Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

đời sống văn hóa ở khu dân cư trên địa bàn thành phố tuyên quang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiêt của đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào
đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã xác định nền văn
hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xây dựng đời sống văn hoá được coi như bước đi ban đầu của sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hoá, là nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng mơi
trường văn hố lành mạnh. Việc xây dựng đời sống văn hóa nói riêng và xây
dựng mơi trường văn hố lành mạnh nói chung cũng chính là góp phần tạo ra
mơi trường chính trị - xã hội ổn định, an toàn và bền vững trên cơ sở đời sống
kinh tế được đảm bảo.
Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng đã nhất quán khẳng định vai trò và tầm
quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hóa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
5 Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã xác định nhiệm vụ xây
dựng mơi trường văn hóa:
Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập
thể, cơ quan, xí nghiệp, nơng trường, lâm trường, trường học, đơn
vị bộ đội…) các vùng dân cư (đơ thị, nơng thơn, miền núi…) đời
sống văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp
nhân dân…Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường
văn hóa, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công
cuộc xây dựng nếp sống văn minh…, nâng cao chất lượng hoạt
động của các thiết chế văn hóa cơ sở, đầu tư xây dựng một số cơng
trình văn hóa trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của
các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong
trào quần chúng hoạt động văn hóa, văn nghệ… [20, tr.59].



2
Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) tiếp tục khẳng định chủ
trương này. Trước đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V (1982) đã chỉ rõ:
Một nhiệm vụ quan trọng hiện thời là đưa văn hóa thâm nhập vào
cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, cơng trường, lâm trường,
mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan,
trường học, bênh viện, cửa hàng, mỗi xã, phường, ấp đều có đời
sống văn hóa [19].
Như vậy việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là bước đi ban đầu,
nhằm phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, thực hiện phát triển văn hóa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
hơn với phát triển kinh tế xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đặc biệt, việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở các
tỉnh miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng có ý nghĩa quan
trọng cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược cơ bản lâu dài trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bảo tồn và phát huy phát triển văn hóa
dân tộc thiểu số được xác định là một trong mười nhiệm vụ trọng tâm của sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) đã ghi rõ: Phát động phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa; huy động mọi lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên
xuống, từ trong Đảng, cơ quan Nhà nước, các đoàn thể ra ngồi xã hội tích cực
tham gia phong trào. Đây là cuộc vận động rộng lớn, mang tính xã hội sâu sắc,
nội dung phong phú, bao quát nhiều lĩnh vực, thực hiện lâu dài.
Tại hội nghị lần thứ hai, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(khóa IV) đã ra Nghị quyết mở rộng cơng cuộc vận động Tồn dân đoàn kết



3
xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư. Đây là cuộc vận động lớn của Mặt trận
trong thời kì đổi mới đất nước và đổi mới công tác Mặt trận. Cuộc vận động
này nhằm huy động các cấp, các ngành, các thành phần trong xã hội tham gia
vào việc phát huy vai trị của văn hóa với tính cách là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội,
trong đó vai trị nịng cốt là ngành văn hóa và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Cuộc vận động gồm 5 nội dung chủ yếu là: Đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển
kinh tế; Đoàn kết phát huy truyền thống tương thân, tương ái, có nhiều hoạt
động nhân đạo, tình nghĩa; Đồn kết phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương,
mọi người sống và làm việc theo pháp luật và quy ước cuộc sống; Đoàn kết
chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí và thực hiện tốt chương
trình chăm sóc sức khỏe ban đầu cho mọi người; Đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Nằm bên bờ sông Lô - con sông từng nổi danh với những chiến công oai
hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm - Thành phố Tuyên Quang tự hào là
mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa. Nơi đây là thủ phủ của tỉnh
Tuyên Quang qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong cách mạng
tháng Tám năm 1945 và trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
người dân Tuyên Quang tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, họ đã tự
nguyện phá đi ngôi nhà thân thương của mình để tiêu thổ kháng chiến, san
bằng thị xã để lập chiến luỹ kìm bước tiến quân thù khi chúng tấn công lên
căn cứ địa Việt Bắc. Lịch sử dân tộc cịn lưu giữ mãi những hình ảnh đẹp
về Thủ đơ Khu giải phóng trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, Thủ đơ
kháng chiến, nơi có những sắc áo chàm hồn hậu, một lòng theo Đảng, theo
Bác Hồ làm cách mạng.
Trong sự nghiệp đổi mới, Thành phố Tuyên Quang là trung tâm về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Tuyên Quang. Hiện nay, Thành phố
Tuyên Quang có 13 xã, phường, 295 khu dân cư tương ứng với 295 thôn,



4
xóm, tổ nhân dân); những năm qua, Thành phố Tuyên Quang đã và đang có
những bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó có việc
xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư.
Để có sự đánh giá sâu sắc hơn về thực trạng xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư của Thành phố Tuyên Quang trong thời gian qua và đề
xuất những giải pháp tiếp tục triển khai thực hiện tốt hơn việc xây dựng đời
sống văn hóa ở các khu dân cư trên địa bàn Thành phố Tuyên Quang trong
những năm tới, tôi chọn đề tài “Đời sống văn hóa ở khu dân cư trên địa
bàn Thành phố Tuyên Quang hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
Văn hóa học tại Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Tơi mong muốn sẽ góp phần nhỏ bé của
mình vào việc xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư nói riêng, vào
sự nghiệp phát triển văn hóa ở Thành phố Tuyên Quang nói chung trong
giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một trong những vấn đề được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm chú ý.
Trực tiếp bàn về vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở có các cơng
trình sau: GS.TS Hồng Vinh trong cơng trình “Mấy vấn đề lý luận và thực
tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta hiện nay” [62, tr.106] đã nhấn mạnh vai trò
của việc tổ chức xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tốt chính là bước đi ban
đầu nhằm xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đưa văn
hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân.
PGS.TS Phạm Duy Đức và các tác giả khác trong cơng trình “Hoạt động
giải trí ở đơ thị Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” [26,
tr.104] đã trình bày thực trạng và đề xuất những quan điểm, giải pháp đối với
hoạt động văn hóa vui chơi giải trí ở các đơ thị trong thời kì đẩy mạnh cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.


