Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tiểu luận thực trạng công tác chính sách công ở việt nam hiện nay và giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu của công tác chính sách công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.75 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN : KHOA HỌC CHÍNH SÁCH CƠNG
ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG CƠNG TÁC CHÍNH SÁCH CƠNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU
CÔNG TÁC CHÍNH SÁCH CƠNG

1


MỤC LỤC
• MỞ ĐẦU.................................................................................................
• NỘI
DUNG............................................................................................05
Chương 1 : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC NỘI DUNG TRONG KHOA
HỌC CHÍNH SÁCH CƠNG
1.1 Khái niệm và một số vấn đề chung về chính sách cơng........0506
1.2 Vấn đề và giải pháp chính sách cơng...................................07-10
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hoạch định và thực hiện
chính sách cơng.....................................................................11-14
Chương 2 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH CƠNG Ở VIỆT NAM TRONG
GIAI

ĐOẠN

HIỆN

NAY..........................................................................15
I.1. Bối cảnh nhận thức chung về quy trình chính sách cơng
tại Việt Nam.............................................................................15
I.2. Thành tựu, hạn chế trong quy trình chính sách cơng tại
Việt Nam hiện nay..............................................................16-18


I.3. Một số bất cập về quy trình chính sách công tại Việt Nam
hiện nay...............................................................................19-20
Chương III : GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA
CƠNG TÁC CHÍNH SÁCH CƠNG..........................................
• KẾT LUẬN.............................................................................................23
• DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................24

MỞ ĐẦu
2


Chính sách cơng là chun ngành mới ở Việt Nam và nhiều quốc gia
đang phát triển khác. Là một lĩnh vực khoa học xã hội, chính sách cơng dựa trên
những nguyên tắc kinh tế học, xã hội học, luật học và những chuyên ngành hàn
lâm đã được hình thành từ lâu. Ra đời vào những năm 1950, với cuốn
sách Khoa học chính sách: sự phát triển gần đây về phạm vi và phương pháp đã
đặt nền móng cho khoa học chính sách. Khác với những ngành khoa học xã hội
truyền thống, hoạt động nghiên cứu chính sách cơng định hướng đề ra những
giải pháp cụ thể cho các vấn đề thực tế. Việc nghiên cứu chính sách cơng khơng
chỉ hiểu rõ những vấn đề lý thuyết, mà cao hơn là nhằm vận dụng lý thuyết và
bằng chứng thực tiễn để thiết kế, triển khai và đánh giá chính sách, từ đó cải
thiện điều kiện sống của người dân.
Nghiên cứu về chính sách cơng với tư cách là một ngành khoa học có đối
tượng nghiên cứu độc lập. Xét trong mối quan hệ với luật học, hành chính học;
khoa học chính sách cơng mang tính chất liên ngành. Xét về mặt logic hình
thức, duy vật biện chứng chúng ta cần phải xây dựng “Đề án chính sách cơng
hồn chỉnh” trước khi xây dựng dự án luật, văn bản dưới luật. Khi có chính sách
cơng, văn bản quy phạm pháp luật thì đây chính là cơng cụ để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền quản lý nhà nước. Nếu thực hiện được quy trình
trên thì khi đó pháp luật khơng chỉ đơn thuần là thể chế hóa đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng mà bản thân trong chính sách cơng của Nhà nước
còn chứa đựng những quan điểm của các tầng lớp, giai cấp, tổ chức, nhóm lợi
ích... thuyết phục được Nhà nước đưa vào chính sách cơng thơng qua vận động
chính sách một cách cơng khai và minh bạch. Đây chính là những bước đi cần
thiết của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự mang tính phổ quát
trên thế giới.
Xuất phát từ những vấn đề trên do vậy em đã lựa chọn đề tài: “thực
trạng cơng tác chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay và giải pháp nâng cao
chất lượng và hiệu của công tác chính sách cơng ” để làm đề tài tiểu luận kết
thúc môn học với mong muốn làm rõ hơn được những vấn đề này.
3


4


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC NỘI DUNG
TRONG KHOA HỌC CHÍNH SÁCH CƠNG
1.1.

Khái niệm và một số vấn đề chung về chính sách cơng
Chính sách cơng là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử

dụng để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Ở mỗi giai đoạn phát triển, yêu
cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả các chính sách cơng ln được đặt ra.
Chủ thể ban hành chính sách cơng là nhà nước, cơ quan trong bộ máy nhà
nước là chủ thể ban hành chính sách cơng; các cơ quan nhà nước có những quy
định nhằm giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ cơ quan và khơng có hiệu lực

thi hành bên ngồi phạm vi cơ quan. Chính sách cơng do nhà nước ban hành
nên chính sách cơng là chính sách của nhà nước.
Các quyết định về chính sách cơng là những quyết định chính trị, bao
hàm ý chí chính trị và thực tiễn cuộc sống nhằm đáp ứng nhu cầu của người
dân. Chính sách cơng khơng chỉ thể hiện ý định của nhà hoạch định chính sách
về một vấn đề nào đó, mà cịn bao gồm ý chí, hành động thực hiện các dự định
qua giải pháp và cơng cụ chính sách. Như vậy, chính sách cơng trước hết thể
hiện dự định của các nhà hoạch định chính sách theo ý chí chính trị nhằm làm
thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó.
Chính sách cơng tập trung giải quyết vấn đề xã hội đang đặt ra trong đời
sống kinh tế – xã hội (KTXH) theo mục tiêu tổng thể đã xác định. Khác với các
loại công cụ quản lý khác như chiến lược, kế hoạch của nhà nước là những
chương trình hành động tổng quát bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực KTXH, đặc
điểm của chính sách cơng là không chỉ đề ra mục tiêu và các giải pháp với công

5


cụ hành động thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề có mối quan hệ
biện chứng đang đặt ra trong đời sống xã hội, mà còn giải quyết mối quan hệ
giữa các bên tham gia chính sách. Nói cách khác, sự khác biệt giữa chính sách
cơng với chiến lược, kế hoạch là cộng đồng chính sách và mạng lưới chính
sách.
Chính sách cơng chỉ xuất hiện trước khi vấn đề xã hội xuất hiện. Vấn đề
xã hội cần phải giải quyết trở thành vấn đề chính trị. Vấn đề chính sách cơng
được hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện
trong đời sống KTXH đòi hỏi nhà nước sử dụng quyền lực cơng để giải quyết.
Cấu trúc vấn đề chính sách cơng là hạt nhân xun suốt tồn bộ quy trình chính
sách bao gồm các giai đoạn chính sách cơng: khởi động, phân tích, soạn thảo
ban hành, thực thi và đánh giá chính sách.

