Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học-hoàn thiện pháp luật công chứng ở việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.86 KB, 88 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Cơng chứng được Quốc hội thơng qua tháng 11/2006, có hiệu lực
từ ngày 1/7/2007, là sự thể chế hố chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về cải cách hành chính và cải cách tư pháp về những nội dung liên
quan đến hoạt động công chứng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02 tháng 6 năm 2005 về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 và Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 01 tháng 6 năm 2005 về chiến lược xây dựng pháp
luật đến năm 2020. Đây được coi là đạo luật thể hiện chủ trương cải cách
mạnh mẽ đối với hoạt động của Nhà nước nói chung và hoạt động bổ trợ tư
pháp nói riêng. Vì vậy, để đưa các quy định của Luật công chứng thực sự đi
vào cuộc sống đòi hỏi phải kết hợp đồng bộ các giải pháp từ nhận thức đến tổ
chức, hoạt động khơng chỉ của các cơ quan nhà nước mà cịn sự đón nhận của
xã hội đối với hoạt động này.
Qua 04 năm thực hiện, Luật cơng chứng đã góp phần quan trọng vào
việc phát triển đội ngũ công chứng viên đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ, vững về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội về công chứng, phục vụ đắc lực cho
công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. Đổi mới hình thức tổ
chức cơng chứng theo hướng từng bước xã hội hoá nhằm phát huy những
tiềm năng to lớn của xã hội vào phát triển hệ thống cơng chứng mang tính
chất là tổ chức dịch vụ cơng, phục vụ một cách thuận tiện cho các nhu cầu
công chứng của nhân dân. Xác định rõ phạm vi trách nhiệm của công chứng
viên trong hoạt động công chứng. Xây dựng quan hệ dịch vụ bình đẳng giữa
cơng chứng viên và người u cầu cơng chứng; minh bạch hóa, đơn giản hóa
trình tự, thủ tục cơng chứng, phát huy tính chủ động, tích cực của cơng chứng
viên trong q trình tác nghiệp, loại bỏ lối làm việc bàn giấy quan liêu, cửa
quyền của cơng chứng viên. Xã hội hố dịch vụ công chứng đã thực sự phát



2
huy những tiềm năng to lớn của xã hội vào phát triển hệ thống cơng chứng
mang tính chất là tổ chức dịch vụ công, phục vụ một cách thuận tiện cho các
nhu cầu công chứng của nhân dân; đây thực sự là một bước tiến tích cực trong
q trình hội nhập.
Trước yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước trên lĩnh vực cơng chứng;
trước sự phát triển của tình hình kinh tế, hội nhập quốc tế, pháp luật ccông
chứng đã bộc lộ những yếu kém, bất cập: thiếu tính đồng bộ, tính thống nhất;
nội dung điều chỉnh về hoạt động cơng chứng cịn chung chung; nhiều chủ
trương, chính sách đổi mới của Đảng về công chứng chưa được thể chế hóa
thành pháp luật; nhiều vấn đề mới phát sinh trong hoạt động công chứng chưa
được pháp luật điều chỉnh, bổ sung kịp thời... Những thiếu sót trên là một
trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lúng túng, thiếu thống nhất khi xử
lý đối với hoạt động công chứng vi phạm pháp luật, làm hạn chế hiệu quả
quản lý nhà nước trên lĩnh vực công chứng, một lĩnh vực quan trọng có ảnh
hưởng trực tiếp đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, những vấn đề lý luận pháp luật về công
chứng (như: khái niệm, đặc điểm, tiêu chí hồn thiện, nội dung và vai trị của
pháp luật công chứng) chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức.
Thời gian tới, hoạt động công chứng ở Việt Nam tiếp tục trở nên phức
tạp và còn tiềm ẩn những nhân tố rủi ro cao từ những hoạt động cơng chứng.
Vì vậy, việc hồn thiện pháp luật cơng chứng đang đặt ra bức thiết.
Xuất phát từ tình hình trên, tơi đã mạnh dạn chọn đề tài “Hồn thiện
pháp luật công chứng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” cho luận văn tốt
nghiệp cao học chuyên ngành luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp luật về cơng chứng nói chung đã được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu dưới góc độ lý luận cũng như dưới góc độ thực tiễn. Ngồi những



3
tình huống pháp lý cụ thể về cơng chứng được đề cập trong rất nhiều bài viết
ở các tạp chí chuyên ngành luật như tạp chí Luật học, tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Nhà nước và Pháp luật... Ngồi ra,
nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết đăng trên các tạp chí bàn luận về các
quy định của pháp luật Những điểm mới cơ bản của Luật công chứng của TS
Trần Thất - Vụ trưởng vụ Hành chính tư pháp - Bộ Tư pháp; Công chứng ở
một số nước trong hệ Latinh của tác giả - Nguyễn Văn Toàn -Bộ Tư pháp;
Các quy định của pháp luật về thủ tục công chứng hợp đồng giao dịch, những
vấn đề khó khăn, vướng mắc, bất cập của hệ thống pháp luatạ và giải pháp
của Công chứng viên trong thực tiễn hành nghề - Trang Web của Bộ Tư pháp,
địa chỉ: http://nghiepvu. moj.gov.vn;” Công chứng và một số kiến nghị giải
phápnhằm hoàn thiện pháp luật về cơng chứng” của tác giả Nguyễn Tiến
Mạnh – Phịng Pháp chế NHTMCP Đông Á; Bài trả lời của Vụ trưởng Vụ
Hành chính tư pháp - Bộ Tư pháp Trần Thất trên trang vietnamnet khi phóng
viên Nguyễn Tú phỏng vấn 2/1/2007; Cơng chứng tư - mơ hình duy nhất
trong tương lai của TS Trần Thất - Vụ trưởng vụ Hành chính tư pháp - Bộ Tư
pháp; Một số khó khăn, vướng mắc về công chứng, chứng thực hợp đồng bảo
đảm - khả năng giải quyết tại Luật Công chứng và một số kiến nghị của tác
giả Dương Thanh Minh; Bài của tiến sỹ, luật sư Trần Công Trục, nguyên
Trưởng Ban Biên giới Chính phủ khi trả lời phóng viên Vân Anh đăng trên
trang vietnamnet ngày 7/4/2008; Phát biểu của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Uông
Chu Lưu tại phiên làm việc của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sáng 3/4/2006,
cho ý kiến về dự án Luật công chứng, do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo; Bài
phát biểu của Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP Nguyễn Thành Tài tại
cuộc họp sáng 02/6/2008 được phóng P. Cường đăng trên vietnamnet cùng
ngày; Bài viết “Văn phịng Cơng chứng tư nhân sắp được phép thành lập: Tạo
mơi trường cạnh tranh bình đẳng” của Thuỷ Thu. Theo Báo Pháp luật Việt
Nam ngày 14/6/2007; Bài viết “ Nên chăng cho công chứng tư vào cuộc

cuộc” của Trần Hồng Dương, ngày 08/6/2006.