5
Cục văn hóa thơng tin cơ sở (Bộ Văn hóa - Thông tin) đã tổ chức biên
soạn và phát hành cuốn “Sổ tay cơng tác Văn hóa Thơng tin” [8, tr.106].
Đây là cuốn sách hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ văn hóa - xã hội của các
xã, phường. Vì vậy các soạn giả đã chọn lọc, đề cập những kiến thức và
phương pháp cơ bản nhằm trang bị cho đội ngũ những người làm cơng tác
văn hóa - thơng tin ở cơ sở - lực lượng tác chiến bám trụ tại chỗ ở các làng,
bản, thơn, xóm, tổ dân phố, khu dân cư….có tài liệu để học tập, rút kinh
nghiệm và áp dụng vào nhiệm vụ quản lý, tổ chức các hoạt động văn hóa,
thơng tin tại địa phương.
Hội đồng thi đua khen thưởng Bộ Văn hóa - Thơng tin xuất bản cuốn
“Gương điển hình về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở” [11, tr.106]. Cuốn
sách nêu lên một số gương điển hình tiên tiến xuất sắc về xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở, biểu dương những tập thể tiêu biểu… Khích lệ những cá
nhân khác cùng nhau thi đua lập thành tích.
Bên cạnh đó, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở cịn được nhiều
nhà nghiên cứu đề cập đến như là một trong các nội dung quan trọng của việc
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đáng chú ý là kết quả
nghiên cứu của Chương trình KX. 05 với hàng loạt đề tài nghiên cứu liên
quan đến vấn đề xây dựng đời sống văn hóa như: Đề tài KX.05 - 02: Đời sống
văn hóa và xu hướng phát triển văn hóa vùng nơng thơn đồng bằng sông
Hồng và sông Cửu Long trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa do
TSKH. Phan Hồng Giang làm chủ nhiệm. Đề tài KX.05 - 03: Đời sống văn
hóa và xu hướng phát triển văn hóa vùng đơ thị và khu cơng nghiệp trong thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa do GS.TSKH. Đình Quang làm chủ nhiệm.
Đề tài KX.05 - 04: Đời sống văn hóa và xu hướng phát triển văn hóa của một
số dân tộc vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa do GS.TS. Trần Văn Bính làm chủ nhiệm. Việc khảo
sát, phân tích và đánh giá đời sống văn hóa của các vùng, các miền, của đồng


6
bào các dân tộc thiểu số ở các khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ
góp phần làm rõ thực trạng văn hóa ở nước ta và những vấn đề cấp thiết cần
giải quyết cụ thể hơn, thiết thực hơn. Tiêu biểu cho kết quả nghiên cứu của
Chương trình KX.05 đã cơng bố là cuốn Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu
số trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa do GS,TS. Trần Văn Bính
chủ biên và “Đời sống văn hóa đơ thị và khu cơng nghiệp Việt Nam” do GS,
TSKH. Đình Quang chủ biên.
Một số đề tài luận văn tốt nghiệp hệ thạc sĩ tại Viện Văn hóa và Phát
triển Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh cũng đã đề cập
đến vấn đề xây dựng và phát triển đời sống văn hóa ở cơ sở ở những góc độ
và địa bàn khác nhau.
Những cơng trình nêu trên là những chỉ dẫn, những tài liệu tham khảo có
giá trị đối với việc nghiên cứu vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu trực tiếp về đời
sống văn hóa ở khu dân cư trên địa bàn Thành phố Tuyên Quang với các mặt
mạnh và yếu của nó, vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Đời sống văn hóa ở khu
dân cư trên địa bàn Thành phố Tuyên Quang hiện nay” là một đề tài mới,
không trùng lặp với cơng trình nào đã từng được cơng bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về việc xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư, luận văn đi sâu khảo sát đánh giá thực trạng việc xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư trên địa bàn Thành phố Tuyên Quang,
từ đó đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của việc xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư trên địa bàn Thành phố Tuyên Quang

trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ:


7
- Làm rõ những vẫn đề lý luận cơ bản về đời sống văn hóa, về khu dân cư,
đời sống văn hóa ở khu dân cư và vai trị của việc xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Tuyên Quang.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng đời sống văn hóa tại các khu dân cư
trên địa bàn Thành phố Tuyên Quang trong những năm qua.
- Dự báo và đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
sâu rộng và nâng cao chất lượng đời sống văn hóa ở các khu dân cư của
Thành phố Tuyên Quang trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tổng hợp, phân
tích, thống kê, so sánh kết hợp với phương pháp khảo sát điền dã, điều tra xã
hội học để giải quyết các vấn đề và nhiệm vụ do đề tài đặt ra.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Văn hóa là khái niệm rất rộng, đa dạng và phong phú. Vì vậy để việc
nghiên cứu được tập trung và đạt kết quả tốt, luận văn xin được giới hạn việc
nghiên cứu ở lĩnh vực xây dựng đời sống văn hóa tinh thần gắn liền với hoạt
động kinh tế - xã hội của người dân trong các khu dân cư trên địa bàn Thành
phố Tuyên Quang những năm gần đây.
- Phạm vi nghiên cứu: Là các hoạt động văn hóa đã và đang diễn ra tại
các khu dân cư thuộc Thành phố Tuyên Quang. Thời gian khảo sát, đánh giá
từ năm 2001 đến 2010.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn đã góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về văn hóa
và đưa ra một cái nhìn tổng quan về các khu dân cư trên địa bàn Thành phố

Tuyên Quang.
- Luận văn đã khảo sát để đánh giá được thực trạng đời sống văn hóa của
người dân ở khu dân cư trên địa bàn Thành phố Tuyên Quang và đưa ra
những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư tại Thành phố Tuyên Quang.


8
- Luận văn được áp dụng tại địa phương sẽ góp phần vào xây dựng và phát
triển đời sống văn hóa của người dân Thành phố Tuyên Quang ngày càng tốt hơn.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu kham khảo và
phụ lục, luận văn được triển khai thành 3 chương, 8 tiết.