Chính sách cơng khơng phải những ý tưởng của các nhà lãnh đạo thể hiện
trong lời nói và hành động của họ. Chính sách cơng khơng đồng nghĩa với một
luật riêng biệt, một văn bản chỉ thị hay quyết định nào đó khơng có mục tiêu
chính trị. Các văn bản quy phạm pháp luật đều có mục tiêu giải quyết, đó chính
là mục tiêu chính sách. Như vậy, chính sách cơng phải là một tập hợp các quyết
định chính trị cùng hướng vào việc giải quyết một vấn đề xã hội, do một hay
nhiều cấp khác nhau trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời
gian dài. Chính sách cơng được thể hiện chính thức thành các văn bản pháp luật
(cịn gọi là chính sách pháp luật) mang tính pháp lý cho việc thực thi, đồng thời
bao gồm những hành động khơng mang tính pháp lý, nhưng có tính định hướng,
kích thích phát triển.
Bản chất chính sách cơng nhằm duy trì tình trạng của xã hội hoặc giải
quyết “các vấn đề của xã hội”, đáp ứng nhu cầu của người dân, trong đó “là các
vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội” theo mục tiêu tổng thể đã vạch ra từ
trước. Do vậy, chính sách cơng là một tập hợp các quyết định chính trị có liên
quan của nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ
6


thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã xác định của đảng
chính trị cầm quyền.
1.2.

Vấn đề và giải pháp chính sách cơng
Việc xác định vấn đề chính sách cơng là giai đoạn đầu tiên nằm trong chu

trình chính sách cơng, bao gồm từ bước phát hiện những vấn đề xã hội, mâu
thuẫn nảy sinh trong đời sống xã hội cần được giải quyết bằng chính sách cho
đến khi hồn thành những mục tiêu của chính sách cơng. Vấn đề xã hội hiểu
đơn giản là những mâu thuẫn, trở ngại, khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong đời

sống KTXH, các lĩnh vực hoạt động cần được giải quyết bằng chính sách để
thoả mãn nhu cầu của người dân và xã hội. Vấn đề xã hội trở thành vấn đề chính
sách cơng một khi được chính trị hóa, đó chính là khi bắt đầu chu trình chính
sách cơng – bắt đầu giai đoạn xác định vấn đề chính sách cơng. Vấn đề chính
sách cơng là các nhu cầu, các giá trị hay các cơ hội cải thiện đáp ứng nhu cầu
của người dân chưa được hiện thực hóa. Nguồn gốc của vấn đề chính sách cơng
là vấn đề xã hội được chuyển thành vấn đề chính trị bằng sự tham gia của hệ
thống chính trị, nhất là cơ quan dân cử. Những mâu thuẫn nảy sinh cần được
giải quyết để cho thực thể tồn tại và phát triển, vấn đề chính sách phát sinh từ
những hoạt động KTXH, nguyện vọng người dân, tác động của chủ thể quản lý
xã hội, do q trình tồn cầu hóa hoặc can thiệp từ bên ngoài phải được giải
quyết để xã hội phát triển
Nghiên cứu giai đoạn khởi đầu chính sách cơng cho thấy, việc xác định
vấn đề chính sách được bắt đầu bằng cảm nhận vấn đề so với cấu trúc vấn đề,
đó là cảm nhận về các trở ngại, khó khăn, vướng mắc trong xã hội cần được giải
quyết bằng chính sách hoặc các bất hợp lý gây mâu thuẫn, mất cân bằng, mất ổn
định về KTXH, cản trở tăng trưởng kinh tế hoặc những nhu cầu trong tương lai
cần đạt được bằng chính sách. Vấn đề chính sách có mối quan hệ biện chứng
với mơi trường tồn tại, vấn đề chỉ có thể giải quyết bằng chính sách cơng thì
mới có thể phát triển. Theo quy luật vận động, vấn đề chính sách cơng của xã
7


hội mang cả tính hiện thực và tương lai, các hiện tượng đang tồn tại thực tế sẽ
làm nảy sinh những vấn đề trong tương lai.
Từ tổng quan vấn đề của xã hội cần tiến hành nghiên cứu thực tiễn để xác
định quy mô, mức độ nghiêm trọng của vấn đề trong đời sống KTXH. Việc lựa
chọn vấn đề chính sách dựa vào nhu cầu xã hội, ý nguyện của người dân và
doanh nghiệp, đồng thời căn cứ vào yêu cầu quản lý nhà nước đối với vấn đề
chính sách, năng lực tổ chức giải quyết vấn đề chính sách của nhà nước. Bên

