Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Đảng lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của mặt trận tổ quốc việt nam (1996 2011)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.63 KB, 104 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc ta đã trải qua hàng nghìn nǎm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Quá trình lịch sử ấy đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, bất
khuất của dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sự đồng tâm của đồng bào ta
đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt
đến mức nào, đụng đầu nhằm vào bức tường đó, chúng cũng phải thất bại.
Một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam là
Đảng ta đã xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng lực lượng cách
mạng trong một Mặt trận dân tộc thống nhất.
Trong thực tiễn đấu tranh giành và giữ chính quyền trước đây, cũng như
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Mặt trận dân tộc thống
nhất là sự thực hiện bằng tổ chức việc tập hợp và phát huy sức mạnh tồn dân
trong sự nghiệp chung: giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Từ ngày
thành lập, Đảng ta đã coi Mặt trận dân tộc thống nhất là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược và đã phê phán mọi biểu hiện coi nhẹ công tác mặt trận, hạ thấp
vai trò của quần chúng, coi thường nhân tố dân tộc trong cách mạng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói: cơng tác mặt trận là một cơng tác rất quan trọng trong
tồn bộ cơng tác cách mạng. Để hình thành được mặt trận, tập hợp được hết
thảy các lực lượng cách mạng và tiến bộ trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng
đã đề ra những chủ trương, chính sách thích hợp nhằm đồn kết tồn dân, phấn
đấu cho một mục tiêu nhất định xem đó là chương trình hành động thống nhất
của tất cả các giai cấp, các đảng phái, các lực lượng tham gia Mặt trận dân tộc
thống nhất. Thể hiện tính chất quần chúng rộng rãi trong cơng tác mặt trận, Đảng
cịn linh hoạt trong việc lựa chọn các hình thức và tên gọi của mặt trận, phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể và mục tiêu, nhiệm vụ từng thời kỳ cách mạng như: Mặt
trận dân chủ, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc, Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. v.v.. Có mặt trận được tổ chức chặt chẽ



2
theo hệ thống từ trung ương đến cơ sở; có mặt trận chỉ mang tính chất liên hiệp
hành động; nhưng tất cả đều nhằm tập hợp, động viên được hết thảy mọi người
tích cực tham gia vào sự nghiệp chung giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc.
Trong giai đoạn Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhất là thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất
nước ta cũng đang đứng trước khơng ít nguy cơ và thách thức lớn. Để thực
hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng phải mạnh từ Trung ương đến cơ sở,
phải nâng cao năng lực lãnh đạo của mình. Trong đó, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở các cấp là vấn đề cấp thiết và
quan trọng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trị rất quan trọng trong hệ thống chính
trị. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc trực tiếp chỉ đạo các hoạt động
tuyên truyền, vận động nhân dân, nắm bắt, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân, chỉ đạo và tổ chức nhân dân thực hiện mọi chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trực tiếp định hướng hoạt động
bằng các chương trình, đề án giúp cho cơ sở đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động, đặc biệt là việc thường xuyên kiểm tra, giám sát cơ sở, giám sát cán
bộ, đảng viên và các cơ quan nhà nước, phối hợp với chính quyền trong việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Mặt trận Tổ quốc trực tiếp tham
mưu cho Đảng có chủ trương đúng trong việc lãnh đạo nhân dân và các cấp ủy
Đảng, chính quyền thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước. Mặt trận Tổ quốc còn trực tiếp phản
ánh kịp thời tình hình nhân dân cho cấp ủy, đồng thời là tổ chức tiến hành hiệp
thương trong công tác bầu cử, lựa chọn cán bộ, đánh giá cán bộ, trực tiếp góp ý
vào cơng tác xây dựng Đảng. Vì vậy, xây dựng và phát huy vai trị của Mặt trận