4
Tuy nhiên, các cơng trình khoa học này mới chỉ dừng lại ở việc xem
xét, đánh giá một vài khía cạnh nào đó trong các quy định của pháp luật về
cơng chứng mà chưa có sự đánh giá một cách toàn diện cả trên phương diện
lý luận và thực tiễn áp dụng, chưa nêu ra những bất cập, những chồng chéo và
xung đột giữa các quy định của pháp luật đối với lĩnh vực này, đồng thời chưa
đưa ra các giải pháp và hướng hồn thiện cho pháp luật Cơng chứng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn nhằm nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hồn
thiện pháp luật về cơng chứng ở Việt Nam trong tình hình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nói trên, chúng tơi đưa ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận pháp luật về công chứng dưới góc độ lý
luận nhà nước và pháp luật, như: khái niệm pháp luật về công chứng, đặc
điểm và những tiêu chí hồn thiện pháp luật về cơng chứng, vai trị, vị trí của
nó trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Nghiên cứu pháp luật về công chứng của một số nước trên thế giới.
- Phân tích sự hình thành và phát triển của pháp luật về hoạt động công
chứng ở Việt Nam từ 1945 đến 2011; trên cơ sở đó rút ra những ưu, nhược
điểm và nguyên nhân.
- Đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về công chứng ở nước ta.
- Kiến nghị phương hướng, nội dung hoàn thiện pháp luật về công
chứng ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi của việc nghiên cứu luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn

Luận văn nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của pháp luật
cơng chứng và thực trạng thi hành pháp luật về công chứng ở Việt Nam.


5
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp
luật. Về thời gian, luận văn nghiên cứu pháp luật về Công chứng từ Cách
mạng tháng Tám đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác – Lênin. Bởi vì, chỉ có phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin mới có thể luận chứng
một cách khoa học các cơ sở lý luận về hồn thiện pháp luật cơng chứng.
Ngoài phương pháp luận nêu trên, tác giả luận án còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác như:
- Phương pháp lịch sử: Thực tiễn cho thấy, hoạt động tư pháp nói chung
và cơng chứng nói riêng là một lĩnh vực có bề dày lịch sử. Vì vậy, trong quá
trình nghiên cứu, tác giả đã tập trung nghiên cứu cả những vấn đề chúng ta đã
làm được, thậm chí có những kinh nghiệm q báu của cha ơng ta đã được
luật hóa có giá trị pháp lý, nhưng nay khơng cịn được áp dụng... để làm
phong phú thêm nội dung nghiên cứu của đề tài.
Ngoài ra, trong thời gian qua, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu
khoa học liên quan đến cơng chứng. Vì vậy, việc sử dụng phương pháp
nghiên cứu lịch sử sẽ giúp tác giả sử dụng kết quả đã được nghiên cứu nay
vẫn còn có giá trị thực tiễn, giá trị chứng minh để làm phong phú thêm nội
dung nghiên cứu của đề tài, đồng thời đảm bảo tránh sự trùng lắp.
- Phương pháp phân tích: Phân tích các định hướng phát triển nhất là
định hướng cải cách tư pháp, các điều kiện khách quan, chủ quan, vấn đề kinh
tế, xã hội của Việt Nam; phân tích thực trạng cơng chứng, pháp luật cơng

chứng trong mối quan hệ với các quy định pháp luật có liên quan.
- Phương pháp so sánh: Để việc nghiên cứu thực sự có hiệu quả, mỗi
vấn đề được đưa ra đều có sự so sánh, đối chiếu, kể cả so sánh đối chiếu, làm


6
cơ sở cho việc vận dụng linh hoạt những nội dung đã được kiểm nghiệm có
hiệu quả của nước ngồi phù hợp với tình hình của nước ta.
- Phương pháp xã hội học: khảo sát và nghiên cứu tình hình thực tiễn.
- Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và thực
tế, tổng hợp các kết quả thu được, đưa ra phương hướng, giải pháp về hồn
thiện pháp luật về cơng chứng ở Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là cơng trình nghiên cứu tương đối tồn diện, có hệ thống sự về
hình thành và phát triển của pháp luật về công chứng trong hệ thống pháp luật
Việt Nam. Trên cơ sở đó, chúng tơi kiến nghị phương hướng, nội dung hồn
thiện pháp luật về công chứng hiện hành. Những nội dung sau đây là đóng
góp mới của luận văn:
- Làm sáng rõ khái niệm, đặc điểm, tiêu chí hồn thiện, nội dung và
vai trị của pháp luật về cơng chứng ở Việt Nam.
- Nghiên cứu pháp luật về công chứng của một số nước trên thế giới
để rút ra những kinh nghiệm có giá trị lập pháp trong lĩnh vực này; qua đó vận
dụng có chọn lọc vào thực tiễn Việt Nam.
- Trình bày sơ lược về sự hình thành và phát triển của pháp luật công
chứng ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử của đất nước.
- Đề xuất các quan điểm cần quán triệt trong hoàn thiện pháp luật về
công chứng, đồng thời kiến nghị phương hướng, nội dung hồn thiện pháp
luật cơng chứng ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa

học cho việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật cơng chứng ở Việt Nam; góp phần
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công chứng ở Việt Nam.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc
nghiên cứu, giảng dạy lý luận pháp luật về công chứng cũng như đào tạo cán
bộ thuộc các ngành: tư pháp, nhất là Công chứng viên.


7
Về mặt thực tiễn, luận văn là tài liệu tham khảo thiết thực đối với việc
áp dụng pháp luật trong quản lý nhà nước đối với công chứng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, được
kết cấu bởi 3 chương, 7 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
CÔNG CHỨNG VIỆT NAM
1.1.

KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG

1.1.1. Khái niệm công chứng
Yêu cầu chứng nhận, xác nhận, làm chứng đã có từ lâu trong lịch sử. Các
chế độ chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau thì tổ chức và hoạt động công
chứng cũng được quy định khác nhau.
Một số tác giả nghiên cứu về công chứng cho rằng có hai loại hình thực
hiện cơng chứng là tư chứng thư và công chứng thư'. Các tác giả đưa ra khái
niệm ''công'' và "tư", giữa cá nhân tự do làm chứng với các chức danh được Nhà

nước giao cho nhiệm vụ thực hiện hành vi công chứng hoặc Nhà nước trực tiếp
thực hiện các việc công chứng [1], [65, tr.95]. Vấn đề này được lý giải:
- Tư chứng thư: Trong nhân dân ta tồn tại một truyền thống là mỗi khi
có các giao dịch quan trọng đều phải nhờ những người có uy tín trong gia tộc,
trong thơn xóm đứng ra làm chứng để xác nhận. Khi có tranh chấp xảy ra, các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa vào hình thức chứng nhận trên để
chứng minh sự thật, lấy đó làm cơ sở để giải quyết vụ việc tranh chấp. Những
văn tự được lập ra do các cá nhân cơng dân thực hiện và có người thứ ba làm
chứng với tư cách cá nhân nên được gọi là "tư chứng thư" [40, tr.31]. Đây là
một dạng chứng nhận của bất kỳ một cá nhân nào, thực hiện một cách tự do,
làm chứng không phải là nghề chuyên môn mà họ được giao, Nhà nước
không những không cấm mà cịn có phần khuyến khích nhân dân tham gia
cung cấp chứng cứ khi có yêu cầu.
Hoạt động tư chứng thư là một hình thức hoạt động phong phú và đa
dạng, dù ở giai đoạn lịch sử hay điều kiện xã hội nào cũng phải cần đến như
một nhu cầu tất yếu cho xã hội.


9
- Công chứng thư (Nhà nước thực hiện hoặc ủy quyền): Đây là hoạt
động chứng nhận, chứng thực, xác nhận có tính chất cơng, phục vụ lợi ích
cơng, do Nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý, được gọi là công chứng.
Tổ chức công chứng và người thực hiện hành vi công chứng được Nhà nước
công nhận, cho phép hoạt động nhằm bảo đảm tính xác thực trong hoạt động
giao dịch và quan hệ khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức (thông qua công
chứng nhà nước hoặc công chứng tư).
Nhà nước ủy quyền thực hiện công chứng: Đây là thể chế công chứng
của người La Mã. Được gọi là thể chế công chứng phỏng theo luật La Mã hay
cịn gọi là hệ thống cơng chứng La tinh (UINL) mà điển hình là cơng chứng
của Cộng hịa Pháp. Theo thể chế này thì cơng chứng viên do Nhà nước bổ

nhiệm (Tổng thống hoặc Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Được Nhà nước ủy quyền
thực hiện chức năng trong khuôn khổ một nghề tự do. Đặc điểm nổi bật của
loại hình hoạt động này là cơng chứng viên người lập hợp đồng, là chuyên gia
pháp lý tinh thông về nghiệp vụ, hoạt động bằng nguồn tài chính của riêng
mình, tự quản và chịu trách nhiệm về mọi hành vi công chứng. công chứng
viên là người được Nhà nước ủy quyền đem lại tính đích thực cho hoạt động
của các bên và bảo đảm cho nó có hiệu lực thi hành [62, tr. 20].
Tương tự như loại hình này cịn có một số quốc gia thuộc hệ thống
pháp luật Ăng-lô Sắc-xông quan niệm cơng chứng là một nghề tự do hồn
tồn, Nhà nước không thừa nhận thể chế công chứng [1], [25].
Nhà nước thực hiện cơng chứng: Đây là loại hình công chứng nhà
nước, Nhà nước trực tiếp tổ chức và thực hiện công chứng chứ không ủy
quyền cho tổ chức hay cá nhân thực hiện. Là mơ hình cơng chứng được tổ
chức chặt chẽ hoạt động chuyên nghiệp bằng kinh phí của Nhà nước. Tổ chức
cơng chứng là cơ quan nhà nước nằm trong bộ máy hành pháp [67]. Theo quy
định tại Nghị định 45/HĐBT Ngày 27/2/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) ban hành về tổ chức và hoạt động cơng chứng nhà nước thì khái


10
niệm công chứng nhà nước được hiểu như sau: Công chứng nhà nước là việc
chứng nhận tính xác thực của hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân và cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phịng ngừa vi phạm pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được cơng
chứng có giá trị chứng cứ [29].
Sau 5 năm hoạt động, Nghị định 45/HĐBT (27/2/1991) đã được sửa
đổi bổ sung bằng Nghị định 31/CP (18/5/1996) của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động cơng chứng nhà nước. Tại Điều 1 của Nghị định này cũng đưa ra
khái niệm về công chứng: Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của

các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của cơng dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội... góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng
nhận hoặc ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng
cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu [12].
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức về công
chứng, ngày 08/12/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP
về công chứng, chứng thực. Khác với Nghị định 31/CP/1996 (18/5/1996),
Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) lần này xác định khái niệm công
chứng và khái niệm chứng thực: Cơng chứng là việc Phịng cơng chứng
chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác
được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội
khác (sau đây gọi là hợp đồng và giao dịch) và các việc khác theo quy định
của nghị định này [13].
Như vậy, cả ba nghị định về tổ chức và hoạt động công chứng đều xác
định công chứng ở nước ta là Nhà nước thực hiện công chứng, nhưng chỉ đến
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, khái niệm công chứng mới được tách bạch


11
khỏi khái niệm chứng thực. Khái niệm công chứng ở Nghị định này đã được
xác định khoa học hơn, tiệm cận gần hơn với quan niệm chung của thế giới về
công chứng. Tuy nhiên, khái niệm công chứng của Nghị định số 75/2000/NĐCP cịn có một số điểm chưa phù hợp, đó là: hoạt động cơng chứng và hoạt
động chứng thực vẫn được đồng nhất cả về chủ thể, đối tượng và ý nghĩa
pháp lý; Nghị định số 75/2000/NĐ-CP lại xác định chủ thể của hoạt động
cơng chứng là Phịng cơng chứng: “Cơng chứng là việc Phịng cơng chứng
chứng nhận...” đã làm “mờ” đi vai trị của cơng chứng viên trong hoạt động
công chứng.
Luật công chứng năm 2006 ra đời cùng với những quy định mới về