cạnh đó, phải tính đến khả năng tham gia giải quyết vấn đề của đối tượng chính
sách công. Nghiên cứu ban đầu với sự tương tác của các bên tham gia trong xã
hội, vấn đề chính sách cơng được trình bày một cách rõ ràng, nội dung đầy đủ
các phần bao gồm việc mô tả vấn đề, nguyên nhân gây ra, phân tích bản chất
vấn đề. Giải pháp và cơng cụ chính sách cơng dựa trên kết quả phân tích nguyên
nhân và bản chất vấn đề KTXH. Các giải pháp chính sách cơng nhằm giải quyết
được vấn đề thông qua giải quyết các nguyên nhân xã hội và phân tích chính
sách. Việc phân tích chính sách là việc đánh giá hiện trạng hoặc thực hiện giám
sát đánh giá hiện trạng chính sách, đó là hoạt động hậu kiểm các kết quả chính
sách thực hiện trước đây; sau đó thực hiện các hoạt động tiên nghiệm dự đốn
chính sách sau này qua xem xét mối quan hệ nhân quả giữa giải pháp và mục
tiêu chính sách trong các điều kiện thể chế nhất định làm cơ sở cho việc lựa
chọn giải pháp và cơng cụ chính sách cơng phù hợp nhất. Đề xuất chính sách
mới hoặc sửa đổi chính sách hồn tồn dựa trên việc hồn thiện lựa chọn
phương án tối ưu cho việc ban hành chính sách.
Xác định vấn đề chính sách cơng đúng bản chất, đúng thời điểm, đúng
đối tượng đóng vai trị quan trọng trong xây dựng chính sách cơng tại các nước
đang phát triển do nền kinh tế và hệ thống tài chính cịn yếu kém. Nếu xác định
vấn đề của xã hội sai thì xử lý vấn đề chính sách sẽ sai và kéo theo nhiều hệ lụy
khác. Việc xây dựng chính sách công phải xác định đúng những bất hợp lý gây
mâu thuẫn, tạo mất cân bằng, mất ổn định, ngăn cản tăng trưởng, tạo khoảng
8


cách giữa tiềm năng và thực tế, trong đó sự tham gia thảo luận chính sách cơng
của các tổ chức xã hội và doanh nghiệp đóng vai trị quan trọng. Việc tham vấn
chính sách cơng qua các tổ chức nhà nước và xã hội giúp làm rõ bản chất của
vấn đề xã hội, tránh việc đưa ra những chính sách cơng mơ hồ, khơng mang tính
khả thi.
Chẩn đốn đúng bản chất của vấn đề chính sách cơng chỉ được thực hiện

khi đặt nó trong mối tương tác với các vấn đề khác và có sự tham gia thảo luận
chính sách của xã hội và truyền thông. Đây là cách thức để xác định rõ nguyên
nhân cốt lõi của cấu trúc vấn đề chính sách cơng hiệu quả nhất. Các ngun
nhân chính sách cơng gây ra vấn đề chính sách có thể theo dạng chuỗi thứ tự
hoặc có tính tổng hợp của nhiều nguyên nhân hoặc tác động qua lại giữa vấn đề
và nguyên nhân. Sự tham gia của xã hội là điểm mấu chốt để xác minh được
mối quan hệ nhân quả của các yếu tố tác động tới vấn đề chính sách nhằm xác
định đúng bản chất của vấn đề, đồng thời tăng tính sở hữu vấn đề đảm bảo sự
thực thi chính sách cơng sau này. Giả thuyết về các mối quan hệ và xác minh
các giả thuyết đó giúp xác định đâu là vấn đề chính và cốt lõi, đâu là vấn đề phụ
và vấn đề nhánh, đồng thời đưa ra danh mục các vấn đề cần giải quyết và vấn đề
có thể giải quyết.
Xác định giải pháp chính sách cơng là việc tìm giải pháp cho các nguyên
nhân của vấn đề chính sách mang tính đồng bộ hay cịn được gọi là “giải pháp
chính sách đồng bộ”, dựa trên nguyên nhân cốt lõi, bao gồm cả việc đo lường
các nguyên nhân về mức độ nghiêm trọng, tần suất xuất hiện, quy mô, tùy theo
điều kiện cụ thể. Các giải pháp can thiệp tức thì của nhà nước để làm thay cho
dân là phổ biến ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, sự tham gia của xã hội
vào q trình chính sách cơng là cách tích cực nhất để đưa ra giải pháp chính
sách mang tính bền vững. Thiếu sự tham gia của các tổ chức xã hội, người dân
và doanh nghiệp có thể khó khăn trong việc thực hiện chính sách với tâm lý xử
lý vấn đề chính sách là của nhà nước. Bên cạnh đó, sự nhận thức đúng đắn sự
9


vật, hiện tượng của các chủ thể tham gia chính sách đóng vai trị quyết định sự
thành cơng của một chính sách cơng.
Can thiệp chính sách tới đối tượng bị tác động có thể thơng qua việc huy
động lợi ích kinh tế, quan hệ cộng đồng, giá trị xã hội và tâm lý đám đông. Hơn
nữa, việc lựa chọn công cụ để can thiệp tùy thuộc vào đặc điểm, năng lực, khả

năng của chính phủ cũng như điều kiện, hồn cảnh, tính chất KTXH của mỗi
nhóm đối tượng chính sách cụ thể. Thực tiễn chính sách cơng tại các nước đang
phát triển cho thấy, có nhiều hình thức can thiệp với các giải pháp cụ thể hơn
nếu có sự thảo luận chính sách cơng cơng khai, minh bạch. Cơ cấu nhà nước
không quyết định lựa chọn can thiệp đối với chính sách cơng mà chính là q
trình thảo luận chính sách công với sự tham gia của các tổ chức xã hội. Các giải
pháp chính sách cơng khi đưa ra phải tính đến các phương diện sau:
Can thiệp thơng qua lợi ích kinh tế: chỉ áp dụng được cho đối tượng có
đầu óc tự lập cao, riêng lẻ, có tư duy kinh doanh, nhanh nhạy với thị trường.
Đồng thời, công cụ này chỉ hoạt động hiệu quả trong môi trường thị trường cạnh
tranh hoàn hảo với các điều kiện như: 1) cạnh tranh bình đẳng, khơng có độc
quyền nặng nề; 2) thị trường thơng thống, thơng tin thị trường đầy đủ, khơng
có rào cản gia nhập và rời bỏ thị trường, chi phí giao dịch thấp. Can thiệp thơng
qua quan hệ cộng đồng: chỉ áp dụng được cho đối tượng bị ràng buộc bởi quan
hệ cộng đồng, ví dụ như thành viên của các cộng đồng nông thôn, các tổ chức
xã hội, các nhóm sở thích, các nhóm thân tộc, họ hàng, bạn bè. Công cụ này chỉ
hoạt động hiệu quả nếu các quy định, thể chế cộng đồng được thi hành. Can
thiệp thông qua giá trị xã hội: tạo nên niềm tin, hệ giá trị được mọi người tôn
trọng và u thích. Cơng cụ này đặc biệt có tác dụng đối với các tơn giáo và lý
tưởng chính trị. Điều đó có nghĩa là cần tạo ra đồng thuận về các giá trị mà các
đối tượng bị tác động theo đuổi. Can thiệp thông qua tâm lý đám đông: chỉ áp
dụng cho các đối tượng đang có nhu cầu về vấn đề cần xử lý (ví dụ: nhà đầu cơ
cần thông tin về giá vàng, người dân không được đền bù xứng đáng khi bị thu
10


