán bộ sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cả đội ngũ CBCC, tạo nên tính

năng động, sự phối hợp nhịp nhàng và hài hịa trong hoạt động công vụ .
Thứ hai, chất lượng CBCC CQCX được thể hiện ở hiệu lực, hiệu quả
trong hoạt động của bộ máy CQCX. Trên thực tế, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của CQCX phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: cơ sở vật chất, phương tiện
kỹ thuật, tính khoa học trong tổ chức bộ máy, tính hợp lý trong hoạt động của
bộ máy CQCX…Trong đó, chất lượng hoạt động của CBCC là yếu tố quan
trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của CQCX.
Thứ ba, chất lượng của đội ngũ CBCC CQCX là sự tổng hợp chất
lượng của từng cán bộ, cơng chức và có thể đánh giá qua các nội dung cơ bản
sau đây:
+ Phẩm chất chính trị: Đó là quan điểm, lập trường, tư tưởng của người
CBCC CQCX. Biểu hiện cụ thể đó là sự tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng, con
đường cách mạng của Đảng, chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước.
+ Phẩm chất đạo đức: Được thể hiện qua lối sống giản dị, gần gũi quần chúng
của CBCC CQCX; sự tín nhiệm của nhân dân và uy tín của họ trước tập thể.
+ Trình độ năng lực: Bao gồm trình độ học vấn, chun mơn nghiệp vụ,
trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước, quản lý kinh tế; sự am
hiểu đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
+ Khả năng hồn thành nhiệm vụ: Đó là một tập hợp khả năng của
CBCC CQCX như khả năng quản lý điều hành, khả năng giao tiếp, khả năng
thích ứng và xử lý đối với những tình huống cụ thể trong hoạt động quản lý;
cùng với các yếu tố khác như sức khỏe, thâm niên cơng tác, thành phần, dân
tộc, giới tính…
Từ những đặc điểm trên có thể khái niệm: Chất lượng CBCC CQCX là
sự tổng hợp chất lượng của từng CBCC, được đánh giá thơng qua các tiêu chí


23
về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ văn hóa, chính trị,

chun mơn, nghiệp vụ cũng như khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao
trong các lĩnh vực công tác ở cơ sở.
1.1.3.2 Đặc điểm chất lượng cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã
Tuy nhiên, trên thực tế cán bộ CQCX hiện nay đông nhưng khơng
mạnh, trình độ, kiến thức, năng lực, phương pháp cơng tác còn bộc lộ nhiều
bất cập, hạn chế. Kỹ năng lãnh đạo, điều hành, quản lý và khả năng vận động quần
chúng của đội ngũ cán bộ CQCX trong điều kiện mới cịn nhiều bỡ ngỡ, hạn chế,
do đó ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động và hiệu lực, hiệu quả ở cơ sở.
Là bộ phận quan trọng trong đội ngũ CBCC nhà nước, hoạt động của
CBCC CQCX so với CBCC ở các cấp trên đều hướng tới mục tiêu, nhiệm vụ
chung là: họ đều thực thi cơng vụ; có yêu cầu về phẩm chất, năng lực, trình độ
nhất định; có trách nhiệm trước dân, trước Đảng, Nhà nước, có nghĩa vụ và
quyền lợi nhất định. Việc xác định đặc điểm chất lượng của CBCC CQCX có
ý nghĩa quan trọng không chỉ trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ này mà
còn là cơ sở để xây dựng chế độ, chính sách cho phù hợp. Nhưng về cơ bản,
đặc điểm chất lượng của CBCC CQCX được quy định bởi chính vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và hoạt động của CQCX. Chính
những dấu hiệu này đã xác định đặc điểm chất lượng CBCC CQCX khác với
CBCC cấp trên ở các điểm sau:
CBCC CQCX có tính chun mơn hóa thấp, kiêm nhiệm nhiều. Do tổ
chức bộ máy và phương tiện làm việc của CBCC CQCX không đồng bộ như
cấp trên, mặc dù CBCC CQCX được bố trí theo từng chức vụ, chức danh cụ
thể nhưng hầu hết đều kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác, ranh giới giữa cán bộ
đảng, chính quyền, đồn thể khơng rạch rịi nên khi quyết định công việc của
địa phương phải phối hợp để giải quyết. Ngay các công chức chuyên môn
cũng khơng hồn tồn được chun mơn hóa, ít nhiều cịn kiêm nhiệm thêm
các việc khác. Việc phân vai trò cho từng loại CBCC chỉ là tương đối, điều