3
Tổ quốc Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng, một bộ phận trọng yếu trong
hoạt động lãnh đạo toàn diện của Đảng.
Trong những năm qua, Đảng ta đã luôn tăng cường sự lãnh đạo đối với
HTCT, trong đó có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Xây dựng Mặt trận Tổ quốc
vững mạnh, là nơi phát huy mạnh mẽ khối đại đoàn kết toàn dân, là cầu nối
giữa Đảng với dân. Vì thế, đất nước đã ln giữ vững được sự ổn định chính
trị, tăng cường đồn kết thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân
dân, thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Tuy nhiên, ở một số nơi sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
vẫn còn nhiều yếu kém như còn lúng túng trong nội dung và phương thức
lãnh đạo, còn biểu hiện bng lỏng sự lãnh đạo, khốn trắng các hoạt động
cho Mặt trận Tổ quốc, chưa thường xuyên coi trọng việc xây dựng điển hình
tiên tiến, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để nhân ra diện rộng, chưa chú ý
đúng mức đến việc xây dựng, củng cố tổ chức Mặt trận Tổ quốc. Hiện nay,
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở nhiều nơi vẫn còn kém hiệu quả,
thậm chí rơi vào hình thức và có xu hướng ngày càng hành chính hố, xa
dân, chưa thực sự đại diện cho quyền lợi chính đáng của nhân dân; đội ngũ
cán bộ chuyên trách thiếu và yếu; phương thức, nội dung hoạt động thiếu
linh hoạt, chưa thực tế, chưa làm hết chức năng, nhiệm vụ của mình. Những
yếu kém đó đã hạn chế khơng nhỏ đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của
đất nước.
Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới vững bước đi lên và đẩy mạnh hơn
nữa công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề xây dựng và
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc cần được chú trọng hơn bao giờ hết,
đây là vấn đề thực sự cần thiết và cấp bách. Là một giảng viên dạy môn Đường
lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam ở một trường Đại học, tuy không
trực tiếp hoạt động trong Mặt trận Tổ quốc nhưng tôi muốn cống hiến một



4
phần sức lực của mình cho thế hệ tương lai thấy được vị trí và tầm quan trọng
của Mặt trận Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, tôi chọn và thực hiện
đề tài "Đảng lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (1996 - 2011)” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với HTCT trong thời kỳ đổi mới
là một nội dung hết sức quan trọng trong tồn bộ hoạt động lãnh đạo của
Đảng, trong đó sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng và phát huy vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được đề cập trong một số văn kiện Đảng. Gần
đây Đảng đã ra một số nghị quyết chuyên đề về vấn đề này như: Nghị quyết
Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX về phát huy sức
mạnh đại đồn kết tồn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc, tôn giáo. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X về đổi mới, kiện tồn tổ chức
bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng về tổ chức bộ máy Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội... Đây là những cơ sở rất quan trọng
để nghiên cứu đề tài luận văn.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với HTCT, đặc biệt là xây dựng Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đã thu hút nhiều nhà khoa học nghiên cứu thực hiện ở các
cơng trình khoa học, kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đó đã
được nghiệm thu, đăng tải trên các sách, báo, tạp chí. Có một số cơng trình
tiêu biểu như:
* Sách:
- GS.Nguyễn Đức Bình, GS,TS.Trần Ngọc Hiên (đồng chủ biên), "Đổi
mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới", Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Trong đó có một phần bàn về Đảng lãnh

đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc.


5
- Minh Châu, “Cẩm nang công tác Mặt trận”, Nxb Văn hóa - Thơng
tin, Hà Nội 2006.
- Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên), “Đổi mới tổ
chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội ở
nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
- Phạm Thế Duyệt, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chiến lược đại
đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Việt Nam 20 năm đổi mới và phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2006.
- Nguyễn Thị Hiền Oanh, “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối
với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay”, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2005.
* Các đề tài khoa học:
- "Đặc điểm nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ thống
chính trị. Mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể tổ chức xã hội"
đề tài khoa học cấp nhà nước giai đoạn 1996-2000 do PGS.Vũ Hữu Ngoạn chủ
biên, đã nghiệm thu.
Đề tài đã nghiên cứu làm sáng tỏ thêm các vấn đề lý luận và thực tiễn
về sự lãnh đạo của Đảng đối với HTCT nước ta gồm: Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo HTCT trước và trong thời kỳ đổi mới; vị trí, vai trò lãnh đạo
của Đảng trong HTCT, đặc điểm và cơ chế lãnh đạo của Đảng; Đảng lãnh đạo
Nhà nước... đặc biệt đề tài đã giành một chương nghiên cứu về sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân. Đây là những vấn đề rất bổ ích để nghiên cứu đề tài luận văn.
- "Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước,
vấn đề và kinh nghiệm", đề tài khoa học cấp bộ do TS.Nguyễn Văn Sáu làm chủ
nhiệm, đã nghiệm thu, in thành sách năm 2003, do Nxb Chính trị Quốc gia xuất

