Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thực hiện pháp luật môi trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.7 KB, 93 trang )




I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




NGUYN TH HOI PHNG





THC HIN PHP LUT MễI TRNG VIT
NAM
TRONG GIAI ON HIN NAY





luận văn thạc sĩ luật học








Hà nội - 2009





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG




THỰC HIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Minh Đoan





Hµ néi - 2009



MỤC LỤC


Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


Danh mục các biểu đồ


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT MÔI TRƯỜNG
5
1.1.
Môi trường và pháp luật môi trường
5
1.1.1.

Khái niệm môi trường, sự biến đổi môi trường và sự cần thiết
phải bảo vệ môi trường
5
1.1.2.
Pháp luật môi trường
9
1.2.
Tổng quan về thực hiện pháp luật môi trường
12
1.2.1.
Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật môi trường
12
1.2.2.
Các hình thức thực hiện pháp luật môi trường
15
1.2.3.
Chủ thể thực hiện pháp luật môi trường
18
1.3.
Một số yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến việc thực hiện
pháp luật môi trường

20
1.3.1.
Yếu tố pháp lý
20
1.3.2.
Yếu tố về kinh tế - xã hội
21
1.3.3.
Yếu tố tâm lý
22

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM
23
2.1.
Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên đất
23
2.1.1.
Nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ tài nguyên đất
23
2.1.2.
Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên đất
26
2.2.
Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên nước
30
2.2.1.
Nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước
30
2.2.2.

Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên nước
34
2.3.
Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí
40
2.3.1.
Nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí
40
2.3.2.
Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí
43
2.4.
Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng
46
2.4.1.
Nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng
46
2.4.2.
Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng
49
2.5.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng thực hiện pháp luật môi trường
53
2.5.1.
Sự phát triển thiếu bền vững, thiếu hài hòa của nền kinh tế
53
2.5.2.
Hệ thống pháp luật môi trường Việt Nam thiếu đồng bộ, còn
nhiều bất cập và thiếu tính khả thi
55

2.5.3.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường còn
yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu quản lý nhà nước
60
2.5.4.
Cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác bảo vệ môi trường nghèo
nàn, lạc hậu
62
2.5.5.
Ý thức pháp luật về bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá
nhân trong xã hội còn nhiều hạn chế
63

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
65
3.1.
Những quan điểm cơ bản
65
3.1.1.
Thực hiện pháp luật môi trường phải phù hợp với lý luận khoa
học về bảo vệ môi trường
65
3.1.2.
Thực hiện pháp luật môi trường phải phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
66
3.1.3.
Thực hiện pháp luật môi trường phải gắn với việc thực hiện

tổng thể các quy định có liên quan trong hệ thống pháp luật
Việt Nam
66
3.1.4.
Thực hiện pháp luật môi trường phải phù hợp với xu thế hội
nhập quốc tế
67
3.1.5.
Thực hiện pháp luật môi trường muốn đạt kết quả tốt phải
thực hiện đồng bộ, có hệ thống các giải pháp
67
3.2.
Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật môi trường ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay
68
3.2.1.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường
68
3.2.2.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về sử dụng và bảo vệ
môi trường
70
3.2.3.
Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật môi trường
74
3.2.4.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
77
3.2.5.

Một số giải pháp khác
78

KẾT LUẬN
81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
83




Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
2.1
Số ca mắc bệnh và tử vong của các bệnh liên quan đến ô
nhiễm nước từ năm 1990 đến năm 2003
34
2.2
Lượng chất thải từ một số hoạt động giao thông vận tải biển
39
2.3
Diễn biến diện tích rừng từ năm 1943 đến năm 2004
50






Danh môc c¸c biÓu ®å

Sè hiÖu
biÓu ®å
Tªn biÓu ®å
Trang
2.1
Sự gia tăng số lượng xe máy và nồng độ khí CO trong
không khí đường phố đô thị tại Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh
43


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền kinh tế phát triển ngày một
mạnh mẽ thì vấn đề bảo vệ môi trường càng trở nên quan trọng và cấp thiết.
Với ý nghĩa đó, thông qua các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, Việt Nam đã khẳng định quan điểm phát triển kinh tế phải đi đôi
với bảo vệ môi trường. Nói cách khác, Việt Nam đang từng bước thực hiện
các giải pháp nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, hàng loạt các vụ việc tiêu cực liên
quan đến thực hiện pháp luật về môi trường đã phát sinh, thu hút sự chú ý của
công luận, ví dụ như: Vụ Vedan xả nước thải chưa qua xử lý vào sông Thị
Vải; vụ Miwon xả nước thải chưa qua xử lý ra sông Hồng; công ty trách