9
Chương 1
VAI TRÒ CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
Ở KHU DÂN CƯ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG HIỆN NAY
1.1. QUAN NIỆM VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở KHU DÂN CƯ

1.1.1. Quan niệm về đời sống văn hóa
Đời sống văn hóa với tư cách là một thuật ngữ khoa học được ra đời vào
thế kỷ XX. Cũng giống như nhiều khái niệm khoa học khác, có rất nhiều cách
hiểu khác nhau về “đời sống văn hóa”.
Đảng ta đã nhất quán khẳng định vai trò và tầm quan trọng của việc xây
dựng đời sống văn hóa. Quan điểm này được xác định trong trong các văn
kiện của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, dấu mốc quan trọng là thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị

lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), Kết luận Hội nghị
lần thứ mười Ban Chấp hành Trung Đảng (khóa IX), các Văn kiện Đại hội lần
thứ IX, X, XI của Đảng. Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) nêu rõ:
Chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Thường xuyên nâng
cao trình độ phổ cập văn hóa đáp ứng nhu cầu văn hóa, khuyến khích các
nghệ sĩ sáng tạo được nhiều cơng trình văn hóa - nghệ thuật tiêu biểu có giá
trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp cách mạng của
dân tộc và công cuộc đổi mới.
Như vậy việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là bước đi ban đầu,
nhằm phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, thực hiện phát triển văn hóa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
hơn với phát triển kinh tế xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đặc biệt, việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở các


10
tỉnh miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng có ý nghĩa quan
trọng cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược cơ bản lâu dài trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bảo tồn và phát huy phát triển văn hóa
dân tộc thiểu số được xác định là một trong mười nhiệm vụ trọng tâm của sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Từ hơn nửa thế kỉ trước, trong cuốn sách mang tên “Đời sống mới”
[44, tr.119-142] (tháng 3/1947), Bác Hồ đã chỉ ra rằng mục đích của đời
sống mới là:
“Làm thế nào cho đời sống của nhân dân ta, vật chất được đầy đủ hơn,
tinh thần được vui mạnh hơn”. Mới tức là khác với cũ, với lạc hậu. Đời sống
mới “Khơng phải cao xa gì, cũng khơng phải khó khăn gì”,“nó khơng bảo ai
phải hi sinh chút gì”. Đời sống mới xuất phát từ chỗ nước ta bây giờ “Người

nghèo thì khổ nhiều, người no ấm thì ít”, vì vậy đối với đời sống mới “việc
đầu hết” xuất phát từ ăn, mặc, ở, đi lại. Nó “chỉ sửa đổi những việc rất cần
thiết, rất phổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn,
cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”. Người viết thật giản dị về
những gì làm nên đời sống mới: “Đời sống mới khơng phải những gì cũ cũng
bỏ hết, khơng phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Thí dụ:
ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà khơng xấu, nhưng
phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: đơm cúng, cưới hỏi quá xa
xỉ, ta phải giảm bớt đi”… Người dặn dò mọi người dân phải chú ý đến những
việc tưởng chừng như rất nhỏ trong đời sống hàng ngày như giữ vệ sinh trong
nhà, ngoài ngõ; sao cho đường sá, ao hồ, nước ăn, nước rửa đều thật sạch sẽ;
lễ hội, giỗ tết, ma chay, cưới xin, phải thật trang trọng mà giản dị, tiết kiệm…
Để xây dựng được đời sống mới, Người chỉ ra sự cần thiết phải bắt đầu từ mỗi
con người, mỗi gia đình. Người viết: “Do nhiều người nhóm lại thành làng.
Do nhiều làng nhóm lại thành nước. Nếu người này xấu, người kia cũng xấu


11
thì thành làng xấu, nước hèn. Nếu mọi người đều tốt thì thành làng tốt, nước
mạnh. Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới thì dân tộc ta nhất
định sẽ phú cường”. “Ai cũng làm như thế thì tự nhiên nước Việt Nam ta trở
thành một nước mới, một nước văn minh”.
Ý nghĩa của đời sống văn hóa được nhìn thấy trong mối quan hệ giữa đời
sống cá nhân và đời sống cộng đồng. Đời sống cộng đồng như chiếc nôi nuôi
dưỡng, quy định đời sống cá nhân và đời sống cộng đồng, sung túc, lành
mạnh là điều kiện để cá nhân có một đời sống no ấm, lành mạnh. Đời sống
cộng đồng như chiếc “Thẻ bảo hiểm” cho đời sống cá nhân. Ngược lại, đời
sống của các cá nhân làm nên đời sống cộng đồng, phản ánh những mặt riêng
biệt của đời sống cộng đồng, văn hóa cộng đồng cần có sự đóng góp của văn
hóa cá nhân …Cá nhân no ấm, hạnh phúc, mới có xã hội giàu mạnh. Cũng

chính trong tác phẩm “Đời sống mới”, Bác Hồ đã nói đến mối liên hệ này:
“Nói chung thì đời sống mới có thể chia làm hai thứ, Một là đời sống mới
riêng, từng người. Hai là đời sống mới chung, từng nhóm người…”. Vì
vậy,“Mỗi người, mỗi đồn thể phải theo cơng việc, nghề nghiệp của mình mà
làm đời sống mới cho phù hợp với hoàn cảnh”. Và Bác luôn nhấn mạnh đến ý
nghĩa thực tế của đời sống mới: “Nhưng bất kỳ người nào, đoàn thể nào cũng
khơng ngồi năm việc làm: ăn, mặc, ở, đi, làm”.
GS.TS Hồng Vinh trong cơng trình: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
xây dựng văn hóa nước ta, đã cho rằng, đời sống văn hóa là một bộ phận của
đời sống xã hội. Đời sống xã hội là một phức thể những hoạt động sống của con
người, nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người làm cho con người tồn tại
với tư cách là một song thể xã hội, tức là con người tồn tại như một nhân cách
văn hóa. Xã hội càng tiến hóa, nhu cầu văn hóa và sự đáp ứng nhu cầu đó ngày
càng cao, thể hiện trình độ phát triển Người. Các hoạt động nhằm đáp ứng nhu
cầu tinh thần của con người, đó chính là các hoạt động văn hóa [62, tr.162-163].
Có thể hiểu: Đời sống văn hóa chính là tổng thể sống động các hoạt động văn