bản. Trong đó có một số chương bàn về vai trò của Mặt trận Tổ quốc đối với
việc tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.


6
* Một số bài đăng trên tạp chí và sách:
- "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong bầu cử cơ quan dân cử
ở nước ta", Vũ Thị Loan, Tạp chí Cộng sản, số 4/2004.
- "Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay"
của Huỳnh Đảm, Tạp chí Cộng sản, số 19/2004.
- "Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã
hội ở nước ta hiện nay" của TS Thang Văn Phúc, Tạp chí Cộng sản, số 13/2005.
- "Mặt trận Tổ quốc và chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn
hiện nay" của Phạm Thế Duyệt đăng trong cuốn sách "Việt Nam đổi mới và phát
triển", Nxb Lao động Hà Nội, năm 2006.
- "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam" của Nguyễn Túc, in trong cuốn sách: “Phương thức lãnh đạo của
Đảng”, Nxb Lao động 2008.
Các cơng trình khoa học nói trên đã nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận
và thực tiễn trên các phương diện khác nhau về sự lãnh đạo của Đảng đối với
Mặt trận Tổ quốc ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đó là những tài liệu quý
báu để tác giả tham khảo, kế thừa. Tuy nhiên chưa có cơng trình nào đi sâu
nghiên cứu về vấn đề xây dựng và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam (1996 - 2011).
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Luận văn nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn xây dựng
và phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2011.
- Đánh giá kết quả và rút ra một số kinh nghiệm để phát huy hơn nữa vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Luận văn làm rõ vị trí chiến lược của cơng tác Mặt trận.


7
- Luận văn khái quát vấn đề xây dựng, vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trước năm 1996.
- Luận văn khảo sát, nghiên cứu, đánh giá quá trình Đảng lãnh đạo xây
dựng, phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1996 đến năm
2011, chỉ rõ những kết quả đạt được trong quá trình xây dựng, bao gồm cả
thành tựu, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm để tiếp tục phát huy hơn nữa
vai trò của Mặt trận Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo
xây dựng và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khảo sát, nghiên cứu quá trình Đảng
lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm
1996 đến năm 2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như các Cương lĩnh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về sự lãnh đạo của Đảng đối với HTCT nói chung và đối
với Mặt trận Tổ quốc nói riêng.
- Luận văn kế thừa có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu của các nhà
khoa học có liên quan đã cơng bố, nghiệm thu, đồng thời còn sử dụng những
tài liệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có liên quan đến đề tài.
- Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lơgíc,
kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành như thống kê,
so sánh, tọa đàm với các chuyên gia, cán bộ chỉ đạo thực tiễn, cán bộ lão

thành cách mạng.
6. Cái mới của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng và
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, luận văn:


8
- Làm rõ những bước phát triển trong tư duy và đường lối lãnh đạo của
Đảng về xây dựng và phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1996 - 2011).
- Khẳng định những thành tựu, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm để
phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thời kỳ đổi mới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn cịn có thể được dùng làm tài liệu
tham khảo phục vụ giảng dạy, học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là trong Chương VI: Đường lối xây dựng hệ
thống chính trị.
8. Cấu trúc luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được triển khai thành 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1. Tính tất yếu khách quan xây dựng và phát huy
vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1.1.1. Những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xây dựng Mặt trận dân tộc