công chứng. Theo quy định tại Điều 2 của Luật công chứng định nghĩa công
chứng như sau: Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác
thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng,
giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng
hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu cơng chứng.
Định nghĩa nêu trên có thể hiểu: i) Công chứng là hành vi của Công
chứng viên (phân biệt với hành vi chứng thực của người đại điện của cơ quan
hành chính cơng quyền); ii) Tính xác thực của hợp đồng, giao dịch khác được
Công chứng viên xác nhận. Sở dĩ pháp luật coi văn bản cơng chứng có giá trị
chứng cứ là do tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó là
có tính xác thực đã được Cơng chứng viên xác nhận. Tính xác thực này được
Cơng chứng viên kiểm chứng và xác nhận ngay khi nó xảy ra trong thực tế,
trong số đó có những tình tiết, sự kiện chỉ xảy ra một lần, khơng để lại hình
dạng, dấu vết về sau; iii) Tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác được
Công chứng viên xác nhận.
Về bản chất, hoạt động cơng chứng là một hoạt động mang tính
cơng quyền của Nhà nước, công chứng là hoạt động được Nhà nước ủy
quyền để chứng nhận tính hợp pháp, tính xác thực của các hợp đồng, giao


12
dịch. Công chứng tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của cơng dân, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, ngăn
ngừa vi phạm pháp luật, phòng ngừa rủi ro, tranh chấp hoặc khi có rủi ro,
tranh chấp xảy ra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa vào hình thức
chứng nhận của công chứng để chứng minh sự thật, lấy đó làm cơ sở pháp
lý để giải quyết vụ việc tranh chấp. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội,
đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO và
trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN, tăng cường tham gia các khu vực
mậu dịch tự do trên thế giới thì nhu cầu công chứng càng trở nên bức thiết

đối với người dân và doanh nghiệp. Xét trên góc độ xây dựng Nhà nước
pháp quyền, xã hội công dân và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
thì cơng chứng vừa là cơng cụ hữu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, vừa là công cụ quản lý, vừa là công cụ hỗ trợ quan trọng cho các
hoạt động tư pháp và là một trong những điều kiện cơ bản góp phần đẩy
nhanh việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Văn bản cơng chứng
có giá trị chứng cứ. Công chứng viên là người được Nhà nước bổ nhiệm,
chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước pháp luật và trước các bên tham
gia giao dịch trong việc thực hiện việc công chứng các hợp đồng, giao dịch
và phải chịu trách nhiệm pháp lý suốt đời đối với những giao dịch, hợp
đồng mà mình chứng nhận [64].
Từ những vấn đề trên, có thể hiểu cơng chứng là việc cơng chứng viên
chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau
đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật
phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện u cầu cơng chứng. Văn
bản cơng chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ.
1.1.2. Khái niệm pháp luật công chứng
Pháp luật công chứng là một bộ phận của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, nghiên cứu pháp luật công chứng không tách khỏi cơ sở lý luận chung


13
về pháp luật và hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật, hệ thống pháp luật
XHCN nói riêng.
"Pháp luật XHCN là hệ thống quy phạm pháp luật cụ thể hoá (thể chế
hoá) đường lối chủ trương của Đảng thể hiện ý chí của nhân dân lao động; do
Nhà nước XHCN ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế
trên cơ sở giáo dục thuyết phục. Là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội
theo định hướng XHCN". Theo định nghĩa này có thể hiểu pháp luật vừa là cơ
sở pháp lý, khuôn mẫu, chuẩn mực, quy định các chủ thể của các quan hệ xã

hội làm theo; mặt khác pháp luật là ý chí của nhà nước, là công cụ của Nhà
nước để Nhà nước quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hệ thống pháp luật bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật có mối liên
hệ mật thiết và thống nhất với nhau; được sắp xếp theo một trình tự nhất định
và được biểu hiện ra bên ngồi bằng các hình thức nhất định như: hình thức
văn bản, tập quán pháp và tiền lệ pháp. Pháp luật nhà nước XHCN biểu hiện
chủ yếu bằng văn bản. Khoa học pháp lý đã phân chia các ngành luật, chế
định pháp luật trên cơ sở đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh đặc
trưng của nó.
Đối với cơng chứng, là hành vi của cơng chứng viên lập, chứng nhận
tính xác thực của các giao dịch nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể
tham gia giao dịch.
Với cách nhìn nhận như vậy thì các quan hệ phát sinh trong hoạt động
cơng chứng có những đặc điểm như: i) Đối với yêu cầu quản lý của nhà nước:
Hoạt động cơng chứng góp phần làm cho các giao dịch dân sự, kinh tế,
thương mại được thực hiện theo đúng khuôn khổ của pháp luật, góp phần tăng
cường pháp chế XHCN; ii) Đối với của các bên tham gia giao dịch: Công
chứng giúp cho các tổ chức, cá nhân thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế,
thương mại theo đúng pháp luật, nhờ đó giảm thiểu tranh chấp, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch; iii) Tổ


14
chức hành nghề công chứng: Khi thực hiện hoạt động cơng chứng, tổ chức
hành nghề cơng chứng được thu phí và thù lao công chứng theo qui định...
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật công chứng gồm các quan hệ như:
quan hệ giữa công chứng viên với tổ chức, cá nhân có u cầu cơng chứng …
Phương pháp điều chỉnh của pháp luật công chứng chủ yếu là phương
pháp thoả thuận, tự nguyện.
Nguồn của pháp luật công chứng rất rộng, vì các quy phạm pháp

luật thi hành án dân sự được quy định trong Hiến pháp, luật, bộ luật, pháp
lệnh, nghị định, quyết định... Hiện nay, Luật công chứng đã được ban
hành (Luật công chứng gồm 8 chương, 67 điều) nhằm khắc phục những
bất hợp lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cịn tồn tại trong hoạt động cơng
chứng và điều chỉnh các vấn đề chủ yếu như: Công chứng viên (từ Điều
13 đến Điều 22 ); Tổ chức hành nghề công chứng (từ Điều 23 đến Điều
34); Thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch (từ Điều 35 đến Điều 52);
Lưu trữ hồ sơ công chứng (từ Điều 53 đến Điều 55); Phí cơng chứng, thù
lao cơng chứng (Điều 56 và Điều 57); Xử lý vi phạm, khiếu nại và giải
quyết tranh chấp.
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật cơng chứng tuy cịn
những tồn tại nhất định, nhưng pháp luật cơng chứng đã thể chế hố được chủ
trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng chứng.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra khái niệm pháp luật công chứng như
sau: Pháp luật thi hành án công chứng là tổng thể các quy phạm pháp luật do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh các mối quan hệ phát
sinh trong q trình hoạt động cơng chứng liên quan đến việc xác định giá trị
pháp lý của văn bản công chứng; Công chứng viên; Tổ chức hành nghề công
chúng; Địa hạt cơng chứng; Con dấu của Phịng cơng chứng và của Văn
phịng cơng chứng; Chế độ tài chính của Phịng cơng chứng; Quản lý nhà
nước về công chứng và các quan hệ khác.