12
hóa trong q trình sáng tạo (sản xuất), bảo quản, phổ biến, tiêu dùng các
sản phẩm văn hóa và sự giao lưu văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa
của một cộng đồng.
Về một phương diện nào đó, đời sống văn hóa cũng chính là mơi trường
hoạt động sống của con người. Mơi trường văn hóa là nơi diễn ra mọi hoạt
động văn hóa, có sự hịa trộn giữa văn hóa cá nhân với văn hóa cộng đồng, là
tổng thể của những văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, nhân cách văn hóa,
có sự tác động lẫn nhau, trực tiếp hình thành phẩm giá và lối sống của con
người và xã hội. Văn hóa chính là đời sống. Ban đầu, nó là cái phân biệt giữa
con người và động vật. Về sau, nó lại là cái phân biệt giữa cá nhân con người
và cộng đồng. Ý nghĩa của văn hóa chuyển dịch dần từ mối quan hệ giữa con

người và tự nhiên sang mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Như vậy, đời sống văn hóa thực chất là mặt tự giác của đời sống con
người. Nội dung của mặt tự giác ấy là các giá trị văn hóa được vận động, bộc
lộ trong các hoạt động sống, các quan hệ nhằm tạo ra sự hài hòa giữa cá nhân
và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Dễ nhận thấy là khi mặt tự giác ấy mất
đi, đời sống của con người chỉ đơn thuần là một chuỗi hoạt động bản năng mà
thôi. Về một phương diện khác, cũng có thể hiểu đời sống văn hóa chính là
diện mạo các hoạt động văn hóa. Đây chính là góc độ tiếp cận cấu trúc của
đời sống văn hóa.
Trong Giáo trình “Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng” hệ
cử nhân chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, cấu
trúc của đời sống văn hóa được xác định bao gồm: Con người văn hóa, hoạt
động văn hóa, sản phẩm văn hóa [33, tr.347]. Có thể thấy đời sống văn hóa là
tổng thể những yếu tố văn hóa vật thể, phi vật thể và nhân cách văn hóa bao
quanh con người, gây ra sự tác động lẫn nhau giữa các cá nhân trên phạm vi
khơng gian nào đó, trực tiếp hình thành lối sống và nề nếp con người đó. Thể
thống nhất này gồm 4 yếu tố: những yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể hiện


13
diện ở mỗi cộng đồng; những yếu tố cảnh quan văn hóa (tự nhiên và nhân
tạo); những yếu tố văn hóa cá nhân (học vấn, sở thích, sinh hoạt và xử lý thời
gian, nếp sống….) Những yếu tố văn hóa của các vi mơi trường trong những
cộng đồng (gia đình, tập thể nhỏ về lao động, học tập …) Tổng hợp các ý kiến
trên chúng ta nhận thấy: Cấu trúc của đời sống văn hóa bao gồm các yếu tố
cơ bản sau: Con người văn hóa, hệ thống các giá trị văn hóa, các quan hệ
văn hóa, các hoạt động văn hóa, hệ thống các thiết chế và cảnh quan văn
hóa. Giữa các yếu tố đó có sự tác động lẫn nhau, phản ánh toàn bộ đời sống
con người, đáp ứng nhu cầu, tác động đến sự phát triển của con người và xã
hội. Phân tích từng yếu tố ta nhận thấy:

- Con người văn hóa: Con người, với tư cách là chủ thể của mọi hoạt
động xã hội, là yếu tố khởi đầu trong cấu trúc của đời sống văn hóa. Con người
sáng tạo ra văn hóa như một phương thức tồn tại đặc thù. Khi các giá trị văn hóa
đã được xác lập, con người tái tạo và sử dụng chúng như một phương tiện để
thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, khiến cho đời sống của
con người không phải là những hoạt động bản năng sinh tồn. Theo “đường dẫn”
văn hóa mà đời sống của động vật người trở thành đời sống văn hóa. Chỉ có con
người mới có đời sống văn hóa, con người kiến tạo và kiến trúc nên đời sống
văn hóa. Mặt khác, con người cũng là sản phẩm của đời sống văn hóa. Con
người tham gia vào đời sống văn hóa với vai trị chủ thể nhưng đồng thời cũng là
đối tượng. Chính trong đời sống, những năng lực văn hóa của nó được ni
dưỡng và bộc lộ. Có đời sống văn hóa của cá nhân, của những nhóm người và
của xã hội, tất cả tương tác nhau trong sự vận hành của hệ giá trị văn hóa.
- Hệ thống các giá trị văn hóa: Văn hóa bao giờ cũng là hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt
động thực tiễn. Giá trị là hạt nhân của văn hóa và đời sống văn hóa. Đời sống
văn hóa giống như một thứ biểu đồ phản ánh sự sáng tạo, truyền bá và tác
động của các giá trị thông qua hoạt động sống của con người.


14
Giá trị văn hóa được xem là sự kết tinh những thành tựu của con người
trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới và cải tạo chính bản thân. Đó
là những phẩm chất cao quý có ý nghĩ mà cả xã hội cùng ao ước và chia sẻ. Ví
dụ như: lịng u nước, lịng nhân ái, đức tính bao dung, tinh thần đồn kết…
Giá trị khơng tồn tại riêng lẻ mà hợp thành một hệ thống phản ánh quan
niệm thống nhất của một cộng đồng về ý nghĩa của các sự vật, hiện tượng
trong đời sống, do vậy, giá trị là những hạt nhân tinh thần liên kết cộng đồng,
là tấm biển chỉ dẫn hành vi của con người. Các nhà nghiên cứu Nga cho rằng,
với tư cách là yếu tố điều chỉnh, giá trị thống trị đời sống văn hóa. Có nhiều

quan niệm về hệ thống các giá trị: Nho giáo Trung Hoa đề cao Trung - hiếu tiết - nghĩa. Trong khi đó, người Nhật đề cao Thiện - ích - mỹ.
Nếu xem xét hoạt động sống của con người từ ba góc độ nhận thức, hành
động và cảm xúc, chúng ta thấy hệ giá trị văn hóa bao gồm ba phạm trù cơ
bản là: Chân - thiện - mỹ. Trong đó, chân là đối tượng của nhận thức và sáng
tạo khoa học, thiện là đối tượng của nhận thức và hành vi đạo đức, mỹ là đối
tượng của nhận thức và hoạt động thẩm mỹ - nghệ thuật. Chân, thiện, mỹ
thống nhất nhau, phản ảnh quan niệm của con người về những mỗi quan hệ
ứng xử với tự nhiên và xã hội, khả năng sáng tạo theo các quy luật của cái đẹp
của con người. Phạm trù Chân - thiện - mỹ đã hàm nghĩa phân biệt với các đối
tượng phản giá trị đối lập như: giả - ác - xấu điều này cũng cho thấy đời sống
văn hóa là q trình vận động của chủ thể người và xã hội theo hướng ngày
càng tiếp cận và khẳng định các giá trị Chân - thiện - mỹ, đấu tranh với cái
phản giá trị (cái giả - ác- xấu) trong con người và xã hội.
Giá trị vận động trong đời sống tạo ra những hiệu ứng có cường độ và ý
nghĩa khác nhau. Cường độ và ý nghĩa của nó phản ánh mức độ lành mạnh,
tốt đẹp của đời sống. Các cá nhân khao khát tìm kiếm ý nghĩa cho các hành
động của mình, giá trị sẽ có sức hút đặc biệt với anh ta. Một nền văn hóa phát
triển cũng như một cá nhân có trình độ văn hóa cao thì phải có khả năng đồng