nhiệm hữu hạn Văn Đạo (Hà Nội) đầu độc sông Đáy; một loạt nhà máy ở
Thanh Hóa đầu độc sông Chu; công ty Hào Dương có nhà máy thuộc da thuộc
loại lớn nhất Đông Nam Á từ 3 năm nay bức tử sông Đồng Điền; nhiều doanh
nghiệp chặt phá rừng trồng, rừng tự nhiên Những vụ việc nêu trên chỉ là
những ví dụ đơn lẻ trong vô số các hiện tượng vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường của các cá nhân, doanh nghiệp. Thực tế đó cho thấy, rõ ràng môi
trường cả nước đang bị xâm hại nghiêm trọng.
Vấn đề cần được đặt ra là vì sao một số cá nhân, doanh nghiệp cố tình
hủy hoại môi trường đến như vậy? Vì lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp đó
tìm mọi cách để giảm chi phí, cũng như do nhận thức còn hạn chế, ý thức
coi thường pháp luật nên việc thực hiện pháp luật môi trường đã không được
đảm bảo, mặc dù, Luật Bảo vệ môi trường đã có hiệu lực từ năm 2004 và bộ
máy quản lý tài nguyên môi trường từ Trung ương đến địa phương đã được
thiết lập.

2
Để trả lời câu hỏi nêu trên, trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ tập
trung phân tích, làm rõ việc thực hiện pháp luật môi trường ở Việt Nam cả từ
góc độ lý luận và góc độ thực tiễn. Qua đó, hi vọng sẽ giúp chúng ta có được
sự nhìn nhận, đánh giá khách quan về việc thực hiện pháp luật môi trường,
cũng như có giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật về
bảo vệ môi trường trong điều kiện hội nhập và phát triển kinh tế.
2. Iình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, đến thời điểm hiện nay, có một số công trình nghiên cứu về
thực hiện pháp luật như các sách chuyên khảo: Áp dụng pháp luật ở Việt Nam
hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của PGS.TS Nguyễn Thị Hồi;
Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam, của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan;
và một số bài viết về thực hiện pháp luật trên các Tạp chí, ví dụ như: Về thực
hiện pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam, của Lê Sơn Hải
đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật; Nâng cao hiệu lực thi hành pháp

luật bảo vệ môi trường, của PGS.TS. Phạm Hữu Nghị trong tài liệu hội thảo
khoa học "Môi trường trong mối quan hệ với sức khỏe và quyền con
người"… Đây là những công trình nghiên cứu, những bài viết có chất lượng,
với sự tham gia của các chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực khoa học pháp lý.
Song, do giác độ nghiên cứu được xác định là tập trung phân tích, đánh giá
toàn diện về thực hiện pháp luật nói chung hoặc chỉ chuyên sâu về vấn đề môi
trường nên các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên đã không tập trung
phân tích, đánh giá toàn diện, chi tiết về lý luận và thực tiễn thực hiện pháp
luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài "Thực hiện pháp luật môi trường ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay" nhằm đạt các mục đích chủ yếu sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật môi trường, cụ
thể như: Khái niệm thực hiện pháp luật môi trường; các đặc điểm của thực

3
hiện pháp luật môi trường; vai trò, tác dụng của việc thực hiện pháp luật môi
trường đối với việc bảo vệ môi trường sống trong sạch của nhân dân và sự
phát triển bền vững của đất nước trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phân tích, đánh giá khái quát các quy định pháp luật môi trường ở
nước ta và thực tiễn thực hiện pháp luật môi trường của người dân và doanh
nghiệp, các cơ quan nhà nước trong đó tập trung phân tích về những nội dung
chủ yếu sau đây: Đánh giá thực trạng việc thực hiện pháp luật môi trường của
người dân và doanh nghiệp, các cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện;
phân tích nguyên nhân dẫn đến kết quả thực hiện pháp luật môi trường.
- Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu nêu trên, đưa ra kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về môi trường ở nước ta.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do điều kiện lịch sử, xuất phát từ một nước nghèo, lại trải qua hàng
chục năm chiến tranh, không những nền kinh tế bị kiệt quệ, mà môi trường tự

nhiên cũng bị hủy hoại trầm trọng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã có rất
nhiều nỗ lực để khắc phục những hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát
triển kinh tế, song song với những nỗ lực về mặt bảo vệ môi trường. Mặc dù,
Việt Nam là một trong số các nước đã sớm đưa các mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ vào các chiến lược và chương trình quốc gia, nhưng thực tế cho thấy
mức độ ô nhiễm gia tăng, chất lượng môi trường và tình trạng tài nguyên
thiên nhiên bị suy thoái. Thực tế đó, đòi hỏi các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt
động thực tiễn phải tập trung nguồn lực để đánh giá và đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá
nhân trong xã hội. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tôi không thể
giải quyết được một cách trọn vẹn tất cả các vấn đề có liên quan đến thực hiện
pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Do đó, Đề tài chủ yếu tập trung
nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản nhất, các quy định pháp luật của Việt
Nam và thực trạng thực hiện pháp về bảo vệ môi trường ở Việt Nam, đồng

4
thời đề xuất một số giải pháp bước đầu tháo gỡ những bất cập, vướng mắc trong
quá trình tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm của
cộng đồng xã hội đối với việc bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế thị trường của Đảng
và Nhà nước ta được trình bày trong các văn kiện, nghị quyết và các văn bản
quy phạm pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, so sánh, tổng hợp
cũng sẽ được sử dụng ở mức độ phù hợp để hoàn thành mục tiêu của đề tài.
6. Những kết quả đạt đƣợc của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam tập trung nghiên
cứu sâu sắc, toàn diện về thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường của Việt
Nam. Đây chính là đóng góp lớn nhất của luận văn.