thống nhất
1.1.1.1. Khái niệm về Mặt trận
Trong từng giai đoạn lịch sử, khái niệm Mặt trận được định nghĩa theo
nhiều cách khác nhau:
Theo Hồ Chí Minh: Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị
đơng đảo nhất, rộng rãi nhất, nơi quy tụ ý chí dân tộc, tinh thần dân tộc, là
môi trường tập hợp lực lượng, rèn luyện và phát huy bản lĩnh chính trị của các
lực lượng trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Mặt trận là cơ sở quần chúng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với nhân
dân để làm cho Đảng ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Với vai trị liên
minh chính trị, ngun Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Trường Chinh
trong cuốn Về Công tác Mặt trận hiện nay đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc
khơng đứng ngồi cuộc mà cùng Đảng đồng tâm hiệp lực trong đội ngũ cách
mạng kiên cường, khắc phục khó khăn, phấn đấu ổn định tình hình kinh tế xã hội bằng những hành động cụ thể, nói đi đơi với làm” [6, tr.10].
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất
Việt Nam (18-11-1930 - 18-11-1990), nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Việt Nam Nguyễn Văn Linh, trong bài phát biểu của mình đã khẳng định:
"Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam là một nhân tố thắng lợi của cách
mạng, là vũ khí chính trị khơng thể thiếu được để nhân dân ta phát huy sức
mạnh tổng hợp của mình trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại
độc lập - tự do và xây dựng cuộc sống ấm no - hạnh phúc"


10
Văn kiện Đại hội lần thứ VII của Đảng (năm 1991) ghi rõ: "Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đồn thể nhân dân, các cá nhân
tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tơn giáo, là cơ sở
chính trị của chính quyền Nhà nước" [10, tr.146].
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Khoản 1, Điều 1 ghi rõ:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp

tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp và tầng lớp
xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước
ngoài [32, tr.8]
Tóm lại, Mặt trận là tổ chức tập hợp rộng rãi các tầng lớp xã hội, các
giai cấp, dân tộc, tôn giáo, nhân sĩ nhằm tạo nên sức mạnh to lớn cho cách
mạng, phục vụ lợi ích của các thành viên và lợi ích của cách mạng, của dân
tộc, của đất nước.
1.1.1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin về đại đoàn kết dân tộc và tập hợp lực
lượng cách mạng
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, quần chúng nhân dân là động lực
cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, đóng vai trị quyết định đến thắng lợi
của mọi cuộc cách mạng. Cách mạng là ngày hội của quần chúng và là sự nghiệp
của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Trong cuộc cách mạng đó,
giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc.
Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ:
Trong cuộc đấu tranh của mình, Đảng Cộng sản khơng chỉ tập hợp trong hàng
ngũ của mình giai cấp vơ sản mà các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công
nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công, nông dân khi sắp rơi vào hàng ngũ vơ sản
lúc đó họ từ bỏ quan điểm của chính họ đứng trên quan điểm của giai cấp vơ
sản để bảo vệ lợi ích tương lai của họ. Đồng thời, Mác và Ǎngghen cũng chỉ
rõ: "... Những người cộng sản phấn đấu cho sự đoàn kết và liên hợp của các
đảng dân chủ ở tất cả các nước" [31].


11
Mác nêu khẩu hiệu "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại", để chống lại kẻ
thù chung là chủ nghĩa tư bản.
Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, làm cách
mạng vô sản thành công ở nước Nga, lực lượng công - nông là cơ sở để xây