15
hóa, tổng hợp các giá trị, khả năng phản ánh linh hoạt trước các tác nhân bên
ngoài. Điều này đưa tới các hiện tượng chuyển đổi giá trị khi có sự biến đổi
của các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa. Xu hướng của sự chuyển đổi này
phản ánh trạng thái của đời sống văn hóa.
- Hệ thống các quan hệ văn hóa: Đời sống là sự đan xen những mỗi
quan hệ đa dạng của con người. Xét từ mặt tính chất của hoạt động, có quan
hệ giao tiếp bình thường, có quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ pháp
luật …. Nhìn theo phạm vi giao tiếp có quan hệ trong gia đình, quan hệ hàng
xóm, quan hệ trong cơ quan… Lấy chủ thể làm cơ sở thì có quan hệ cá nhân

và cá nhân, cá nhân và cộng đồng, dân tộc này và dân tộc khác… Khái quát
nhất lấy con người là trung tâm thì có mỗi quan hệ giữa con người với tự
nhiên, con người với xã hội và con người với con người. Trong tất cả những
quan hệ ấy đều tồn tại các giá trị văn hóa, văn hóa vừa là hình thức, vừa là nội
dung của ứng xử trong quan hệ. Như vậy, quan hệ văn hóa là cái mang giá trị.
Giá trị thấm vào trong các quan hệ một cách tự nhiên, đến mức con người
khơng nhận ra nó. Giá trị giúp cho các quan hệ tự nhiên, bình thường trở
thành các quan hệ văn hóa. Con người biểu hiện năng lực văn hóa trong các
quan hệ. Ở cấp độ cộng đồng, sự lành mạnh của các quan hệ là thước đo sự
lành mạnh của đời sống .
- Hệ thống các hoạt động văn hóa: Xét theo nghĩa rộng nhất của văn
hóa, hoạt động sống nào của con người cũng chứa đựng các giá trị văn hóa, từ
ăn, mặc, đi lại đến giao tiếp, vui chơi giải trí…Tuy nhiên, giá trị văn hóa trong
các hoạt động này chỉ tồn tại như là giá trị người của tất cả mọi hoạt động
sống nói chung vì chưa phải là mục đích trực tiếp. Vì vậy, hoạt động văn hóa
ở đây được hiểu là những hoạt động mà nội dung và mục đích của nó là các
giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Đó chính là q trình sản xuất, bảo quản, phân phối
và tiêu dùng các giá trị văn hóa. Thơng qua hoạt động này, giá trị sẽ được sản
sinh, vận động và lan tỏa trong đời sống. Với tư cách là loại hoạt động “ thực


16
hiện” các giá trị, hoạt động văn hóa là hoạt động mang tính sáng tạo, thể hiện
một cách tập trung nhất năng lực văn hóa, khả năng sáng tạo theo các quy luật
của cái đẹp của cá nhân và cộng đồng.
Hoạt động sáng tạo, bảo quản, truyền bá…có thể là hoạt động của cá
nhân nhưng nó ln diễn ra trong mỗi liên hệ với cộng đồng. Nói cách khác,
nó ln mang tính xã hội. Sáng tạo, bảo quản hay phân phối luôn lấy công
chúng, nhân dân làm đối tượng hướng tới. Công chúng phải là một thành tố
của những hoạt động này. Theo chiều ngược lại, công chúng, cụ thể hơn là sự

tiêu dùng của công chúng sẽ định hướng cho các hoạt động nói trên. Sự liên
thơng giữa các yếu tố này cho thấy hoạt động văn hóa diễn ra có đối tượng và
mục đích, có “ địa chỉ” và có hiệu quả tác động.
Các hoạt động văn hóa là những hoạt động đáp ứng nhu cầu văn hóa của
người dân. Đời sống văn hóa lành mạnh, phong phú phải được biểu hiện qua
sự lành mạnh và đa dạng của các hoạt động văn hóa, mức độ tham gia của
người dân. Dựa vào thực tế hiện nay, các nhà nghiên cứu đã khái quát một số
dạng hoạt động văn hóa cơ bản, đó là:
- Hoạt động thơng tin - tuyên truyền cổ động.
- Hoạt động câu lạc bộ.
- Hoạt động thư viện, đọc sách báo.
- Hoạt động bảo vệ di sản văn hoá và giáo dục truyền thống.
- Hoạt động văn nghệ quần chúng.
- Hoạt động xây dựng gia đình văn hóa và nếp sống văn hóa.
- Hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí.
- Hoạt động xã hội từ thiện.
- Hệ thống xây dựng thể chế và cảnh quan văn hóa.
Thiết chế văn hóa đóng vai trò là nơi lưu giữ và chuyển tải các giá trị văn
hóa của cộng đồng đến từng cá nhân. Đó là môi trường vật chất, là “đường


17
dẫn” đảm bảo cho các hoạt động văn hóa bao gồm sáng tạo, bảo quản, truyền
bá và hưởng thụ các giá trị văn hóa diễn ra trong đời sống xã hội. Hệ thống
này được xem là “ trung khu thần kinh” của nền văn hóa, bao gồm cơ sở vật
chất và các thiết chế văn hóa - xã hội.
Các thiết chế cơ sở vật chất văn hóa như thư viện, bảo tàng, nhà truyên
thống, CLB, nhà hát, trung tâm văn hóa, phương tiện thơng tin đại chúng,
Internet… là nơi các hoạt động văn hóa diễn ra một cách tập trung, phản ánh
những giá trị kết tinh của đời sống văn hóa cộng đồng. Nó chính là chiếc cầu