hồi đất…), chứ khơng có tác dụng đối với các nhu cầu bình thường, căn bản.
Cơng cụ này có hiệu lực trong môi trường thiếu thông tin đối chiếu, đối tượng
bị tác động không thể xác định được hành động dựa trên thơng tin hiện có mà
phải dựa vào người khác

1.3.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hoạch định và thực hiện chính
sách cơng
Hệ thống chính trị hay cơ cấu tổ chức của mỗi quốc gia sẽ chi phối nội

dung và hình thức trong việc xây dựng chính sách cơng. Do hồn cảnh quy định
nên chính sách quốc phịng, y tế, giáo dục quốc gia cũng khác nhau. Trong hệ
thống chính trị được chia thành các yếu tố nhỏ hơn về văn hóa chính trị, hiến
pháp, thể chế chính trị. Văn hóa chính trị là tập hợp các giá trị mang tính tương
đồng, ổn định, phản ánh nhận thức hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong hệ
thống chính trị và cơ cấu tổ chức nhà nước. Nhận thức và tư duy chính trị chịu
ảnh hưởng bởi kiến thức, quan điểm, niềm tin và lý tưởng chính trị.
Các hành vi ứng xử của đội ngũ viên chức trong cơ cấu hệ thống các cơ
quan nhà nước có ảnh hưởng quan trọng đến q trình chính sách cơng. Các
hành vi ứng xử của cán bộ, công chức được thể hiện qua q trình chính sách
bắt nguồn từ hiểu biết và các giá trị, niềm tin, động cơ của đội ngũ cơng chức.
Văn hóa chính trị cịn có nguồn gốc từ lịch sử, địa lý. Hiến pháp là yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến q trình xây dựng chính sách công tại các nước đang phát
triển. Hiến pháp là luật cơ bản hiến định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể chế
hoá mối quan hệ nhà nước - nhân dân. Hiến pháp là tối thượng buộc mọi chính
sách cơng phải tn theo vì nền tảng của mối quan hệ nhà nước và công dân dựa
trên hiến pháp. Nói cách khác, chính sách cơng phải tơn trọng mọi quyền cơng
dân, lợi ích quốc gia, giới hạn quyền lực của nhà nước. Thể chế chính trị là yếu
tố quan trọng thứ ba đối với quá trình chính sách cơng. Chính sách cơng tùy
thuộc vào thể chế chính trị để xây dựng, hoạch định cho phù hợp. Khi thể chế
11



thúc đẩy mạng lưới các tổ chức xã hội, người dân, doanh nghiệp tham gia vào
thảo luận chính sách cơng, lập chính sách thì chính sách cơng sẽ được tổ chức
thực hiện hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, các yếu tố bên trong ảnh hưởng đến việc xây dựng chính
sách cơng bao gồm: 1) vai trị của cơng luận và truyền thông; 2) hệ thống các
giá trị xã hội; 3) hệ thống kinh tế; 4) các quan hệ bên trong chính quyền. Vai trị
của cơng luận và cơ quan truyền thơng được thể hiện ở việc phản ánh, bình luận
quan điểm của người dân và cộng đồng được thể hiện dưới hình thức này hay
hình thức khác về một hiện tượng, một vấn đề xã hội hoặc chính sách cơng nào
đó. Cơng luận chịu ảnh hưởng nhiều của truyền thơng, có sự hỗ trợ và cộng
hưởng lẫn nhau tạo nên sức ảnh hưởng lan truyền mạnh đến chính sách cơng.
Hệ thống các giá trị xã hội có sự ảnh hưởng đến q trình thảo luận chính sách
cơng bao gồm sự đa dạng về văn hóa, tơn giáo, nghề nghiệp, chủng tộc, tầng lớp
xã hội, các nhóm lợi ích... Tất cả tạo nên một hệ thống các giá trị xã hội. Chính
sách công phải thể hiện sự tồn tại trong sự đa dạng và thỏa hiệp của hệ thống
các giá trị xã hội. Do đó, hệ thống các giá trị xã hội là một yếu tố quan trọng
trong xây dựng chính sách cơng. Giá trị xã hội có vai trị định hướng khi các tổ
chức xã hội tham gia vào quá trình chính sách. Trong đó, các chuẩn mực xã hội
được cụ thể hoá các giá trị, quy tắc cư xử, quy định cách thức hành động của cá
nhân và nhóm, biểu hiện dưới hình thức chính sách cơng.
Hệ thống kinh tế là yếu tố quan trọng, có tác động rất lớn đến việc xây
dựng chính sách cơng tại các nước đang phát triển. Sự vận động của nền kinh tế
kéo theo hàng loạt các vấn đề xã hội mới nảy sinh buộc các nhà hoạch định
chính sách cơng phải tính tốn xây dựng chính sách cơng vừa giải quyết tình
huống mới, vừa lường trước tác động sau này. Khi nền kinh tế càng lớn, các vấn
đề xã hội phát sinh từ lý do kinh tế càng nhiều, càng phức tạp khiến cho đa số
chính sách cơng tập trung cho vấn đề kinh tế như lao động, việc làm, thương
mại, kinh doanh quốc tế, chuyển giao cơng nghệ, đầu tư, tín dụng, lãi suất ngân
12