15
1.2. NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG

Xuất phát từ khái niệm, đặc điểm của pháp luật công chứng nêu trên,
địi hỏi nội dung pháp luật cơng chứng phải thể hiện sự điều chỉnh toàn diện
đối với các mối quan hệ phát sinh trong q trình hoạt động cơng chứng bao
gồm một chuỗi thủ tục rất phức tạp kể từ khi Cơng chứng viên tiếp nhận ý chí

của các bên giao kết hợp đồng như: xác định tư cách chủ thể của các bên,
kiểm tra năng lực hành vi dân sự của chủ thể, tính tự nguyện của các bên giao
kết hợp đồng, xác định nguồn gốc hợp pháp của đối tượng hợp đồng, kiểm tra
tính hợp pháp của nội dung của hợp đồng, thời gian, địa điểm giao kết hợp
đồng, ... Những tình tiết này là rất quan trọng, bảo đảm cho hợp đồng khơng
bị vơ hiệu và có ý nghĩa chứng cứ về sau nếu xảy ra tranh chấp giữa các bên
cũng như với bên thứ ba.
Có thể khái quát các nội dung của pháp luật công chứng như sau:
Thứ nhất, về giá trị pháp lý của văn bản công chứng: Khẳng định giá
trị pháp lý của văn bản cơng chứng có ý nghĩa quan trọng quyết định sự tồn
tại của thể chế công chứng trong đời sống xã hội. Theo đó, các bên hợp đồng,
giao dịch có được lợi ích gì khi qua thủ tục cơng chứng. Đây chính vấn đề
pháp luật cơng chứng cần quy định rõ. Về vấn đề này, theo quy định tại Điều
6 Luật Cơng chứng:
1. Văn bản cơng chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan;
trong trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên
kia có quyền u cầu Tồ án giải quyết theo qui định của pháp luật, trừ trường
hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.
2. Văn bản cơng chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện
trong văn bản cơng chứng khơng phải chứng minh, trừ trường hợp bị Toà án
tuyên bố là vô hiệu.
Như vậy, hợp đồng, giao dịch khác đã được cơng chứng sẽ có hai giá
trị pháp lý cơ bản sau đây: i) Giá trị thi hành của văn bản công chứng. Theo


16
đó, những gì đã thoả thuận trong văn bản cơng chứng thì có hiệu lực bắt buộc
thi hành đối với các bên hợp đồng, giao dịch đồng thời đối với cả bên thứ ba;
ii) Giá trị chứng cứ không phải chứng minh trước Toà án. Vấn đề này đã được
quy định tại Điều 80 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Cơ sở của quy

định này là xuất phát từ việc thừa nhận chức năng của Công chứng viên về
chứng nhận tính xác thực của các hợp động, giao dịch như đã nêu trên. Tính
xác thực do Cơng chứng viên chứng nhận biến các tình tiết, sự kiện có trong
hợp đồng, giao dịch trở thành chứng cứ hiển nhiên trước tịa. Tại điều 6 của
Luật Cơng chứng cũng khẳng định là giá trị chứng cứ của văn bản cơng
chứng sẽ bị bác bỏ khi bị Tịa án tun là vơ hiệu. Một người muốn u cầu
Tịa án tun bố một văn bản cơng chứng là vơ hiệu thì phải chứng minh được
văn bản cơng chứng đó được lập một cách trái pháp luật. Nếu không chứng
minh được điều đó thì văn bản cơng chứng sẽ được cơng nhận là chứng cứ
hiển nhiên trước Tòa án. Như vậy, vai trị phịng ngừa của Cơng chứng viên
thể hiện ở chỗ: ngay khi lập hợp đồng, các bên giao kết hợp đồng đã củng cố
chứng cứ về việc ký kết hợp đồng đó để đề phịng các tranh chấp về sau.
Thứ hai, các chế định về Công chứng viên: Công chứng viên là chủ
thể thực hiện hành vi công chứng chứ khơng phải là Phịng cơng chứng hay
Văn phịng cơng chứng. Cơng chứng viên có sự độc lập, trong tác nghiệp
chun môn, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong tác nghiệp chuyên
môn, công chứng viên không bị lệ thuộc vào cấp trên. Vì vậy, pháp luật
cơng chứng đã có các chế định cụ thể để điều chỉnh các quy định về Công
chứng viên: từ tiêu chuẩn đến việc bổ nhiệm và hành nghề cơng chứng. Ví
dụ Điều 7 Luật Cơng chứng quy định: Cơng chứng viên là người có đủ tiêu
chuẩn theo quy định của Luật này, được bổ nhiệm để hành nghề công
chứng. Với quy định của điều này thì Cơng chứng viên là chủ thể hành
nghề cơng chứng chứ khơng phải là Phịng cơng chứng hay Văn phịng
cơng chứng. Phịng Cơng chứng hay Văn phịng cơng chứng chỉ là tổ chức


17
hành nghề của Công chứng viên. Điều 22 cũng quy định: Cơng chứng viên có
quyền lựa chọn nơi để hành nghề cơng chứng. Việc đề cao vị trí của Cơng
chứng viên là cơ sở để xác định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm (kể cả trách