Những vấn đề cụ thể về lý luận, cách nhìn nhận, đánh giá luật thực
định và thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao ý thức, chất
lượng bảo vệ môi trường là những đóng góp có giá trị đối với công tác nghiên
cứu khoa học, công tác lập pháp và áp dụng pháp luật của luận văn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật môi trường.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật môi trường ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật môi
trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƢỜNG

1.1. MÔI TRƢỜNG VÀ PHÁP LUẬT MÔI TRƢỜNG
1.1.1. Khái niệm môi trƣờng, sự biến đổi môi trƣờng và sự cần
thiết phải bảo vệ môi trƣờng
* Khái niệm môi trường
Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội thì môi trường đã và đang
trở thành vấn đề nóng bỏng được tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt
quan tâm. Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, môi trường thế giới
nói chung và môi trường ở Việt Nam nói riêng đang bị suy thoái và ô nhiễm
nghiêm trọng, dẫn đến chất lượng các thành phần môi trường ngày càng trở
nên xấu hơn và thiên tai xảy ra ngày càng nhiều nên đã gây thiệt hại nghiêm
trọng về tính mạng, tài sản của người dân, đặc biệt trong nhiều trường hợp đã
vượt ra ngoài khả năng ngăn chặn và khắc phục của con người. Từ giác độ lý
luận, chúng ta cần "giải mã" được những vấn đề chủ yếu như: Môi trường là

gì? Môi trường bao gồm những thành tố nào? Sự biến đổi của môi trường ảnh
hưởng như thế nào tới cuộc sống của con người?
Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam có nhiều khái niệm khác nhau
về môi trường. Theo Từ điển bách khoa Larouse thì:
Môi trường là tất cả những gì bao quanh chúng ta hoặc sinh
vật. Nói cụ thể hơn, đó là các yếu tố tự nhiên và nhân tạo diễn ra
trong không gian cụ thể, nơi đó có thể có sự sống hoặc không có sự
sống. Các yếu tố đều chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của những định
luật vật lý, mang tính tổng quát hoặc chi tiết như luật hấp dẫn vũ

6
trụ, năng lượng phát xạ, bảo tồn vật chất. Trong đó, hiện tượng hóa
học và sinh học là những đặc thù của môi trường bao gồm tất cả
những nhân tố tác động qua lại trực tiếp hoặc gián tiếp với sinh vật
và quần xã sinh vật [46].
Đơn giản hơn, The American Heritage Dictionary định nghĩa "môi
trường là sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh
hưởng tới sự tồn tại, phát triển của một thực thể hữu cơ" [52, tr. 616].
Chương trình môi trường của UNESCO (1981) định nghĩa: Môi trường bao
gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra,
những cái hữu hình (đô thị, hồ chứa ) và những cái vô hình (tập quán, nghệ
thuật ) trong đó con người sống bằng lao động của mình, họ khai thác các
tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình.
Từ những định nghĩa nêu trên cho thấy, môi trường không chỉ là nơi
tồn tại, sinh trưởng và phát triển cho một thực thể sinh vật và con người, mà
còn là "khung cảnh của cuộc sống, của lao động và sự vui chơi giải trí của
con người" [54].
Ở Việt Nam, khái niệm về môi trường cũng được một số tác giả quan
tâm, cụ thể như: Theo Từ điển tiếng Việt thì "môi trường là toàn bộ nói chung
những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn

tại, phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy" [47, tr. 618].
Trong khi đó, theo PGS.TS Nguyễn Đức Khiển "một cách cô đọng nhất thì
môi trường là tổng hợp các điều kiện sống của con người" [26]
Khi phân loại môi trường, chúng ta có thể chia môi trường thành ba hệ
thống cơ bản là: môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường nhân
tạo, trong đó:
Môi trường tự nhiên, bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa
học, sinh học, tồn tài ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu

7
sự tác động của con người, như đất, nước, không khí, khí hậu, ánh sáng, động
thực vật, sông, biển
Môi trường xã hội, là tổng thể các quan hệ xã hội giữa người và
người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định
Môi trường nhân tạo, bao gồm những nhân tố do con người tạo ra và
chịu sự chi phối của con người. Ví dụ: nhà ở, công sở, khu công nghiệp, các
cảnh quan kiến trúc, các di tích lịch sử, văn hóa
Giữa ba loại môi trường trên luôn tồn tại một mối quan hệ đan xen và
tương tác chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển của xã hội. Vì vậy, bất
cứ một sự biến đổi không có lợi nào đối với chúng cũng sẽ gây ảnh hưởng, tác
hại xấu đến chất lượng cuộc sống của con người.
Trong khoa học pháp lý, môi trường là khái niệm được hiểu như là
mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường là những yếu tố,
hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh con người. Theo quy định tại Điều
1 Luật Bảo vệ Môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005, "môi trường bao gồm các yếu tố tự
nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống,
sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật" [41]. Theo cách
định nghĩa này, con người đã trở thành trung tâm trong mối quan hệ với tự
nhiên. Môi trường được tạo thành bởi vô số các yếu tố vật chất. Trong số đó

những yếu tố vật chất tự nhiên như đất, nước, không khí, ánh sáng, âm thanh,
các hệ thực vật, hệ động vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hơn cả. Những
yếu tố này được coi là thành phần cơ bản của môi trường. Chúng hình thành
và phát triển theo những quy luật tự nhiên vốn có và nằm ngoài khả năng
quyết định của con người. Con người chỉ có thể tác động tới chúng trong một
chừng mực nhất định. Bên cạnh những yếu tố vật chất tự nhiên, môi trường
còn bao gồm cả những yếu tố nhân tạo, do con người tạo ra nhằm tác động tới
các yếu tố thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của bản thân mình.

8
Từ những phân tích trên cho thấy, môi trường là một khái niệm rộng
và đa dạng, được sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Với mục đích tìm hiểu
việc thực hiện pháp luật môi trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
khái niệm môi trường được đề cập tới trong Luật bảo vệ môi trường là hoàn
toàn phù hợp với phạm vi và mục đích nghiên cứu, và cũng là khái niệm được
sử dụng trong luận văn này. Theo đó, môi trường sẽ được cấu thành lên nó
bởi một loạt các thành tố. Giữa các thành tố của môi trường có mối liên hệ
tương hỗ lẫn nhau, một thành tố bị ô nhiễm sẽ ảnh hưởng xấu đến các thành
tố khác của môi trường.
* Sự biến đổi của môi trường và sự cần thiết phải bảo vệ môi trường
Trong những năm vừa qua, sự phát triển kinh tế - xã hội và gia tăng
dân số trên phạm vi toàn cầu đang có những tác động lớn đến môi trường.
Hoạt động của loài người đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên trên
trái đất, làm chất lượng môi trường sống bị giảm sút nghiêm trọng. Trên phạm
vi toàn cầu, sự thay đổi theo chiều hướng xấu của môi trường diễn ra trên
nhiều yếu tố với những cấp độ khác nhau, đặc biệt là những yếu tố mang tính
tự nhiên như đất, nước, không khí, hệ thực vật, hệ động vật Có thể kể đến
một số biểu hiện nghiêm trọng như: Tầng ôzôn bị suy giảm tạo ra những biến
đổi xấu của môi trường trên trái đất; một loạt những thảm họa thiên nhiên liên
tiếp xảy ra trong cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI (sóng thần Tsunami ở

Đông Nam Á, núi lửa phun trào ở lòng đại dương, động đất ở Nhật Bản ); sự
suy giảm của nhiều loại thực vật, sự diệt vong của nhiều loại động vật (ví dụ
như sự sụt giảm nghiêm trọng về số lượng của đàn voi ở châu Phi, loài tê giác
ở Việt Nam hay loài hổ ở Ấn Độ); hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu đang
trở thành vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, do vậy, tình trạng môi
trường cũng có những nét chung của môi trường thế giới, bên cạnh những nét
riêng do hoàn cảnh lịch sử và sự phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Thực

9
tế cho thấy, có nhiều yếu tố môi trường Việt Nam hiện xấu hơn ở nhiều nước
trên thế giới, ví dụ như: Môi trường nước ta hiện đang bị ô nhiễm và suy thoái
nghiêm trọng; đất đai bị xói mòn và thoái hóa, nhiều nơi diễn ra hiện tượng sa
mạc hóa; đa dạng sinh học trên đất liền và dưới biển đều bị suy giảm, môi
trường vùng ven biển và các lưu vực sông đang có dấu hiệu ô nhiễm ngày
càng gia tăng, nguồn nước mặt và nước ngầm đang ngày càng bị ô nhiễm và
cạn kiệt. Nhiều đô thị, khu công nghiệp, làng nghề bị ô nhiễm nặng do nước
thải, khí thải, chất thải rắn; tình trạng nhập khẩu thiết bị, công nghệ lạc hậu,
phế liệu không đáp ứng tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường diễn ra khá phổ
biến.Việc khai thác có tính chất hủy diệt các nguồn lợi sinh vật trên cạn và
dưới nước chưa bị ngăn chặn, rằng tiếp tục bị tàn phá nặng nề. Diễn biến xấu
của môi trường nước ta nói trên đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức
khỏe của nhân dân, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước.
1.1.2. Pháp luật môi trƣờng
* Khái niệm pháp luật môi trường
Mặc dù, môi trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống
của con người và sự phát triển của mỗi quốc gia, nhưng pháp luật về môi
trường của Việt Nam được hình thành tương đối muộn. Một trong những
nguyên nhân quan trọng là do Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển,
sau những năm bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh thì mục tiêu trước mắt là ổn