hàng, thị trường chứng khoán, bất động sản... Yếu tố kinh tế vừa là mục tiêu
chính sách vừa là phương tiện động lực, địi hỏi các nhà xây dựng chính sách
phải nghiên cứu, cân nhắc các yếu tố của hệ thống kinh tế trong các gói chính
sách cơng đề xuất.
Chính sách công là kết quả hoạt động của nhiều người, nhiều tổ chức nhà
nước với chức năng khác nhau. Thậm chí, chính sách cơng là sự thỏa hiệp,
thương lượng quan hệ quyền lực của chủ thể chính sách cơng. Quan hệ trong
các bộ phận làm chính sách cơng vừa tế nhị vừa căng thẳng từ việc lựa chọn vấn
đề đến xác định mục tiêu và các giải pháp chính sách cơng. Năng lực của chủ
thể lập chính sách phải được cân nhắc vì việc xây dựng chính sách cơng phụ
thuộc vào năng lực phân tích, dự báo chính sách. Đó phải là năng lực của đội
ngũ cơng chức làm chính sách công, mối quan hệ vừa riêng tư của các cơng
chức vừa chính thức bên trong các cơ quan và giữa các cơ quan lập chính sách
đều có thể ảnh hưởng đến nội dung, tính chất của chính sách cơng.
Bên cạnh đó, năng lực thuyết phục đóng vai trị quan trọng trong giai
đoạn xây dựng chính sách cơng và thực hiện sau này. Do đó, các tổ chức chủ thể
chính sách thường xuyên nâng cao năng lực tổ chức, năng lực đội ngũ cán bộ,
công chức làm chuyên môn hoạch định chính sách góp phần tăng cường chất
lượng chính sách cơng. Ngược lại, nếu năng lực đội ngũ lập chính sách yếu kém
sẽ cho ra những chính sách cơng khơng khả thi, khơng hợp lý, làm giảm sút
lịng tin của người dân đối với nhà nước.
Yếu tố năng lực của chủ thể nhà nước trong lập chính sách cơng cịn được
thể hiện qua các nguồn lực sử dụng cho công tác lập chính sách. Các nguồn lực
này bao gồm: nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực, các thiết chế của bộ máy
quản lý và bộ máy thi hành công vụ. Vì vậy, các hạn chế về nguồn lực ảnh
hưởng đến việc lựa chọn chính sách cơng phù hợp.

13



Cơ cấu quyền lực của chủ thể lập chính sách công được hiểu là khả năng
chi phối lãnh đạo đến các bên tham gia lập chính sách trong mối quan hệ vận
động phát triển nhằm mục tiêu chính sách cơng. Trong xã hội, quyền lực thuộc
về nhân dân thông qua lá phiếu bầu chọn các nhà lãnh đạo tập trung quyền lực
nhà nước để quản lý xã hội theo định hướng đã định. Cơ cấu quyền lực nhà
nước thể hiện qua quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và được thể hiện trên các
mặt chính trị, kinh tế và pháp lý trong quá trình quản lý xã hội. Với địa vị pháp
lý của từng cơ quan, các cơ quan là các chủ thể chính của xây dựng chính sách
cơng.
Yếu tố địa chính trị, địa chiến lược ảnh hưởng đến việc hoạch định chính
sách cơng. Địa chính trị được hiểu là sự phân bố và tương quan giữa các lực
lượng chính trị trong mỗi nước cũng như giữa các nước và các nhóm trong các
liên quan với cơ cấu KTXH, các vấn đề hình thành các quốc gia hay các vùng
chính trị, biên giới cũng như cơ cấu hành chính của các nước, các vùng. Chính
sách và phản ứng của các quốc gia có liên quan về chính sách cơng là một yếu
tố cần phải tính đến trong hoạch định chính sách cơng. Các chính sách có tầm
ảnh hưởng khu vực hoặc quốc tế đều phải cân nhắc đến yếu tố này.
Lợi thế so sánh quốc gia và quan hệ kinh tế quốc tế là yếu tố phải được
tính đến trong q trình hoạch định chính sách cơng. Các nghiên cứu chỉ ra
rằng, phải kết hợp đồng thời nhiều yếu tố: vị trí địa lý, tài ngun thiên nhiên
sẵn có và nguồn nhân lực phong phú, trong đó nguồn nhân lực là yếu tố quan
trọng cho việc thực hiện chính sách công trong bối cảnh hiện nay.

14


Chương 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH CƠNG Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. Bối cảnh nhận thức chung về quy trình chính sách cơng tại Việt Nam
Trước hết, có quan điểm phổ biến cho rằng, hoạt động phân tích chính
sách và hoạch định chính sách chủ yếu diễn ra, hay được thực hiện bởi Chính
phủ, thay vì Quốc hội. Một số lý do là công chức trong các cơ quan Chính phủ
và hệ thống hành chính có nhiều kinh nghiệm trong cơng tác điều hành, có
chun mơn sâu trong việc phân tích cũng như thực thi chính sách; Chính phủ,
các bộ ngành thường là nơi khởi điểm đề xuất xây dựng các dự thảo luật, pháp
lệnh. Quan điểm này ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc xác định đúng vị trí, vai trị
phân tích chính sách và hoạch định chính sách trong giai đoạn Quốc hội. Trong
khi đó, xét cả lý thuyết và thực tế, Quốc hội đóng vai trị rất quan trọng, nếu
khơng nói là quan trọng nhất, khi so sánh với các chủ thể tham gia làm chính
sách khác, trong việc QĐCS. Bởi lẽ, đa số các chính sách được thể hiện dưới
dạng văn bản luật do Quốc hội thơng qua. Ví dụ tham khảo ở Hoa Kỳ, Nghị
viện mới thực sự là trung tâm quyết định các vấn đề chính sách.
Trong hoạt động của Quốc hội Việt Nam, phân tích chính sách vẫn chưa
được áp dụng rộng rãi, chuyên nghiệp và hiệu quả để nâng cao chất lượng
QĐCS. Trên thực tế, có một số hoạt động thuộc phạm vi phân tích chính sách,
hay cần có những phân tích hỗ trợ, được diễn ra ở các giai đoạn khác nhau trong
quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, ví dụ như trong giai đoạn xây dựng dự thảo,
giai đoạn thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội. Thêm nữa,
thông tin dữ liệu và kết quả phân tích cũng được các đại biểu Quốc hội (ĐBQH)
sử dụng ở các phiên chất vấn, hội nghị ĐBQH chuyên trách (mặc dù thiên về
phân tích định tính; nhiều tình huống thực chất là bình luận chính sách). Tuy
nhiên, chưa có nhiều những báo cáo phân tích chính sách đầy đủ, hoàn thiện, và
15