dựng lực lượng to lớn của cách mạng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đại
đoàn kết quốc tế. Khẩu hiệu của Mác được mở rộng thành "Vơ sản tồn thế
giới và các dân tộc bị áp bức đồn kết lại".
Lênin cho rằng: chỉ một mình giai cấp vô sản tiến hành cuộc đấu tranh một
cách đơn độc thì đó khơng những là một điều dại dột mà còn là một tội ác nữa.
1.1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh đại
đồn kết tồn dân tộc; về vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Mặt trận
dân tộc thống nhất là sự kế thừa, phát triển truyền thống đồn kết hàng nghìn
năm lịch sử của dân tộc, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của
quần chúng trong lịch sử, tập hợp lực lượng cách mạng, liên minh giai cấp,
đoàn kết dân tộc và cũng là kết quả hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận
của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân
tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, đáp ứng những yêu cầu, địi hỏi của chính
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người về Mặt trận dân tộc
thống nhất được thể hiện trên những nội dung chính sau:
Muốn cách mạng giành thắng lợi thì phải đại đồn kết dân tộc
Cách mạng muốn giành được thắng lợi, thì một trong những nhân tố
quan trọng là phải đại đoàn kết toàn dân tộc. Lực lượng quần chúng là vĩ đại,
là tác giả của lịch sử, song phải biết tập hợp, tổ chức lại thì mới phát huy được
sức mạnh to lớn ấy. Muốn đại đồn kết dân tộc thì phải tổ chức để đoàn kết tập
hợp quần chúng. Tổ chức lực lượng đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Sự
hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời là một tất yếu lịch sử.


12
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh:
Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng

Đây chính là chiến lược cách mạng, là tư tưởng cơ bản mà Người đã rút
ra từ truyền thống đấu tranh anh dũng đầy hy sinh gian khổ và rực rỡ chiến
công của dân tộc ta, đã trở thành chân lý về đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận
dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất là một hình thức tập hợp quần chúng rộng rãi.
Mặt trận đại diện cho đại đa số quần chúng, đại diện cho quyền lợi dân
tộc, mọi người tham gia Mặt trận đều tự nguyện và bình đẳng, khơng có sự phân
biệt đối xử. Người cho rằng: "Từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành hịa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, thì chúng ta sẵn sàng đồn kết với họ, thật thà hợp
tác với họ, dù từ trước đến nay họ đã theo phe phái nào" [40, tr.49].
Mặt trận là nơi tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, thực hiện
thêm bạn, bớt thù, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù nguy hiểm nhất.
Xu hướng hẹp hòi, biệt phái, phân biệt đối xử là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh,
chẳng những khơng tập hợp được lực lượng cách mạng rộng rãi mà còn làm tăng
thêm kẻ thù, giảm bớt bầu bạn, làm tổn hại cho sự nghiệp cách mạng.
Giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong Mặt trận dân tộc
thống nhất là một sáng tạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Vận dụng học thuyết Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân vào hồn cảnh cụ thể nước ta, trong
tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã chỉ rõ: Công nông là gốc của cách
mệnh và Đảng phải tập hợp được đơng đảo cơng nơng, tiểu tư sản, trí thức,
trung nông và cả bộ phận tư sản, địa chủ tiến bộ. Người chỉ ra rằng: liên minh
công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời Người cũng
chỉ rõ Mặt trận còn là nơi thể hiện sức mạnh của dân tộc, bao gồm mọi người
Việt Nam thực sự yêu nước, tiến bộ. Với quan điểm đó, Hồ Chí Minh đã đặt


13
vấn đề giai cấp (liên minh cơng nơng) trong lịng dân tộc (Mặt trận dân tộc
thống nhất). Các giai cấp nằm trong Mặt trận dân tộc thống nhất là nằm trong

liên minh giai cấp, liên minh với các tầng lớp yêu nước khác, không phải đấu
tranh để lật đổ, tiêu diệt, loại trừ giai cấp, mà là tạo thành lực lượng thống
nhất của cả dân tộc để giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặt
liên minh công nông trong khuôn khổ Mặt trận dân tộc thống nhất, Hồ Chí
Minh đã giải quyết một cách sáng tạo mối quan hệ hài hòa giữa dân tộc và
giai cấp ở nước ta.
Điểm cốt lõi trong quan điểm của Hồ Chí Minh là đặt vấn đề giai cấp
trong vấn đề dân tộc, giai cấp phải phục tùng dân tộc và vai trị của liên minh
cơng nơng chính là ở chỗ nó phải đồn kết tập hợp được các giai tầng khác và
làm cho Mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng mạnh lên, nếu không khối liên
minh công nông sẽ tự đánh mất vai trị lịch sử của chính mình. Chúng ta cần
loại trừ khuynh hướng biệt phái trong Mặt trận dân tộc thống nhất, không
phân biệt đối xử giữa công nông và các giai tầng khác trong khối đại đoàn kết
dân tộc.
Mặt trận dân tộc thống nhất là một chiến lược lâu dài của cách mạng,
không phải là sách lược tạm thời
Đây là quan điểm rất cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Mặt trận dân
tộc thống nhất. Xuất phát từ quan điểm đoàn kết lâu dài với mọi người yêu nước
và tiến bộ, Người khẳng định, "trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng
như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một
trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam" [42, tr.605].
Theo Người, sự nghiệp xây dựng đất nước là sự nghiệp của hàng triệu
quần chúng chứ không phải sự nghiệp của một số ít người. Vì vậy, vẫn phải đồn
kết, tập hợp mọi người Việt Nam yêu nước và tiến bộ, tán thành mục tiêu độc
lập, tự do, hạnh phúc.