định đất nước và phát triển kinh tế, thậm chí là phát triển bằng mọi giá bất
chấp việc phải hy sinh các nguồn tài nguyên, khai thác không tính đến khả
năng tái sinh. Khi đó, môi trường chưa phải là vấn đề cấp thiết được đặt ra.
Chỉ đến khi các nguồn tài nguyên đã dần cạn kiệt, sự mất cân bằng sinh thái
cùng quá trình thay đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra hàng ngày gây nên
những hậu quả nghiêm trọng thì vấn đề bảo vệ môi trường mới nổi lên như
một thách thức xã hội, và nhu cầu phải hình thành một hệ thống pháp luật môi
trường mới thực sự được quan tâm xác đáng.

10
Trong khoa học pháp lý, luật môi trường là lĩnh vực pháp luật chuyên
ngành bao gồm các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh
các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc
tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường trên cơ sở kết hợp các
phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi
trường sống của con người [45].
Với cách hiểu như trên, pháp luật về bảo vệ môi trường ở nước ta bao
gồm các quy định nhằm bảo vệ hiệu quả môi trường và các thành tố của nó.
Đồng thời, Nhà nước cũng ban hành các quy định giới hạn hành vi, xác định
nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong quá trình khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên. Bảo vệ môi trường được coi là sự nghiệp của toàn dân.
Do đó, có thể thấy pháp luật môi trường gồm rất nhiều các quy định điều
chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc sử dụng và bảo vệ môi trường, có
thể phân thành các nhóm như sau:
- Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình khai thác, sử dụng các thành tố môi trường;
- Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ hình thành trong
hoạt động quản lý nhà nước về môi trường;
- Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ về các biện pháp khắc
phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, phòng chống sự cố môi trường;

- Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ về giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực môi trường, xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường;
- Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ về hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực môi trường.
* Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường
Khi vấn đề môi trường đã trở thành sự thách thức đối với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội hay quá trình tiến hóa của nhân loại nói chung, cũng

11
là lúc người ta khẩn trương tìm kiếm các giải pháp nhằm giải quyết các vấn
đề môi trường bức bách được đặt ra. Môi trường có thể được bảo vệ bằng
nhiều biện pháp khác nhau, như biện pháp tổ chức - chính trị, biện pháp kinh
tế, biện pháp khoa học công nghệ, biện pháp giáo dục Khó có thể liệt kê hết
các biện pháp mà các quốc gia đã và đang thực hiện để công tác bảo vệ môi
trường có hiệu quả. Tuy nhiên, khi nói đến bảo vệ môi trường, chúng ta
không thể không kể đến biện pháp pháp lý với sự nhấn mạnh vai trò đặc biệt
quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường thông qua những khía
cạnh sau:
Thứ nhất, pháp luật với tư cách là công cụ điều tiết các hành vi của
công dân trong xã hội có tác dụng rất lớn trong việc định hướng quá trình khai
thác và sử dụng môi trường. Con người sử dụng và khai thác môi trường theo
những tiêu chuẩn nhất định thì sẽ hạn chế những tác hại, ngăn chặn được sự
suy thoái. Các tiêu chuẩn này thực chất là những tiêu chuẩn kỹ thuật nhưng
do được ban hành bằng các văn bản pháp lý nên chúng trở thành những tiêu
chuẩn pháp lý, buộc các tổ chức, cá nhân trong xã hội phải tuân thủ nghiêm
ngặt khi khai thác, sử dụng các yếu tố khác nhau của môi trường. Đây sẽ là cơ
sở pháp lý quan trọng cho việc xác định có hay không hành vi vi phạm pháp
luật môi trường.
Thứ hai, pháp luật quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính,
dân sự để buộc các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật môi trường phải

thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong quá trình khai thác, sử dụng
các thành tố của môi trường. Các chế tài này hoặc cách ly những kẻ vi phạm
nguy hiểm khỏi xã hội hoặc áp dụng những hậu quả vật chất, tinh thần đối với
họ, vừa có tác dụng ngăn chặn các hành vi vi phạm, vừa có tác dụng giáo dục
công dân tôn trọng pháp luật bảo vệ môi trường.
Thứ ba, bảo vệ môi trường là công việc khó khăn và phức tạp đòi hỏi
phải có hệ thống các tổ chức thích hợp với đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn. Pháp