thực hiện với một quy trình chuyên nghiệp, bắt buộc, hay theo đơn đặt hàng của
các ĐBQH trong việc xây dựng chương trình, dự thảo luật, pháp lệnh.
Nhìn chung, việc thiếu vắng những quy định về trình tự, thủ tục hoạch

định và phân tích chính sách có thể dẫn tới các hành động phối hợp không ăn
khớp; những nỗ lực thực hiện các chính sách khơng có sự chuẩn bị cơ bản từ lúc
lập chương trình; hoặc thậm chí xây dựng một chương trình cho một chính sách
mà khơng thực thi được. Nhà nước không nên quyết định theo đuổi một chính
sách mà khơng được quyết định dựa trên cơ sở một nghị trình chuẩn bị nghiêm
túc, cũng như khơng nên quyết định đưa vào chương trình nghị sự một chính
sách mà có ít khả năng được thơng qua hoặc khó triển khai thực hiện. Để tránh
những tình huống trên, phân tích chính sách là một u cầu khơng thể thiếu.
Mặc dù vậy, chỉ đến khi Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 được thơng qua thì
q trình hoạch định chính sách và phân tích chính sách mới bước đầu được quy
định cụ thể.
2.2. Thành tựu, hạn chế trong quy trình chính sách cơng tại Việt Nam hiện
nay
Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì CSC là cơng cụ tiền
đề, khơng thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế
hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những năm gần
đây Đảng và Nhà Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao vai trị của
CSC như là một cơng cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
nói riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung. Tuy nhiên,
trước yêu cầu ngày càng cao và phức tạp của quản lý nhà nước thì hoạt động
hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam đang ở trong bối cảnh nào và đặt ra
những vấn đề gì cần giải quyết?

16


Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định CSC đã đạt được một số kết
quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu, cấp
bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân sự,

ngoại giao…). Một số CSC quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn, bám
sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập và
hồn thiện được một hệ thống CSC khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban
hành đã đáp ứng được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của
nền kinh tế thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế tồn cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh
tiền lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối
đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam
của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân,
chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nơng nghiệp… Theo đó, nhiều chính
sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định giá
cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền kinh tế trong điều kiện khủng
hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những phản ứng kịp thời của nhà
nước trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu và khu vực.
Bên cạnh đó, việc tổ chức thực thi CSC cũng đạt được những yêu cầu cơ
bản như: kịp thời, đồng bộ, hiệu quả trong phạm vi cả nước cũng như từng địa
phương, ngành. Một số địa phương đã chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong
triển khai thực thi chính sách cho phù hợp với đặc điểm của mình, có tính đến
đặc điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách. Cơng tác tổng kết thực tiễn thi
hành chính sách cũng đã bắt đầu được chú ý hơn; một số chính sách được sơ
kết, tổng kết khá cơng phu, có quy trình khoa học và có giá trị tham khảo lớn.
Nhìn tổng thể, việc thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, nghiêm minh với
khơng ít kinh nghiệm bổ ích đã được đúc rút từ thực tiễn.

17


Hoạt động phân tích, đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm với tư cách

là một trong những công đoạn quan trọng của quy trình CSC. Tuy chưa nhiều và
chưa thật sự phát huy hết hiệu quả nhưng một số cơ quan nhà nước, viện nghiên
cứu và cá nhân có những sản phẩm phân tích, đánh giá CSC rất tốt, giúp cho
việc ban hành, sửa đổi nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách hiện hành theo
hướng khả thi, hiệu quả, mang lại lợi ích cho xã hội. Đặc biệt, vai trò của một số
tổ chức phi nhà nước trong việc phân tích, đánh giá CSC được dư luận xã hội
thừa nhận về chất lượng, về chính kiến và ảnh hưởng của chúng như: Viện
nghiên cứu, tư vấn chính sách, pháp luật và phát triển (PLD) thuộc Liên hiệp
các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA)… Nhờ đó, từ chỗ là cơng
việc khá lạ lẫm trong quy trình chính sách, thì đến nay hoạt động phân tích,
đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm nhiều hơn không chỉ từ phía các cơ
quan nhà nước mà cịn là của xã hội.
Mặc dù vậy, khi đánh giá về hạn chế, khuyết điểm trong 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội X, Đảng ta nhận định: "Năng lực xây dựng thể chế, quản lý,
điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu… Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu…". Có thể thấy những hạn
chế, bất cập đó trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:
Lý luận về mơ hình phát triển chung cịn nhiều vấn đề chưa được làm
sáng tỏ đã và đang tác động không nhỏ tới lý luận và thực tiễn của nhiều lĩnh
vực vĩ mô như: về mối quan hệ giữa cải cách hệ thống chính trị với đổi mới
kinh tế, về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, về tăng trưởng đi đôi
với thực hiện công bằng xã hội trong từng bước và trong cả q trình phát triển,
về bảo vệ mơi trường trong phát triển bền vững… Trong đó, cịn nhiều vấn đề
đặt ra rất bức xúc nhưng chưa được kiến giải thấu đáo ở phương diện lý luận
hay nói cách khác, lý luận còn bất lực trước nhiều vấn đề thực tế mà cội rễ của
nó là tư duy chưa thật sự bắt kịp được yêu cầu ngày càng cao, phức hợp của
công cuộc đổi mới.
18