14
1.1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển Mặt trận dân tộc
thống nhất

Từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta, biến
nước ta thành một nước thuộc địa và nửa phong kiến, thi hành chính sách cai
trị tàn ác đối với nhân dân ta. Các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã liên tục
nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc nhưng đều không thành công, các
phong trào đấu tranh chưa biết phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc,
không quy tụ được mọi lực lượng yêu nước trong nước và khủng hoảng về
đường lối cứu nước. Để giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam
lúc đó cần phải có đường lối cứu nước đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân và xu thế của thời đại, cần phải có tổ chức cách mạng thích hợp để có
thể tập hợp tồn dân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhu cầu lập một tổ
chức tập hợp mọi lực lượng yêu nước rộng rãi được đặt ra bức thiết.
Trong bối cảnh mới, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam yêu nước đầu
tiên tìm thấy ánh sáng giải phóng dân tộc theo đường lối mới. Thắng lợi của
cách mạng Tháng Mười Nga và đặc biệt là chủ nghĩa Lênin đã tạo ra bước
ngoặt quyết định trong lập trường cứu nước của Người. Nguyễn Ái Quốc đã
tìm tịi, vận dụng lý luận cách mạng tiên tiến vào nước ta, hình thành đường
lối cứu nước, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản và các tổ chức cách mạng của quần chúng. Trong hồn cảnh
đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất cũng từng
bước được hình thành và trở thành một bộ phận trong đường lối đấu tranh giải
phóng dân tộc. Một đặc điểm của cách mạng Việt Nam chính là Mặt trận dân
tộc thống nhất ra đời ngay sau sự ra đời của Đảng Cộng sản và trong suốt các
thời kỳ cách mạng do Đảng lãnh đạo, không khi nào vắng bóng tổ chức Mặt
trận dưới các hình thức và tên gọi khác nhau.
Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng năm 1930 xác định cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản


15
dân quyền với hai nhiệm vụ chiến lược, có quan hệ khăng khít với nhau là

đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc, xây dựng nhà nước
dân chủ, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng đó phải lấy cơng nơng
làm động lực chính, do giai cấp công nhân lãnh đạo và là một bộ phận của
cách mạng thế giới. Ngồi cơng nơng, Đảng cần phải tranh thủ các giai cấp và
tầng lớp có tinh thần dân tộc: phân hóa, cơ lập những phần tử chống cách
mạng. Như vậy, nguyên tắc cơ bản về chiến lược, sách lược xây dựng Mặt
trận dân tộc thống nhất là: Đảng của giai cấp vô sản phải lãnh đạo quần
chúng, dựa vào dân cày nghèo, lơi kéo về phía mình các tầng lớp tiểu tư sản,
trí thức, trung nơng...; đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư bản Việt Nam
mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra làm cho họ trung lập,
bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Tháng 10 năm 1930, cùng với việc thông qua Luận cương, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã ra "Án nghị quyết về vấn đề phản đế", chỉ rõ Đơng
Dương có nhiều lực lượng phản đế cần phải liên hiệp lại thành một phong trào
thống nhất. Chỉ sau hơn một tháng, ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng
minh, đề ra nội dung cơ bản về tính chất, nhiệm vụ và những biện pháp xây
dựng mặt trận dân tộc thống nhất. Hội phản đế đồng minh ra đời, là hình thức
đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất, đánh dấu bước phát triển về chất của
phong trào yêu nước của nhân dân ta, là cống hiến vĩ đại về lý luận và thực
tiễn của Nguyễn Ái Quốc, gắn với phong trào yêu nước và phong trào công
nhân quốc tế, kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ Hội phản đế đồng minh, tiền thân của mặt trận tổ quốc Việt Nam
được thành lập năm 1930 đến nay hơn 80 năm. Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã
trải qua nhiều chặng đường lịch sử vẻ vang, hào hùng, gắn liền với lịch sử đấu
tranh cách mạng của Đảng và dân tộc ta.