12
luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tạo ra cơ chế hoạt động hiệu
quả cho các tổ chức bảo vệ môi trường thực hiện nhiệm vụ của mình.
Thứ tư, vai trò to lớn của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường là
việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc bảo vệ môi trường. Tranh chấp
về môi trường là tranh chấp liên quan tới việc khai thác, sử dụng các yếu tố của
môi trường. Tranh chấp môi trường có thể xảy ra giữa cá nhân với nhau, song cũng
có khi xảy ra giữa cá nhân với các doanh nghiệp hoặc các cơ quan nhà nước.
1.2. TỔNG QUAN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƢỜNG
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật môi trƣờng
Khi ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, Nhà nước mong muốn các văn bản đó phải được tôn trọng và
thực thi có hiệu quả trong thực tế. Đây cũng chính là yêu cầu để pháp luật
phát huy được giá trị đích thực của chính nó đối với đời sống xã hội con
người. Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã ban hành một hệ thống pháp
luật môi trường tương đối đầy đủ cả về nội dung và hình thức, quy định khá
bao quát về những vấn đề và các yếu tố khác nhau của môi trường và ngày
càng có sự tương đồng với hệ thống pháp luật môi trường quốc tế. Đây sẽ là
cơ sở tiền đề quan trọng để việc thực hiện pháp luật môi trường trên thực tế
đạt kết quả tốt. Vậy thực hiện pháp luật môi trường là gì? Nó bao gồm những
hình thức nào? Những yếu tố nào sẽ đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả
pháp luật môi trường trong cuộc sống?

* Khái niệm thực hiện pháp luật môi trường
Trước khi đi tìm hiểu khái niệm thực hiện pháp luật môi trường, chúng
ta cùng làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật nói chung. Theo lý luận chung
về nhà nước và pháp luật, thực hiện pháp luật là "một quá trình hoạt động có
mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [27, tr. 494].

13
Thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều
cách thức khác nhau. Đó có thể là hành vi của mỗi cá nhân, nhưng cũng có
thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức
kinh tế Dưới góc độ pháp lý, thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành
vi đó không trái mà phù hợp với những quy định của pháp luật và có lợi cho
xã hội, cho Nhà nước, cho công dân. Hành vi hợp pháp này có thể được chủ
thể thực hiện trên cơ sở tự nhận thức là cần thiết phải xử sự theo đúng quy
định của pháp luật; Cũng có thể chúng được thực hiện do chủ thể bị ảnh
hưởng của những người xung quanh mà hành động; Hoặc có thể có những
hành vi hợp pháp được thực hiện là kết quả của việc áp dụng những biện pháp
cưỡng chế nhà nước hoặc do sợ bị áp dụng những biện pháp đó.
Pháp luật môi trường là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt
Nam. Qua việc tìm hiểu khái niệm và các đặc điểm của việc thực hiện pháp
luật như trên, chúng ta có thể rút ra được khái niệm thực hiện pháp luật môi
trường như sau: Thực hiện pháp luật môi trường là một quá trình hoạt động
có mục đích của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội và mọi
công dân nhằm đưa các quy phạm pháp luật môi trường trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp.
* Đặc điểm thực hiện pháp luật môi trường
Để có được khái niệm chính xác, cũng như để hiểu rõ hơn bản chất
của thực hiện pháp luật môi trường, tác giả phân tích một số đặc điểm chủ yếu
của thực hiện pháp luật môi trường như sau:

- Thực hiện pháp luật môi trường là một quá trình hoạt động có mục đích.
Thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật môi trường nói
riêng luôn là hoạt động có mục đích của các chủ thể. Khi tiến hành các hành
vi trên thực tế, các chủ thể pháp luật luôn mong muốn đạt được một kết quả
cụ thể, nhất định. Kết quả này là điều mà các chủ thể đặt ra trước khi thực

14
hiện hành vi. Trong nhận thức, các chủ thể mong muốn đạt được khi thực
hiện pháp luật môi trường. Mục đích đó có thể là mục đích lâu dài, mục đích
trước mắt, mục đích chung cho toàn bộ quá trình hoặc được xác định theo
từng nội dung cụ thể. Chẳng hạn, đối với chủ thể thực hiện pháp luật môi
trường là một chủ đầu tư, trong quá trình triển khai thực hiện một dự án phải
lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, trình cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt. Hoạt động tuân thủ pháp luật môi trường này của chủ dự án
nhằm mục đích là được phép tiếp tục triển khai dự án trên thực tế.
- Chủ thể thực hiện pháp luật môi trường là các cơ quan nhà nước,
các tổ chức và cá nhân trong xã hội.
Cũng như các lĩnh vực pháp luật khác, thực hiện pháp luật môi trường
phải thông qua hành vi của một chủ thể nhất định. Tùy vào từng quan hệ cụ thể
của pháp luật về môi trường, mà chủ thể đó có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức chính trị… hoặc bất kỳ cá nhân nào trong xã hội. Do đặc thù của
môi trường là liên quan trực tiếp và thường xuyên đến mọi tổ chức, cá nhân
trong xã hội nên chủ thể thực hiện pháp luật môi trường có phạm vi rộng lớn về
số lượng, cụ thể như: Nếu trong quan hệ xử lý vi phạm hành chính thì chủ thể là
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thực hiện thông qua hành vi của cán bộ,
công chức được giao thẩm quyền xử phạt), nhưng nếu trong quan hệ pháp luật
về ngăn ngừa rác thải sinh hoạt thì chủ thể thực hiện pháp luật có thể là bất kỳ
tổ chức, cá nhân nào trong xã hội… Do tính đa dạng về chủ thể thực hiện pháp
luật về môi trường nên để nâng cao ý thức thực hiện pháp luật về môi trường,
chúng ta cần căn cứ vào từng chủ thể để lựa chọn giải pháp, cách thức phù hợp.