nối giữa sáng tạo và thưởng thức, giữa văn hóa quá khứ và công chúng đương
thời. Những thiết chế này đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân, qua đó tuyên
truyền tư tưởng, giáo dục và nâng cao trình độ văn hóa, trình độ thẩm mỹ của
cơng chúng. Mỗi nền văn hóa thường có một kiểu thiết chế văn hóa đặc trưng.
Sự đa dạng và hoàn thiện của các thiết chế này cho thấy nhịp độ và trình độ của
đời sống văn hóa nói chung. Trong điều kiện bùng nổ thơng tin, sự phát triển
như vũ bão của khoa học - công nghệ, thiết chế văn hóa có thể được xem là
những “đồn lũy” văn hóa. Đây là một trong những nơi mà đấu tranh trên lĩnh
vực văn hóa diễn ra một cách cụ thể và Đảng, Nhà nước không thể buông lỏng
sự lãnh đạo và quản lý trên lĩnh vực này.
Các thiết chế xã hội - văn hóa bao gồm các tổ chức có chức năng giáo
hóa con người theo những chuẩn mực phù hợp với yêu cầu phát triển của xã
hội. Đây là môi trường trực tiếp di truyền gien văn hóa của cộng đồng cho các
cá nhân. Thiết chế xã hội - văn hóa gần gũi nhất với con người chính là gia
đình và nhà trường. Thiết chế xã hội - văn hóa làm tốt chức năng của nó, sẽ
cung cấp cho xã hội những “sản phẩm” chất lượng cao, trực tiếp tạo nên con
người văn hóa.
Bên cạnh đó, cảnh quan văn hóa là những sản phẩm tồn tại trong quan hệ
tương tác giữa con người và môi trường tự nhiên, môi trường xã hội bao gồm
các thắng cảnh tự nhiên, các kiến trúc, các cơng trình xây dựng, đường phố,


18
các tượng đài… Cảnh quan văn hóa là mơi trường vật chất - văn hóa mà trong
đó con người sinh sống. Nó là biểu hiện bề mặt trực tiếp của đời sống văn
hóa. Qua kiến trúc cảnh quan mơi trường, trận tự vệ sinh đơ thị… ít nhiều có
thể khái quát được đời sống của dân cư. Tuy chỉ là không gian vật chất do con
người tạo ra những cảnh quan văn hóa lại có tác động nâng đỡ, điều chỉnh,
giám sát hàng vì con người. Bên trong cảnh quan chứa đựng những chuẩn mực
của cộng đồng, bao phủ trong nó là sự lan tỏa thầm lặng của các giá trị văn hóa,

ví như khi bước vào chùa, nhà thờ, người ta có thể cảm nhận được khơng khí
trang nghiêm, thanh tịnh của một cõi linh thiêng nào đó. Các yếu tố trong hệ
thống cấu trúc của đời sống văn hóa có mỗi quan hệ chặt chẽ gắn bó với nhau,
trong đó giá trị văn hóa là yếu tố trung tâm. Con người, với vai trò là chủ thể, là
“kiến trúc sư” của đời sống văn hóa sẽ điều hành các mỗi quan hệ, các hoạt
động, các thiết chế và cảnh quan văn hóa và văn hóa thơng qua các hoạt động,
các quan hệ và mơi trường sống của mình.
Tóm lại, đời sống văn hóa là sự phản ảnh biểu hiện tập trung nhất các
mặt của văn hóa, từ hoạt động sáng tạo hưởng thụ đến quan niệm giá trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tơn giáo… Đây
chính là cơ sở để xét khái niệm đời sống văn hóa và nội dung, vai trị của việc
xây dựng đời sống văn hóa.
Đời sống văn hóa tồn tại trong mọi hoạt động sống của con người. Nếu
như đời sống vật chất hay đời sống tinh thần là các khái niệm chỉ những hoạt
động sống của con người thì đời sống văn hóa như một khái niệm có tính bao
trùm để chỉ mặt giá trị của đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con
người. Thiếu đi ý nghĩa văn hóa, đời sống của con người chỉ là một chuỗi các
hoạt động hướng tới những nhu cầu bản năng. Khái niệm đời sống vật chất
hay đời sống tinh thần chỉ hàm chứa phương tiện, nội dung sinh hoạt; đó là
những phương diện tồn tại cho mình, cho cá nhân. Trong khi đó, khái niệm


19
đời sống văn hóa phản ánh trình độ đáp ứng và xử lý hai loại nhu cầu nói trên,
hàm chứa những mối quan hệ nhiều chiều.
Ý nghĩa của đời sống văn hóa có thể được nhìn thấy từ mối quan hệ giữa
nó với đời sống vật chất và tinh thần. Khơng nên hiểu đời sống văn hóa như
một điều gì cao xa, tách biệt đời sống thực tế, chỉ là “Cờ, đèn, kèn, trống”, là
mua vui, giải trí. Đời sống văn hóa nằm ngay trong đời sống vật chất và tinh
thần của con người, ngay trong đời sống hàng ngày. Có thể hình dung đời

sống vật chất và tinh thần là biểu hiện bề ngồi, cịn đời sống văn hóa là nội
dung, là ý nghĩa của đời sống thường nhật. Ý nghĩa văn hóa có được trước hết
là ở đời sống vật chất đầy đủ đời sống tinh thần phong phú, vui tươi.
Trên đây là một số quan niệm về đời sống văn hóa và những yếu tố làm
nên cấu trúc của đời sống văn hóa. Đi sâu và tìm hiểu về đời sống văn hóa để
bảo vệ và phát huy những mặt tiến bộ, tích cực song song với việc đẩy lùi, bài
trừ những yếu kém, những mặt trái của văn hóa ngoại lai, đưa nền văn hóa
Việt Nam phát triển theo đúng mục tiêu xây dựng một nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
1.1.2. Quan niệm về khu dân cư
Trong hệ thống quản lý hành chính 4 cấp của nước ta thì xã, phường, thị
trấn được xem là cấp cơ sở gắn bó gần gũi với nhân dân. Tuy nhiên, xã,
phường, thị trấn vẫn chưa phải là cấp gần dân nhất; tổ chức gần và trực tiếp
với dân nhất là các “khu dân cư”.
Từ trước đến nay, khái niệm “khu dân cư” chưa được Nhà nước, hoặc
các ngành chức năng quan tâm nghiên cứu để có quy chuẩn. Khái niệm “khu
dân cư” chưa thấy định nghĩa trong các từ điển Tiếng Việt cũng như trong các
văn bản của Nhà nước. Chính vì vậy, việc hiểu về “khu dân cư” hiện nay cịn
chưa có sự thống nhất. Chẳng hạn, “khu dân cư” còn được hiểu là (tương
ứng) cộng đồng dân cư, cụm dân cư. Tuy nhiên, có nơi nhiều “khu dân cư”
mới hợp thành cụm dân cư. Có nơi “khu dân cư” đồng nghĩa với một thôn,