16
Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền từ năm 1930 - 1945, với ba cao

trào cách mạng có ý nghĩa như những cuộc tổng diễn tập chuẩn bị cho cách
mạng tháng Tám: Đó là cao trào 1930 - 1931, cao trào đấu tranh đòi quyền
dân sinh, dân chủ và hòa bình 1936 - 1939, cao trào giải phóng dân tộc 1939 1945. Trong mỗi thời kỳ đó, tên gọi của Mặt trận Tổ quốc cũng thay đổi tùy
theo tính chất, nhiệm vụ để xác định sách lược cho việc tập hợp lực lượng
như: Hội phản đế đồng minh (1930); Hội phản đế liên minh (1935); Mặt trận
dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương (gọi tắt là mặt trận dân chủ Đông
Dương) (1938)); Mặt trận dân dộc thống nhất phản đế (1940); đến năm 1941,
Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ tám, tạm gác nhiệm
vụ cách mạng thổ địa để lôi kéo địa chủ tiến bộ, mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất chống Pháp và Nhật, quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc
lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh.
Đến thời kỳ Mặt trận Việt Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất mới thực
sự trở thành một thực thể tổ chức, có tun ngơn, chương trình, điều lệ, có
chính sách cụ thể được thi hành một cách thiết thực. Từ tổ chức Việt Minh,
Đảng đã xây dựng nên lực lượng vũ trang. Việt Minh đã đóng vai trị chính
quyền nhân dân trong vùng giải phóng. Thực tế đã chứng tỏ, tuy tổ chức Việt
Minh còn phát triển hạn chế, nhưng là một tổ chức Mặt trận đỉnh cao về hiệu
quả và ảnh hưởng thiết thực trong toàn dân, một thực thể chính trị - xã hội
rộng rãi, mạnh mẽ, vững chắc, là một đỉnh sáng chói lọi của lịch sử Mặt trận
dân tộc thống nhất Việt Nam.
Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, Mặt trận Việt
Minh thực hiện thắng lợi sứ mệnh là ngọn cờ tập hợp toàn dân, mở ra bước
ngoặt vĩ đại cho lịch sử dân tộc ta. Kể từ năm 1930 đến năm 1945, trải qua 15
năm phấn đấu, Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam mang tên Việt Minh đã
hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân.