- Thực hiện pháp luật môi trường là nhằm hiện thực hóa các quy
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Các quy định của pháp luật môi trường muốn phát huy được hiệu lực,
hiệu quả trên thực tế đòi hỏi phải có hành vi thực hiện pháp luật môi trường

15
của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Thông qua hành vi của mình, có thể
bằng hành động hoặc không hành động, các chủ thể pháp luật đã đưa pháp
luật môi trường vào đời sống. Ví dụ: Pháp luật môi trường nghiêm cấm hành
vi xâm phạm đến tính đa dạng sinh học nên bằng hành vi của mình, các chủ
thể đã giúp cho các loại, các yếu tố môi trường được bảo vệ.
1.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật môi trƣờng
Hành vi thực tế hợp pháp nêu trên của các cá nhân, tổ chức, cơ quan
nhà nước rất đa dạng, được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong
các tài liệu khoa học pháp lý hiện nay thường chia thành bốn hình thức thực
hiện pháp luật là tuân thủ pháp luật (hay tuân theo pháp luật), thi hành pháp
luật (hay chấp hành pháp luật), sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các
chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
cấm. Những quy phạm pháp luật cấm đoán sẽ được thực hiện ở hình thức này
và là hình thức thực hiện pháp luật bằng không hành động.
- Thi hành pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích
cực. Các quy phạm pháp luật bắt buộc sẽ được thực hiện ở hình thức này và
được thực hiện bằng hành động. Các chủ thể khi ở trong điều kiện mà pháp
luật quy định thì phải làm những việc mà Nhà nước yêu cầu, họ không thể
viện lý do để từ chối.
- Sử dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền, tự do pháp lý của mình trong giới hạn cho
phép của pháp luật. Nhà nước tạo khả năng cho các chủ thể có thể được

hưởng những quyền nào đó và chủ thể thực hiện các quyền này hay không là
tùy thuộc vào mong muốn, ý chí của chủ thể. Những quy phạm pháp luật quy
định về các quyền và tự do pháp lý của các tổ chức, cá nhân được thực hiện ở

16
hình thức này. Tuy nhiên, Nhà nước cũng yêu cầu các chủ thể pháp luật phải
thực hiện các quyền pháp lý một cách đúng đắn, chỉ được tiến hành những
hành vi nhất định trong phạm vi, giới hạn cho phép của pháp luật.
- Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà
nước thông qua các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền tổ chức cho
các chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ
vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay
đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Đây là hình thức
thực hiện pháp luật mang tính tổng hợp, trong đó có cả ba hình thức tuân thủ
pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật. Hoạt động áp dụng pháp
luật đòi hỏi phải được áp dụng theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung mà pháp
luật đã quy định nhằm bảo đảm tính hợp lý, hợp tình và chính xác. Ở đây, yếu
tố đóng vai trò quyết định tới hiệu quả của việc áp dụng pháp luật chính là
mức độ hoàn thiện của pháp luật, sự vững mạnh của bộ máy nhà nước, lương
tâm và trình độ pháp lý của những cá nhân có thẩm quyền. Với ý nghĩa đó, áp
dụng pháp luật vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, đồng thời cũng là
một biện pháp đảm bảo cho pháp luật được thực hiện trên thực tế.
Giữa các hình thức thực hiện pháp luật có mối liên hệ logic phụ thuộc
vào sự nhận thức và hành động của các chủ thể. Vì thế, bản thân các chủ thể
(cá nhân, cơ quan, tổ chức) thực hiện pháp luật có vai trò rất quan trọng. Ví
dụ, nếu cá nhân, tổ chức không tự giác thi hành hay tuân thủ pháp luật (tức là
không tự giác thực hiện các nghĩa vụ, không kiềm chế làm những việc bị
cấm) thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ phải áp dụng các biện pháp can
thiệp như: xử lý vi phạm buộc các cá nhân, tổ chức đó phải thực hiện đúng
các quy định của pháp luật, hoặc phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì

những vi phạm đó. Tuy nhiên, việc phân chia thực hiện pháp luật thành bốn
hình thức như trên chỉ có tính chất tương đối, phục vụ cho mục đích nghiên
cứu nên chủ yếu có ý nghĩa về mặt lý luận, còn trong thực tế, các thuật ngữ