Thực tiễn của Việt Nam, của từng địa phương, từng ngành vẫn chưa thật
sự được quan tâm như là một tiền đề, điều kiện tối quan trọng để xây dựng, ban
hành, tổ chức thực hiện chính sách. Vì thế, vẫn cịn khơng ít những chính sách
xa với thực tế, gây khó khăn khi tổ chức thực hiện và khơng được dư luận thật
sự đồng tình. Đặc biệt, những căn bệnh chủ quan, duy ý chí, chạy theo thành
tích, thích "đánh bóng hình ảnh", lợi ích cục bộ của từng bộ, ngành hoặc lợi ích
của một số nhóm trong xã hội vẫn tồn tại dai dẳng đã gây những hậu quả không
nhỏ cho xã hội, cho từng ngành và địa phương từ hoạt động hoạch định cho tới
tổ chức thực thi CSC.
2.3. Một số bất cập về quy trình chính sách cơng tại Việt Nam hiện nay
Quy trình hoạch định CSC tuy đã được nghiên cứu cải tiến theo hướng
hiện đại, tiện lợi, dân chủ nhưng nhìn tổng thể vẫn theo cách "có một khơng
hai". Theo đó, có thể chỉ ra những bất cập chủ yếu như:
Làm chính sách vẫn đang được coi là đặc quyền của các cơ quan nhà
nước, của nhà nước nói chung mà chưa phải là cơng việc chung của xã hội, của
các doanh nghiệp, của các nhóm lợi ích trong xã hội.
Có q nhiều chính sách của các bộ, ngành trong khi chúng được xây
dựng phân tán; thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành một cách hợp lý và có cơ
quan chủ trì, chịu trách nhiệm đích thực nên chất lượng khơng cao. Trong khi
đó, hầu hết các chiến lược hay chính sách đều thể hiện sự liệt kê mục tiêu, quan
điểm định hướng, yêu cầu mà thiếu hẳn những kế hoạch hành động cụ thể hay
các biện pháp cần có.
Chưa hình thành được những kênh thơng tin chính thống cần thiết giữa
nhà nước với xã hội trong việc xây dựng, ban hành, thực thi CSC để phúc đáp
những lợi ích cơ bản của đơi bên.

19


Vai trò của các cơ quan thẩm định, phê duyệt chính sách chưa được phát

huy nên đã tạo những kẽ hở đáng kể cho việc ra đời một số chính sách có chất
lượng chưa cao, thậm chí xã hội khơng đồng tình.
Hiện tượng "vận động chính sách" (lobby) tuy chưa được chính thức
thừa nhận ở phương diện luật pháp nhưng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức với
những biểu hiện tiêu cực khác nhau làm ảnh hưởng đến tính cơng bằng của
chính sách, gây những nguy hại nhất định cho xã hội lại chưa được quan tâm
nghiên cứu để có phương hướng và biện pháp xử lý có hiệu lực, hiệu quả.
Trong lĩnh vực tổ chức thực thi CSC bộc lộ những hạn chế, bất cập chủ
yếu về tính kịp thời, đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện, nhất là ở một
số chính sách về kinh tế - xã hội và môi trường trong thời gian gần đây. Hoạt
động tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục, vận động nhằm định hướng dư luận
trong q trình thực hiện chính sách chậm được đổi mới về hình thức, phương
pháp, nội dung; cịn nhiều biểu hiện hình thức, "làm cho có"… nên kém hiệu
quả. Công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa kịp thời, thường xuyên và
thiếu thực chất. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong q
trình thực hiện cịn chậm, nhiều trường hợp thiếu công bằng, nghiêm minh đã
ảnh hưởng xấu đến thực hiện CSC. Công tác tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm
cho hoạch định và thực thi chính sách chưa được coi trọng, chưa làm thường
xuyên, kịp thời. Trong một thời gian dài, hoạt động này chưa thật sự được các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, coi trọng do sự bất cập trong tư duy
làm chính sách. Điều này khơng chỉ đúng với quy trình chính sách của chính
quyền địa phương mà cịn của Chính phủ, các bộ, ngành. Trong những năm gần
đây, thực tiễn cho thấy xã hội đã bắt đầu ý thức rõ hơn về vai trò quan trọng của
hoạt động này trong tổng thể quy trình chính sách. Tuy vậy, xét về tổng thể, hoạt
động phân tích, đánh giá CSC cịn ở trong tình trạng lẻ tẻ, rời rạc, hình thức;
khơng có nhiều những sản phẩm nghiên cứu có tầm cỡ về nội dung, chất lượng
và quy mơ để có thể tạo ra được những đột phá về chính sách trong từng lĩnh
20



vực. Vì những lý do rất khác nhau mà những kết quả nghiên cứu, phân tích,
đánh giá CSC được ứng dụng vào thực tế một cách hữu ích chưa nhiều, gây
lãng phí, thiệt thịi cho tồn bộ quy trình CSC hoặc từng cơng đoạn trong đó.
Việc tiếp thu các kết quả phân tích, đánh giá CSC từ phía các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cịn rất dè dặt, cứng nhắc; thậm chí có những trường hợp tỏ thái
độ phân biệt, phê phán, "chụp mũ"… Số lượng các cơ quan hoặc cá nhân nghiên
cứu về CSC chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thực tế của lĩnh vực này, trong đó bản
thân họ cũng gặp những khó khăn nhất định về khung pháp lý và phản ứng của
một số cơ quan nhà nước.