nhiệm vật chất) của Công chứng viên.
Ở Việt Nam, khi thực hiện Luật Cơng chứng thì sẽ có hai loại Cơng
chứng viên: Cơng chứng viên làm việc trong các Phịng cơng chứng nhà nước
thì họ là viên chức nhà nước, vì Phịng cơng chứng sẽ chuyển sang chế độ đơn
vị sự nghiệp chứ không phải là cơ quan hành chính như hiện nay; Cơng chúng
viên làm việc trong các Văn phịng cơng chứng thì họ khơng phải là công
chức hay viên chức nhà nước. Mặc dù có hai loại Cơng chứng viên làm việc ở
hai loại tổ chức hành nghề công chứng khác nhau nhưng về địa pháp lý của
họ trong hành nghề cơng chứng hồn tồn khơng khác nhau. Họ có quyền
cơng chứng các loại hợp đồng giao dịch như nhau và giá trị pháp lý của văn
bản công chứng do họ lập ra là như nhau.
Tiêu chuẩn Công chứng viên được nâng cao hơn so với quy định hiện
hành. Cụ thể là ngoài các tiêu chuẩn như phải có bằng cử nhân luật, có thời
gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên và phải có chứng chỉ đào tạo nghề
cơng chứng như hiện nay (điều 13 Luật Cơng chứng) thì người muốn được bổ
nhiệm Công chứng viên phải qua thời gian tập sự nghề cơng chứng ít nhất 12
tháng (điều 16 Luật Công chứng). Luật quy định rõ nội dung công việc mà
người tập sự nghề công chứng phải làm trong thời gian tập sự. Ngồi ra, thời
gian đào tạo nghề cơng chứng cũng được Luật quy định là 6 tháng (điều 14
Luật Công chứng).
Thứ ba, quy định về tổ chức hành nghề cơng chúng: Từng bước xã hội
hóa cơng chứng là chủ trương đúng đắn được đề cập trong nhiều văn kiện,
văn bản. Nghị quyết số 4/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đặt ra yêu cầu là hoàn thiện chế độ
pháp luật về cơng chứng, xây dựng mơ hình quản lý nhà nước về công chứng


18
theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp, có bước đi
phù hợp để từng bước xã hội hóa cơng việc này. Những quy định tại Chương

III của Luật Công chứng đã thể hiện rõ tinh thần đổi mới hình thức tổ chức
cơng chứng theo hướng xã hội hoá và dịch vụ hoá. Nếu như trước đây ở nước
ta chỉ có một hình thức tổ chức cơng chứng duy nhất là cơng chứng nhà nước
thì nay theo Luật Cơng chứng sẽ có hai hình thức tổ chức hành nghề cơng
chứng là Phịng cơng chứng do Nhà nước thành lập và Văn phịng cơng chứng
do các Cơng chứng viên đầu tư thành lập (điều 23 Luật Công chứng). Các
Phịng Cơng chứng đã được thành lập vẫn tiếp tục hoạt động. Đối với những
nơi chưa có Văn phịng Công chúng để đáp ứng nhu cầu công chứng của cá
nhân, tổ chức thì Nhà nước sẽ thành lập phịng cơng chứng. Các phịng cơng
chứng sẽ vận dụng theo chế độ tài chính của đơn vị sự nghiệp (Điều 24 Luật
Cơng chứng)
Văn phịng Cơng chứng là một hình thức mới của tổ chức hành nghề
công chứng do một công chứng viên hoặc các cơng chứng viên thành lập. Nếu
Văn phịng công chứng do một công chứng viên thành lập sẽ được tổ chức và
hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân; nếu Văn phịng cơng chứng
cho hai cơng chứng viên trở lên thành lập thì được tổ chức và hoạt động theo
loại hình cơng ty hợp danh. Việc thành lập Văn phịng Cơng chứng phải được
phép của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và phải đăng
ký hoạt động tại Sở Tư pháp (Điều 27 Luật Cơng chứng). Văn phịng cơng
chứng có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ
tài chính bằng nguồn thu đóng góp từ các cơng chứng viên, phí, thù lao cơng
chứng và các nguồn thu hợp pháp khác. Người đại diện theo pháp luật của
Văn phịng cơng chứng là Trưởng văn phịng. Trưởng văn phịng cơng chứng
phải là Cơng chứng viên. Chính phủ quy định con dấu của Văn phịng cơng
chứng. Tên gọi của Văn phịng cơng chứng do cơng chứng viên lựa chọn
nhưng phải bao gồm cụm từ "Văn phịng cơng chứng", khơng được dùng hoặc


19
gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề cơng chứng khác... Về lâu dài

hình thức văn phịng cơng chứng sẽ là hình thức phổ biến của tổ chức hành
nghề cơng chứng ở nước ta. Mơ hình phịng cơng chứng nhà nước trước mắt
là cần thiết, đặc biệt là ở các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa nhưng
trong tương lai khi nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển mạnh thì mơ
hình này sẽ thu hẹp dần. Đây cũng là kinh nghiệm chuyển đổi từ hệ thống
công chứng nhà nước sang công chứng "phi nhà nước hoá" của các nước xã
hội chủ nghĩa cũ như Nga, Ba Lan, ...
Hoạt động công chứng là một hoạt động có liên quan đến quyền lực
nhà nước. Cơng chứng là lấy quyền công ra mà làm chứng. Tuy nhiên, việc
nhân danh quyền công ở đây không nhất thiết phải là cơng chức nhà nước mới
có quyền đó. Tùy theo tình hình mà Nhà nước có thể giao quyền đó cho một
tổ chức, một cá nhân không phải của Nhà nước thực hiện. Do vậy, khơng nên
hiểu xã hội hóa công chứng là chuyển công chứng nhà nước thành công
chứng tư nhân. Hình thức Văn phịng cơng chứng quy định trong Luật Cơng
chứng khơng phải là Văn hịng cơng chứng tư nhân (trong Luật khơng quy
định Văn phịng cơng chứng tư nhân). Đã là cơng chứng thì được hiểu là Nhà
nước thừa nhận giá trị pháp lý của nó. Việc thành lập các Văn phịng cơng
chứng được thực hiện trên cơ sở quy hoạch của Nhà nước (Đề án xây dựng
quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến
năm 2020 mới được phê duyệt Ban hành kèm theo Quyết định số 250/QĐTTg ngày 10 tháng 02 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ).
Quan hệ giữa người u cầu cơng chứng với Phịng cơng chứng, Văn
phịng cơng chứng là quan hệ mang tính chất dịch vụ (có thu phí, thù lao, các
chi phí khác). Việc làm và thu nhập của Công chứng viên phụ thuộc vào số
lượng và chất lượng dịch vụ công chứng mà họ cung cấp cho người yêu cầu
công chứng. Nếu gây thiệt hại cho khách hàng thì họ phải bồi thường thiệt hại
thông qua tổ chức hành nghề công chứng.