17
tuân theo, thi hành, sử dụng hay áp dụng pháp luật nhiều khi được dùng đồng
nghĩa với nhau, đều biểu thị một nội dung là pháp luật phải được tôn trọng và
thực hiện nghiêm chỉnh bởi tất cả các chủ thể trong xã hội. Hơn nữa, nếu chỉ
hiểu khái niệm "thực hiện pháp luật" như trong khoa học pháp lý nêu trên thì
chưa thể phản ánh hết nội dung, thực chất của vấn đề. Trên thực tế, hình thức
thực hiện pháp luật phong phú, đa dạng và được mở rộng hơn rất nhiều.
Ngoài việc được hiểu bao gồm bốn hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành
pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật, thì trên hết, thực hiện pháp
luật phải được xem là một trong những hình thức để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước. Để tổ chức, quản lý xã hội, nhà nước xây dựng và
ban hành pháp luật. Ban hành các quy phạm pháp luật, nhà nước mong muốn
sử dụng chúng để điều điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ lợi ích và mục
đích của nhà nước. Điều đó chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật
do nhà nước ban hành được các tổ chức, cá nhân thực hiện một cách tích cực,
chính xác và đầy đủ. Như vậy, thực hiện pháp luật với vai trò là một trong
những hình thức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước phải bao gồm
đầy đủ các hoạt động, từ ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật; tổ chức thực thi pháp luật; đến việc giám sát,
kiểm tra việc thực hiện pháp luật; xử lý các vi phạm pháp luật; sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện các quy phạm khi chúng không còn phù hợp
Thực hiện pháp luật môi trường ngoài các hình thức nêu trên, về bản
chất phải được xem là hoạt động thường xuyên thể hiện chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước trong công tác bảo vệ môi trường. Các hoạt động này bao gồm:
ban hành văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; tuyên truyền,
phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật bảo vệ môi trường; tổ chức thực thi

pháp luật bảo vệ môi trường; kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật bảo
vệ môi trường; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy phạm pháp luật bảo vệ
môi trường do chính mình ban hành và kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn

18
thiện các quy phạm pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường do các cơ quan
nhà nước cấp trên ban hành; tổng kết, đánh giá việc thực hiện pháp luật bảo
vệ môi trường
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười trong Thư gửi cán bộ, nhân viên ngành
tư pháp nhân dịp 50 năm thành lập ngành đã nhấn mạnh:
Có một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ cũng mới chỉ là
có được một yếu tố cần của Nhà nước pháp quyền, nhưng chưa đủ.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, đòi hỏi
pháp luật phải được thi hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và
công bằng, theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật [30, tr. 1].
Hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ môi trường của nước ta cho đến
nay đã tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật môi trường trên
thực tế có hiệu quả hay không còn phụ thuộc rất lớn vào sự quản lý của các cơ
quan chức năng, vào ý thức tôn trọng và thực thi pháp luật môi trường một
cách nghiêm túc từ phía các doanh nghiệp và mỗi người dân.
1.2.3. Chủ thể thực hiện pháp luật môi trƣờng
Điều 29 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: "Cơ quan nhà nước, đơn vị
vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy
định của nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi
trường" [32, Điều 29]. Đây là quy định mang tính Hiến định, tạo cơ sở cho
việc xác định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của các chủ thể trong việc bảo
vệ môi trường.
Bảo vệ môi trường được xác định là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn

dân và toàn quân, là nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi cá nhân.
Chính vì vậy, mọi tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ

19
môi trường; thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường; phát hiện, tố cáo các
hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các tổ chức, cá nhân nước
ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đều phải tuân theo pháp luật của Việt
Nam về bảo vệ môi trường. Để đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ pháp lý
này, Điều 5 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã quy định một trong những
chính sách hàng đầu của nhà nước ta đối với công tác bảo vệ môi trường là:
"Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư,
hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường" [41].
Ngoài ra, trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường cũng được xác định rõ ràng, cụ thể như sau:
* Chính phủ là cơ quan có thẩm quyền chung thống nhất quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước [41, khoản 1 Điều 121].
* Ủy ban nhân dân các cấp có vai trò rất quan trọng trong việc quản
lý nhà nước về môi trường, có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về bảo
vệ môi trường tại địa phương theo các quy định của pháp luật. Nhiệm vụ,
quyền hạn cụ thể của Ủy ban nhân dân các cấp trong lĩnh vực này được quy
định chi tiết tại Điều 122, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.
* Bộ Tài nguyên và môi trường là cơ quan của Chính phủ, thực hiện
chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực: đất đai; tài nguyên nước; tài
nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng, thủy văn; đo đạc, bản
đồ; quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo; quản lý nhà nước các
dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ [11, Điều 1].
Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc
thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
* Ở địa phương, các Sở Tài nguyên và Môi trường cũng được thành
lập với tư cách là cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên

×