21


Chương III

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU
QUẢ CỦA CƠNG TÁC CHÍNH SÁCH CƠNG
Giải pháp nâng cao hiệu quả trong quy trình chính sách cơng tại
Việt Nam trong thời gian tới.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động hoạch định và thực
thi CSC ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, cần đặt
trọng tâm vào các vấn đề sau:
Tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự một
cách có hiệu quả của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của cá
nhân người lãnh đạo, quản lý vào quá trình hoạch định và thực thi CSC. Nói
cách khác, làm cho CSC từ chỗ chỉ là chức năng đặc quyền của các cơ quan nhà
nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của tồn xã hội.
Đổi mới quy trình hoạch định CSC theo hướng dân chủ, huy động sự
tham gia đắc lực của toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào xây dựng
chính sách. Từng bước tạo lập một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng

khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ
chế thẩm định và phê duyệt chính sách, nhất là với những chính sách lớn, quan
trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của tồn xã hội.
Chấn chỉnh để nâng cao tính kịp thời, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả của
quá trình tổ chức thực thi CSC. Đặc biệt, coi trọng tính tiên phong của các khâu
tuyên truyền, vận động, định hướng dư luận xã hội trong quy trình thực hiện
chính sách. Tăng cường cơng tác đơn đốc, kiểm tra, giám sát về tiến độ, hiệu
22


quả thực hiện CSC. Phát hiện và xử lý kịp thời, công bằng, minh bạch các khiếu
kiện, vi phạm pháp luật nảy sinh.
Coi trọng hoạt động tổng kết thực tiễn về hoạch định, thực thi CSC theo
hướng thường xuyên, thiết thực; tránh phơ trương, hình thức, lãng phí để rút
kinh nghiệm cần thiết, bổ ích cho các hoạt động đó.
Đề cao vai trị của hoạt động phân tích, đánh giá CSC như là một điều
kiện tối quan trọng để từng bước cải thiện chất lượng của quy trình hoạch định
và thực thi chính sách. Có cơ chế ràng buộc các cơ quan nhà nước trong việc
phản hồi ý kiến, tiếp nhận các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá CSC.

23


KẾT LUẬN
Mặc dù việc luật hoá, hay quy định về một quy trình hoạch định chính
sách đầy đủ trong hoạt động Quốc hội cần có lộ trình cải cách từng bước, nhưng
cần nhận thức rõ về một quy trình logic với những giai đoạn hoạch định chính
sách chính. Bởi vì, như đã nói, đây là bước quan trọng ban đầu tiếp cận với
nghiên cứu và thực hành chính sách, đặc biệt đối với Việt Nam khi khoa học
chính sách vẫn cịn là lĩnh vực mới. Bên cạnh đó, bổ sung quy định liên quan

đến quy trình hoạch định chính sách và phân tích chính sách khơng có nghĩa là
gia tăng gánh nặng cho hoạt động lập pháp. Bởi lẽ, đây là những yêu cầu tối
thiểu cần thực hiện để có được hệ thống chính sách, pháp luật chất lượng cao.
Các quy định chuẩn hố sẽ làm cho q trình này trở nên minh bạch, rõ ràng
hơn và cũng tạo thuận lợi hơn cho hoạt động Quốc hội trong dài hạn.
Trong mối quan hệ với quy trình chính sách, quy trình lập pháp đóng vai
trị trung tâm, do các dự luật và hầu hết các chính sách cơ bản, quan trọng cần
được thông qua bởi Quốc hội. Quốc hội không nên uỷ quyền cho các cơ quan
khác quyết định thay. Nói cách khác, chính sách trong đề nghị xây dựng luật và
các dự án luật chỉ nên được thông qua bởi Quốc hội trong phiên họp toàn thể,
đồng thời với việc thơng qua dự án luật trong quy trình lập pháp. Để có được
một hệ thống pháp luật dễ đi vào đời sống, hay thực tiễn cuộc sống được phản
ánh kịp thời vào luật, thì cần thiết xây dựng hệ thống chính sách tốt. Mặt khác,
chỉ khi thực hiện tốt việc phân tích chính sách để phát hiện đúng vấn đề, đề xuất
và chọn lựa đúng phương án, đánh giá toàn diện việc thực thi thì mới góp phần
giải quyết được tình trạng chính sách và pháp luật xa rời đời sống xã hội. Vì
vậy, cần hỗ trợ nâng cao vai trò QĐCS thể hiện qua quyền lập pháp và quyết
định các vấn đề quan trọng về kinh tế – xã hội của Quốc hội, để các ĐBQH
đúng là những nhà hoạch định chính sách. Để làm tốt điều này, trước mắt, cần
tăng cường hoạt động của ĐBQH chuyên trách, tiến đến một Quốc hội hoạt
động thường xuyên, chuyên nghiệp.
24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cobb, Roger 1976. "Agenda setting as a comparative political process"
American Political Science Review 70, tr. 126-38.
2. Daugbjerg, Carsten and David Mash, 1998. "Explaining policy outcomes:
Integrating the policy network approach with macro level and micro level
analysis, comparative policy network" Buckingham: Open University

Press, tr. 190-230.
3. TS. Lê Vinh Danh, Chính sách cơng của Hoa Kỳ, giai đoạn 1935-2001,
Nxb Thống kê, H. 2001.
4. TS. Đỗ Phú Hải, Những vấn đề cơ bản của chính sách cơng, Học viện
KHXH, 2012.
5. PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải, Học viện Hành chính quốc gia, Hoạch định
và phân tích chính sách cơng (dùng cho đào tạo đại học hành chính),
Nxb Thống kê, H. 2002.
6. Howlette M. 2007. "Studying public policies". Sage Publications.
7. Knode, David, 1993. "Network as Political Glue: Explaining Public
Policy – Making, in W.J.Wilsoned", Socialogy and Public Agenda.
London: Sage, tr. 67-120.
8. Rhodes, R.A.W 1997. "Understanding governance: Policy networks,
Governance, Reflexibility and Accountability". Buckingham: Open
University Press, tr. 91-130.
9. PGS.TS. Lê Chi Mai, Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình
chính sách, Nxb Đại học quốc gia TP. HCM, 2001.
10.GS.TS. Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật: Những vấn đề cơ bản;
Học viện KHXH, Nxb Khoa học xã hội, H. 2012, tr. 180-195.
11. William N. Dunn. 2008. "Public Policy Analysis: An Introduction". (New
Jersey: Pearson), tr. 10-190.

25


×