20
xóm, bản, làng, khóm, ấp, khu phố... Ở nơi khác, một thơn, xóm, bản, làng,
khóm, ấp, khu phố có khi lại có từ 2 đến nhiều “khu dân cư”. Có “khu dân
cư”, dân số chỉ vài chục người; nhưng có “khu dân cư” lại đông đến hàng
trăm người. “Khu dân cư” ở khu vực các tỉnh đồng bằng, khu vực đô thị khác
với “khu dân cư” ở các tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số về địa
giới hành chính, dân số, trình độ dân trí, điều kiện lao động, sản xuất, sinh

hoạt văn hố tinh thần... Có “khu dân cư” tồn tại ổn định từ lâu đời, có “khu
dân cư” mới đang trong q trình hình thành biến đổi... tuỳ theo yêu cầu, cách
sắp xếp bố trí của mỗi địa phương.
Về phương diện tổ chức, “khu dân cư” khơng phải là một cấp hành
chính, nhưng dù tồn tại dưới hình thức, tên gọi nào, quy mơ địa giới hành
chính đến đâu thì “khu dân cư” vẫn có 3 đặc trưng chủ yếu sau:
- “Khu dân cư” là một cấu trúc cộng đồng bao gồm: một số hộ gia đình
tụ cư, sống đan xen trong một khu vực địa lý nhất định (thơn, xóm, bản, khu
phố...). gắn bó với nhau trong sinh hoạt cộng đồng.
- Các hộ dân sinh sống ở “khu dân cư” không phụ thuộc theo huyết
thống, có quan hệ gắn bó với nhau trong lao động sản xuất, sinh hoạt văn hoá
tinh thần, trong giao tiếp xã hội, tâm lý, tư tưởng và ứng xử cộng đồng.
- Các hộ dân sinh sống ở “khu dân cư” ngoài chịu sự tác động, chi phối của
chủ trương, chính sách, pháp luật chung của Đảng, Nhà nước, cịn chịu sự tác
động, chi phối của bộ máy chính quyền địa phương, của “Hệ thống chính trị khu
dân cư” cùng các phong tục, tập quán nơi bản thân mình cư trú, sinh sống.
1.1.3. Quan niệm về đời sống văn hóa ở khu dân cư
Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư là củng cố, phát huy được sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển
sản xuất, nâng cao đời sống, nâng cao trình độ dân trí và thực hiện tốt chính
sách an sinh xã hội, tạo điều kiện thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, phát
huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân nhằm xây dựng đời sống vật chất


21
đầy đủ, phong phú và đời sống tinh thần lành mạnh, văn minh đáp ứng nhu
cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân; đẩy
mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa, xóm, tổ nhân dân văn hóa, nâng
cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong việc xây dựng nếp sống văn
minh, giáo dục thế hệ trẻ, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển

kinh tế - xã hội, củng cố an ninh - quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo
an sinh xã hội, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị.
1.2. NỘI DUNG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở KHU DÂN CƯ

1.2.1. Đoàn kết phát triển kinh tế, giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng
Văn hóa và kinh tế là hai lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội, chúng
có mối quan hệ biện chứng với nhau. Kinh tế quyết định văn hóa nhưng đến
lượt mình, văn hóa cũng có tính độc lập tương đối so với kinh tế và cũng có
khả năng tác động trở lại với kinh tế. Nhận thức rõ mối quan hệ gắn bó giữa
hai lĩnh vực này là điều kiện tiên quyết để có những chính sách đúng đắn
nhằm xây dựng thành cơng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Để xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, trước hết, cần phải quan
tâm phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, giảm số hộ nghèo, nâng cao
mức sống của người dân trong khu dân cư đó. Muốn thực hiện được nội
dung này, địi hỏi các cấp chính quyền, đặc biệt là chính quyền cấp cơ sở
phải xây dựng và triển khai những kế hoạch hợp lý, kịp thời, nhanh chóng
hồn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là hệ thống điện, đường, trường,
trạm... đáp ứng nhu cầu vật chất của nhân dân. Bên cạnh đó, chính quyền
và các đồn thể chính trị xã hội cũng cần phải khơi dậy được tinh thần
đoàn kết của các tầng lớp nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội cùng
tham gia củng cố, xây dựng cơ sở hạ tầng của các khu dân cư. Các chính
sách kinh tế - xã hội vi mô cần được nghiên cứu và triển khai trong thực tế,
chú trọng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp, phát triển sản xuất, tạo


22
ra nhiều công ăn việc làm, giảm số hộ nghèo, tăng số hộ giàu hợp pháp ở
mỗi khu dân cư.
Trong q trình hồn thiện cơ sở hạ tầng, cần chú ý xây dựng các thiết
chế văn hóa ở khu dân cư như nhà văn hóa, sân thể thao, thư viện, các tụ điểm

vui chơi, giải trí ...
Khi hạ tầng cơ sở được hoàn thiện, đời sống vật chất của người dân được
nâng cao thì nhu cầu văn hóa, mức hưởng thụ văn hóa của người dân cũng sẽ
gia tăng. Việc phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng liên quan mật thiết
đến việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở; có thể nói, nó là điều kiện cần
cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
1.2.2. Đoàn kết chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí và
thực hiện tốt chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu cho mọi người
Con người, các dạng hoạt động và thể chế văn hóa là ba yếu tố cấu thành
nên đời sống xã hội. Con người là yếu tố chủ thể, hoạt động là sự tác động
của chủ thể vào thế giới khách quan tạo nên hình thái tồn tại của đời sống xã
hội, cịn văn hóa là yếu tố chức năng, đóng vai trị điều tiết và thúc đẩy xã hội
phát triển theo hướng ngày càng hồn thiện. Khơng có văn hóa, thể chế xã hội
chẳng những các hoạt động xã hội không thể vận hành, mà ngay bản thân xã
hội cũng không tồn tại. Nếu ví đời sống xã hội như một guồng máy tự điều
khiển thì văn hóa vừa là động cơ, vừa là hệ điều chỉnh của guồng máy ấy.
Con người là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải văn hóa, nhưng chính mơi
trường văn hóa đã tạo ra nguồn lực con người, góp phần thúc đẩy sự phát
triển xã hội. Con người là điều kiện tiên quyết trong việc xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư. Chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng
cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân là nhằm góp phần
xây dựng con người văn hóa. Muốn vậy cấp ủy, chính quyền và tồn bộ hệ
thống chính trị cần đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao dân trí, bảo đảm ở
khu dân cư mọi trẻ em đi học đúng độ tuổi và khơng có trẻ em bỏ học, thực