20
Thứ tư, địa hạt công chứng: Trước đây, theo Nghị định 75/2000/NĐCP của Chính phủ về cơng chứng, chứng thực thì thẩm quyền phân chia địa

hạt cơng chứng hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản cho các phịng
cơng chứng thuộc về Chủ tịch UBND cấp tỉnh. "Địa hạt" là một hoặc một số
quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh. Luật Cơng chúng khơng cịn quy định về địa
hạt, Công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng có thẩm quyền cơng
chứng các hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở (điều 37
Luật công chứng). Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho người yêu cầu
công chứng, họ có thể đến bất kỳ tổ chức hành nghề cơng chứng nào trong
tỉnh để yêu cầu công chứng.
Thứ năm, con dấu và tài chính: Để đáp ứng yêu cầu tổ chức, hoạt động
của cơ quan, tổ chức thì con dấu và tài chính là nội dung khơng thể thiếu. Vì
vậy, đối với công chứng, pháp luật công chứng cần điều chỉnh cụ thể các nội
dung có liên quan đến con dấu, tài chính của Phịng cơng chứng và của Văn
phịng cơng chứng. Ví dụ, Điều 24 Luật Cơng chứng quy định: Chính phủ quy
định chế độ tài chính, con dấu của Phịng cơng chứng. Theo quy định tại điều
8 Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cơng chứng thì con dấu của
Phịng cơng chứng và Văn phịng cơng chứng khơng có hình quốc huy như
con dấu của phịng cơng chứng trước đây.
Hay về chế độ tài chính của Phịng cơng chứng: Theo quy định của
luật Cơng chứng, Phịng Cơng chứng là đơn vị sự nghiệp (điều 24 Luật công
chứng) chứ không phải cơ quan quản lý Nhà nước như trước đây.
Về vấn đề tài chính của phịng cơng chứng cơ bản là áp dụng các quy
định của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy
định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp cơng lập.


21
Thứ sáu, quản lý nhà nước về công chứng: Công chứng là việc cơng

chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch
khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá
nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Với nội dung, tầm quan trọng
như vậy của công chứng nên yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động
cơng chứng là cực kỳ quan trọng. Vì vậy, pháp luật về cơng chứng cần có
những quy định có liên quan đến quản lý nhà nước về công chứng như: vấn
đề hồn thiện thể chế về cơng chứng; vấn đề bổ nhiệm, quản lý đội ngũ công
chứng, hành nghề công chứng; vấn đề quy hoạch mạng lưới công chứng; vấn
đề thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động công chứng...
1.3. NHỮNG TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ HỒN THIỆN CỦA PHÁP
LUẬT CƠNG CHỨNG

Pháp luật nói chung và pháp luật cơng chứng nói riêng được đánh giá
là hồn chỉnh khi nó có “cơ cấu hồn chỉnh, thống nhất và ổn định”. Đối với
pháp luật về cơng chứng, tính hồn thiện được thể hiện qua các thuộc tính chủ
yếu sau đây:
Thứ nhất, tính tồn diện, hồn chỉnh: xã hội bao gồm nhiều lĩnh vực
khác nhau nhưng luôn tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất. Mỗi một lĩnh
vực có những tính chất khác nhau nên sự điều chỉnh pháp luật sẽ có mức độ
điều chỉnh khác nhau. Tính tồn diện của hệ thống pháp luật đòi hỏi sự bao
quát đối với tồn bộ đời sống xã hội, bảo đảm khơng một lĩnh vực quan trọng
nào của đời sống xã hội đứng ngồi sự điều chỉnh của pháp luật. Tính tồn
diện là tiêu chuẩn quan trọng thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp
luật về cơng chứng.
Tính tồn diện của hệ thống pháp luật, thể hiện sự đầy đủ các ngành
luật theo cơ cấu, nội dung lơ gíc khách quan và sự thống nhất trong hệ thống
văn bản pháp luật tương ứng. Cơ sở xác định cơ cấu ngành luật là tính đặc thù
của các quan hệ xã hội cần sự điều chỉnh pháp luật. Các quan hệ xã hội này



22
dù phức tạp và nhiều loại, bao giờ cũng nằm trong một chỉnh thể xã hội, đều
hình thành và phát triển theo quy luật sự vận động của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, tính tồn diện khơng chỉ địi hỏi sự đầy đủ của các ngành
luật mà còn đòi hỏi sự phát triển đồng bộ giữa các ngành luật, tức là các
ngành luật phải cùng nằm trên một mặt bằng phát triển của đời sống xã hội.
Điều này có nghĩa pháp luật về công chứng phải mở rộng hơn nữa phạm vi
điều chỉnh của mình để có thể bao quát được phần lớn các vấn đề về công
chứng (từ giá trị pháp lý của văn bản công chứng; Công chứng viên; Tổ chức
hành nghề công chúng; Địa hạt công chứng; Con dấu của Phịng cơng chứng
và của Văn phịng cơng chứng; Chế độ tài chính của Phịng cơng chứng; Quản
lý nhà nước về công chứng...) đều được dựa trên một hệ thống quy phạm
pháp luật đầy đủ, vững chắc.
Thứ hai, tính thống nhất, đồng bộ: hệ thống pháp luật bao gồm nhiều
bộ phận liên quan, có mối quan hệ thống nhất với nhau. Khi xem xét mức độ
hoàn thiện của một hệ thống pháp luật, phải tính đến việc giữa các bộ phận
của hệ thống pháp luật khơng có trùng lắp, chồng chéo. Một hệ thống pháp
luật không đồng bộ, giữa các bộ phận của nó chứa đựng mâu thuẫn, chồng
chéo, thì hệ thống ấy khơng thể tạo ra sự điều chỉnh pháp luật có hiệu quả.
Sự đồng bộ của hệ thống pháp luật trước hết được thể hiện bởi sự
đồng bộ giữa các ngành luật trong hệ thống. Để đạt được điều này, cần phải
xác định rõ ranh giới các ngành luật, tạo ra được hệ thống quy phạm căn bản
thống nhất.
Sự đồng bộ của hệ thống pháp luật còn được xác định bởi sự đồng bộ
ngay trong bản thân từng ngành luật và trong từng đạo luật cụ thể. Sự thống
nhất giữa các quy phạm và giữa các chế định pháp luật trong các quan hệ cấu
trúc của ngành luật tạo ra lơ gíc khách quan trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội thuộc đối tượng của ngành luật.
Đối với pháp luật về công chứng sự thống nhất, đồng bộ thể hiện:



23
+ Một là, sự thống nhất, đồng bộ ngay trong nội tại của pháp luật về
công chứng. Giữa các quy phạm pháp luật công chứng phải thống nhất với
nhau. Việc quy định các vấn đề có liên quan đến cơng chứng như giá trị pháp
lý của văn bản công chứng; Công chứng viên; Tổ chức hành nghề công
chúng; Địa hạt cơng chứng; Con dấu của Phịng cơng chứng và của Văn
phịng cơng chứng; Chế độ tài chính của Phịng cơng chứng; Quản lý nhà
nước về công chứng... dù trong một văn bản hay nhiều văn bản khác nhau vẫn
phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.
+ Hai là, sự thống nhất, đồng bộ giữa pháp luật về công chứng với bộ
phận khác của hệ thống pháp luật.
Thứ ba, tính phù hợp với thực tiễn và có sự ổn định nhất định: hệ
thống pháp luật được hình thành do nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội,
hướng sự phát triển theo một trật tự nhất định. Xã hội nào, pháp luật đó. Pháp
luật là một phạm trù chủ quan, phản ánh hiện thực khách quan. Sự phản ánh
này xuất phát từ địi hỏi của đời sống hiện thực nhưng khơng thể cao hơn
trình độ phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ. Pháp luật có phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan thì mới điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã
hội và mới có sức sống và tồn tại trong đời sống xã hội.
Đúng như C. Mác đã khẳng định: “Quyền lập pháp không tạo ra pháp
luật, nó chỉ phát hiện và nêu pháp luật”. Để hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về công chứng đảm bảo được tính khách quan, địi hỏi các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải bám sát đường lối, chủ trương của Đảng, chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội, thực tiễn xã hội, thực tiễn yêu cầu của quản lý nhà
nước trong từng thời kỳ, bám sát thực tiễn pháp lý trên cơ sở tổng kết tình
hình thi hành pháp luật về công chứng; đánh giá thực trạng văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành liên quan đến công chứng; khảo sát đánh giá thực trạng
quan hệ xã hội, thực trạng thái độ, tâm lý, phản ứng của dư luận xã hội, của
giai cấp, tầng lớp, cộng đồng dân cư đối với những vấn đề, những nội dung

chính, cơ bản về công chứng.


24
Tính khách quan trong hồn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về cơng chứng cịn đặt ra u cầu khắc phục, gạt bỏ tính cục bộ địa
phương, cục bộ ngành trong quá trình xây dựng pháp luật về cơng chứng.
Bên cạnh đó, tính khách quan trong hồn thiện hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về công chứng cịn địi hỏi việc ban hành pháp luật đó
phải phù hợp với trình độ nhận thức, hiểu biết của nhân dân, giải quyết
hài hoà mối quan hệ giữa nhu cầu hồn thiện hệ thống pháp luật về cơng
chứng theo những quy định nội tại của nó với nhu cầu điều chỉnh pháp
luật của cuộc sống. Do vậy, tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện
sự tương quan giữa trình độ của hệ thống pháp luật với trình độ phát triển
của kinh tế- xã hội. Không thể thấp hơn hoặc cao hơn trình độ phát triển
của kinh tế- xã hội, đồng thời cũng phải có tính dự báo (tính đón đầu).
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện nhiều mặt. Khi xem xét tiêu
chuẩn này, cần chú ý đến các mặt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp
luật với kinh tế, chính trị, đạo đức, tập quán, truyền thống và các quy
phạm xã hội khác.
Điều này có nghĩa là các quy định pháp luật về cơng chứng phải có
nội dung phù hợp với thực tiễn xã hội, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế
- xã hội, phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc. Đồng thời pháp luật
về công chứng phải có tính ổn định. Đây là u cầu cần thiết, bởi không thể
thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp luật. Ngạn
ngữ Anh có câu: “Pháp luật thay đổi thường xuyên thì tệ hơn là khơng có
pháp luật” (2).
Thứ tư, tính kỹ thuật lập pháp cao: kỹ thuật lập pháp là một vấn đề
rộng lớn, phức tạp, bao gồm tổng thể những phương pháp, phương tiện được
sử dụng trong quá trình soạn thảo và hệ thống hoá pháp luật, chứa dựng các

nguyên tắc, các quy tắc khoa học nhằm đảm bảo cho pháp luật điểu chỉnh có
hiệu quả các quan hệ xã hội. Hoạt động này địi hỏi phải có tính chun mơn


25
và trình độ pháp lý: ngơn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cơ động, lơ gíc,
chính xác và một nghĩa.
Để pháp luật về cơng chứng có chất lượng, rõ ràng là nó phải được
xây dựng, ban hành bởi một trình độ kỹ thuật lập pháp cao. Đồng thời, phải
đảm bảo theo đúng quy trình, trình tự xây dựng và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật theo quy định.
Thứ năm, có nội dung phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng về cơng chứng. Tiêu chí này địi hỏi, các văn bản về cơng chứng
phải là sự thể chế hóa đầy đủ các chủ trương chính sách của đảng, đưa các
chủ trương đó của đảng về cơng chứng đi vào hiện thực của cuộc sống.
Thứ sáu, phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tiêu chí này địi hỏi các văn bản pháp luật về cơng chứng phải thường xun
được rà sốt, bảo đảm những cam kết giữa Việt Nam với các nước và tổ chức
thế giới. Đây cũng là nguyên tắc của Hiến pháp.
Để đáp ứng được u cầu của tính hồn thiện nói trên, việc tiếp tục
hồn thiện pháp luật về công chứng ở nước ta hiện nay cần đi theo những
hướng cơ bản như: xác định nội dung điều chỉnh của pháp luật về cơng
chứng; mở rộng và củng có dân chủ trong q trình xây dựng pháp luật về
cơng chứng; đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và ngun tắc pháp chế
trong q trình hồn thiện pháp luật về cơng chứng.
Thứ bảy, tính minh bạch. Tính minh bạch của pháp luật cơng chứng là
một địi hỏi rất quan trọng. Cũng có quan điểm cho rằng tính minh bạch của
pháp luật thể hiện ở việc pháp luật được công bố, được phổ biến rộng rãi trên
các phương tiện thông tin đại chúng. Quan niệm này khơng sai, song chưa
tồn diện, chưa đầy đủ. Tính minh bạch của pháp luật cơng chứng cịn thể

hiện ở sự minh xác, sự minh định, tính hệ thống và nhất quán. Một hệ thống
pháp luật cồng kềnh, khó tiếp cận, khó hiểu, khó vận dụng và chứa đựng
những mâu thuẫn nội tại không thể được coi là minh bạch và không thể trở
thành nền tảng cho nhà nước pháp quyền.


×