24

này được lý giải vì đây là cấp hành động, phải phối hợp để giải quyết công
việc của địa phương, khơng phải là cấp xây dựng chủ trương. Nhìn chung,
trình độ và năng lực của đội ngũ CBCC CQCX còn nhiều hạn chế, chưa được
đào tạo đã làm quản lý nhà nước, không đáp ứng yêu cầu về văn bằng, chứng
chỉ, sau khi trúng cử mới được đào tạo, bồi dưỡng nên rất khó khăn khi áp
dụng tiêu chuẩn ngạch, bậc công chức.
CBCC CQCX vừa là cán bộ vừa là người dân trực tiếp sản xuất, kinh
doanh ở cơ sở. CBCC ở cấp trên là những CBCC làm công ăn lương, bản
thân và gia đình họ sống bằng tiền lương gắn với nghề nghiệp của họ. Còn
CBCC CQCX đều trực tiếp sinh sống và làm ăn trên mảnh vườn, thửa ruộng
của mình. Họ thường khơng thốt ly hẳn sản xuất mà hằng ngày họ vừa sản
xuất kinh doanh, vừa làm “việc nước”, trong nhiều trường hợp nguồn thu chủ
yếu của họ không phải từ lương, phụ cấp do ngân sách nhà nước đảm bảo mà
lại từ kết quả sản xuất, kinh doanh.
CBCC CQCX có tính ổn định thấp so với CBCC nhà nước ở cấp trên.
CBCC CQCX không nhất thiết phải làm việc suốt đời (60 tuổi đối với nam,
55 tuổi đối với nữ). Về cơ bản ít có sự điều động, luân chuyển, họ làm việc tại
chỗ, bầu cử trúng thì làm, khơng trúng thì nghỉ, làm người dân (đối với cán bộ
bầu cử). Về nghĩa vụ, trách nhiệm thì gần giống như CBCC ở cấp trên nhưng
thực chất chế độ của họ được hưởng chưa tương xứng và đầy đủ. Khi đủ điều
kiện thì được nghỉ hưu, khơng đủ thì nghỉ việc theo chế độ một lần. Đây là
đặc điểm khác biệt về chất lượng của CBCC CQCX so với CBCC nhà nước
và các đơn vị hành chính sự nghiệp ở cấp trên.
Xuất phát từ các đặc trưng trong quản lý của chính quyền xã, thị trấn
(nơng thơn) với chính quyền phường (đơ thị), cịn có sự khác nhau ngay chính
trong bản thân đội ngũ CBCC CQCX. Chính quyền và đội ngũ CBCC xã, thị
trấn đóng vai trị quan trọng trong quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực,
quyết định việc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân ở



25
xã, thị trấn. Cịn chính quyền phường và đội ngũ CBCC phường đóng vai trị
quan trọng trong việc chỉ đạo các phong trào văn hóa xã hội, đảm bảo trật tự
trị an ở đô thị và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cấp trên giao.
1.2. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT
LƯỢNG CÁN BỘ, CƠNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

1.2.1. Các tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ, cơng chức chính
quyền cấp xã
Đánh giá cán bộ là nội dung quan trọng và là khâu rất nhạy cảm trong công
tác cán bộ. Việc đánh giá chất lượng CBCC CQCX phải được thực hiện trên một
hệ thống các tiêu chí khoa học, khách quan nhằm đảm bảo đánh giá chính xác,
trung thực chất lượng đội ngũ CBCC, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp để nâng
cao chất lượng cho đội ngũ này. Việc đánh giá được dựa trên một số tiêu chí sau:
1.2.1.1. Phẩm chất chính trị
Phẩm chất chính trị là tiêu chuẩn được đặt lên hàng đầu trong quá trình
đánh giá chất lượng CBCC, nó có tính quyết định đến chất lượng hoạt động
của mỗi CBCC. Phẩm chất chính trị là yêu cầu cơ bản của mỗi CBCC trong
từng giai đoạn cách mạng. Bác Hồ thường nói: "Phải có chính trị trước rồi có
chun mơn; chính trị là đức, chun mơn là tài. Có tài mà khơng có đức là
hỏng…Đức phải có trước tài” [57, tr.26].
Phẩm chất chính trị của CBCC CQCX được biểu hiện trước hết là sự
tin tưởng tuyệt đối với lý tưởng cách mạng, chấp hành tốt chủ trương, đường
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; quyết tâm cụ thể hóa chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, tổ chức thực hiện sát hợp với tình hình thực tiễn
ở địa phương. Phẩm chất chính trị là lịng nhiệt tình cách mạng, trung thành
tuyệt đối với lý tưởng của Đảng, với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Phẩm chất chính trị biểu hiện ở bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
với mục tiêu và con đường đi lên CNXH.
Phẩm chất chính trị của người cán bộ được thể hiện trong thực tiễn

cách mạng. Nghĩa là trong mọi hồn cảnh dù thuận lợi hay khó khăn, người


×