23
hiện xóa mù chữ và phổ cập tiểu học, học sinh nghèo được giúp đỡ, học sinh
giỏi được khuyến khích, mọi trẻ em được bảo vệ, chăm sóc chu đáo và tiêm
chủng đúng lịch, khơng có người sinh con thứ 3 trở lên; thực hiện chương

trình chăm sóc sức khỏe ban đầu cho mọi người, phát triển thể dục thể thao và
chương trình Dân số - kế hoạch hóa gia đình.
1.2.3. Đồn kết xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc
Trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII), Đảng ta khẳng định: Văn
hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các
dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết
quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không
ngừng hồn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn và phát huy truyền thống
dân tộc và thuần phong mỹ tục trong nhân dân, bảo vệ các di tích lịch sử văn
hóa, di tích cách mạng, các khu bảo tồn thiên nhiên, là góp phần xây dựng
mơi trường văn hóa lành mạnh. Đảo bảo ở khu dân cư thực hiện tốt nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và trong quan hệ ứng xử, có điểm
giải trí vui chơi, vệ sinh cơng cộng sạch sẽ; mỗi hộ gia đình sống hịa thuận,
quan hệ xóm giềng tốt đẹp khơng cịn nhà dột nát, phần đơng số hộ có điện,
có nước sạch dùng trong sinh hoạt, có phương tiện nghe nhìn, bảo vệ cây
xanh nơi cơng cộng và khuyến khích mọi nhà trồng cây xanh, xây dựng vườn
hoa, cây cảnh. Có nhiều gia đình đạt gia đình văn hóa.
1.2.4. Đồn kết phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, mọi người
sống và làm việc theo pháp luật
Đoàn kết phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương phép nước, mọi người sống
và làm việc theo pháp luật, theo quy ước, hương ước của cộng đồng, thực hiện
tốt quy chế dân chủ. Bảo đảm ở khu dân cư khơng có tệ nạn xã hội và tội phạm,
trật tự an toàn xã hội được giữ vững, hòa giải tại chỗ những mâu thuẫn nội bộ,


24
cảm hóa được những người lầm nỗi, mọi người tích cực tham gia phong trào

bảo vệ an ninh Tổ quốc và xây dựng nền quốc phịng tồn dân.
1.2.5. Đồn kết phát huy tinh thần tương thân, tương ái, có nhiều
hoạt động nhân đạo, tình nghĩa
Đồn kết phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”,“Tương thân
tương ái”, có nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa và nhân đạo từ thiện, bảo
đảm cho các gia đình liệt sỹ, thương binh và những người có cơng với nước,
người nghèo có cuộc sống ổn đinh. Người già cô đơn, trẻ em tàn tật, những
nạn nhân của chất độc hóa học và những bất hạnh trong cuộc sống đều được
chăm sóc chu đáo bằng việc thực hiện đầy đủ các chính sách của Nhà nước và
bằng sự trợ giúp của cộng đồng dân cư.
Trên đây là năm nội dung cơ bản để xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư và là căn cứ để kiểm tra, đánh giá thực trạng xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư trên địa bàn Thành phố Tuyên Quang hiện nay.
1.3. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA KHU DÂN CƯ Ở THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG

Hiện nay Thành phố Tuyên Quang có 295 khu dân cư, tương ứng với 295
thơn, xóm, tổ nhân dân. Khu dân cư ở Thành phố Tuyên Quang là một cấu
trúc cộng đồng người bao gồm: một số hộ gia đình tụ cư, sống đan xen trong
một khu vực địa lý nhất định phân bổ dưới dạng các thơn, xóm, tổ dân phố,
gắn bó với nhau trong sinh hoạt cộng đồng. Nói như vậy chính là khẳng định
trong điều kiện thực tế ở Thành phố Tuyên Quang khái niệm “Khu dân cư”
đồng nghĩa với với “Thơn, xóm, tổ nhân dân”. Việc xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư cũng chính là xây dựng đời sống văn hóa ở các thơn, xóm,
tổ nhân dân trên địa bàn Thành phố. Trong đó chủ thể chính của khu dân cư là
các hộ gia đình có đặc trưng chủ yếu thành phần là công nhân, viên chức, trí
thức, thợ thủ cơng và tư thương với các ngành nghề lao động sản xuất trong
các nhà máy, công chức làm việc trong các cơ quan, cơng sở hành chính nhà


25

nước, người làm nghề thủ công, nông dân. Các hộ gia đình trong khu dân cư
có quan hệ mật thiết gắn bó với nhau trong đời sống sinh hoạt, giao lưu tình
cảm cũng như việc trao đổi kinh nghiệm trong cuộc sống, trong phát triển
kinh tế và tham gia các hoạt động xã hội.
Mỗi khu dân cư có từ vài chục hộ gia đình đến hơn hai trăm hộ gia đình;
Các hộ dân sinh sống ở “khu dân cư” khơng phụ thuộc theo huyết thống, có
quan hệ gắn bó với nhau trong lao động sản xuất, sinh hoạt văn hoá tinh thần,
trong giao tiếp xã hội, tâm lý, tư tưởng và ứng xử cộng đồng. Đặc biệt, ở
Thành phố Tuyên Quang, mỗi khu dân cư có thể có nhiều tộc người cũng
sinh sống.
Các hộ dân sinh sống ở “khu dân cư” chịu sự tác động, chi phối của chủ
trương, chính sách, pháp luật chung của Đảng, Nhà nước, chịu sự tác động,
chi phối của bộ máy chính quyền địa phương, của hệ thống chính trị cơ sở,
cùng các phong tục, tập quán nơi bản thân mình cư trú, sinh sống.
Hơn 10 năm triển khai cuộc vận động Toàn dân doàn kết xây dựng đời
sống văn hóa, nếp sống mới văn minh hiện đại từng bước được hình thành và
bén rễ sâu trong các gia đình, cộng đồng dân cư ở Thành phố Tuyên Quang.
Sự tham gia rộng khắp, tự giác của đông đảo nhân dân tạo nên nép đẹp mới
trong chuẩn mực văn hóa và trong nhân cách của người dân Thành phố Tun
Quang - vẻ đẹp đó khơng chỉ ở bề ngoài mà ẩn chứa trong tâm hồn sự mộc mạc,
chân thành, lối sống giản dị, nồng hậu và lịng mến khách của mỗi người dân.
1.4. VAI TRỊ CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở KHU DÂN CƯ
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ TUYÊN
QUANG HIỆN NAY

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nêu rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [20, tr.55].



×