17
Thời kỳ bảo vệ và phát triển cách mạng tháng Tám, tiến hành chống
Pháp và Mỹ xâm lược (1945 - 1975)

Trong hồn cảnh hết sức khó khăn, thực dân Pháp núp dưới danh nghĩa
quân đồng minh tước vũ khí Nhật để nổ súng tiến hành chiến tranh xâm lược
nước ta lần thứ hai, nạn đói đe dọa sinh mệnh hàng triệu người. Bác Hồ và
Đảng đã lãnh đạo Việt Minh mở rộng tổ chức lực lượng, tuyên truyền vận
động nhân dân chống ba thứ giặc: "Giặc đói", "giặc dốt" và "giặc ngoại xâm".
Tháng 5-1946 Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập. Do yêu cầu
của việc tăng cường đoàn kết và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam, ngày 3-3-1951, Mặt trận thống nhất Việt Minh - Liên Việt tiến hành Đại
hội toàn quốc, thống nhất tổ chức lấy tên là Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt
Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt), đã tập trung mọi lực lượng yêu nước, góp
phần đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Sau kháng
chiến chống Pháp thắng lợi, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai
nhiệm vụ chiến lược, có mục tiêu chung là hồn tồn độc lập dân tộc, thống nhất
tổ quốc. Tháng 9-1955, Mặt trận tổ quốc Việt Nam được thành lập ở miền Bắc với
nhiệm vụ vận động nhân dân thi đua yêu nước, tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm, cải tạo và xây dựng miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho đấu tranh thống
nhất nước nhà. Đồng thời, thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt
Nam (1960) cùng Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hịa bình miền
Nam Việt Nam (1968) trong cơng cuộc giải phóng hồn toàn miền Nam.
Mặt trận Tổ quốc của nước Việt Nam thống nhất ra đời đã đoàn kết toàn
dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 31-01-1977, tại thành phố mang tên Bác, Đại hội Mặt trận dân tộc
thống nhất Việt Nam quyết định thống nhất các tổ chức mặt trận ở cả hai miền
thành tên gọi chung là Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Đây là mốc son lịch sử quan
trọng, đánh dấu bước phát triển mới của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong giai
đoạn cách mạng mới.


18
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp xã

hội rộng rãi và là một tổ chức trong hệ thống chính trị của nước Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Vị trí đó được ghi nhận trong các chủ trương của
Đảng, trong Hiến pháp và trong các quy phạm pháp luật. Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Khoản 2, Điều 1 ghi rõ: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ
phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo" [32, tr.9].
Tính chất liên minh của Mặt trận đã thể hiện Mặt trận khơng phải là
một đồn thể, một tổ chức của một giai cấp nào đó mà là liên minh chính trị xã hội của tất cả các lực lượng chính trị - xã hội trong nước. Là một tổ chức
liên minh chính trị - xã hội, Mặt trận khơng có hội viên mà chỉ có các thành
viên nên hoạt động của Mặt trận được thể hiện qua hoạt động của các thành
viên là chủ yếu. Liên minh chính trị - xã hội của Mặt trận bao gồm:
Tổ chức chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các tổ chức chính trị- xã hội: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội
Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Các tổ chức xã hội: Hội Chữ thập đỏ, Hội Người cao tuổi,...
Ngoài ra, tham gia Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cịn có các tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Quân đội nhân
dân Việt Nam; các cá nhân tiêu biểu.
Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có 46 tổ chức thành viên và
nhiều cá nhân tiêu biểu.
Mỗi tổ chức thành viên của Mặt trận có những đặc điểm riêng, tính chất
riêng, đối tượng tập hợp riêng nhưng đều có những điểm tương đồng nên tự
nguyện gia nhập vào Mặt trận. Điểm tương đồng đó là: Xây dựng một nước
Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất, "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh". Trong Mặt trận Tổ quốc, các thành viên được tôn


19
trọng, được bàn bạc công khai, dân chủ. Mỗi quyết định của Mặt trận đưa ra

không thực hiện theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số mà dựa trên sự tự
nguyện, thoả thuận giữa các tổ chức do Uỷ ban Mặt trận các cấp chủ trì. Vì
thế, Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, phối hợp và
thống nhất hành động.
Khoản 2, Điều 1, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về chức năng, vị trí
của Mặt trận đã ghi:
Là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí,
nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất
hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh [32, tr.9].
Điều 2, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định nhiệm vụ của Mặt
trận là:
Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân, tăng cường sự nhất
trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân. Tuyên truyền, động viên
nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật.
Giám sát hoạt động các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán
bộ, công chức nhà nước, tập hợp ý kiến kiến nghị của nhân dân để
phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước. Tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân. Chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân. Tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác
giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên
thế giới [32, tr.10].
Về nghĩa vụ của thành viên, điều 2 Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
nêu rõ: Thực hiện điều lệ và chương trình Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuyên



20
truyền, vận động hội viên, đoàn viên, nhân dân thi hành Hiến pháp và pháp
luật. Đôn đốc các thành viên của tổ chức mình, thực hiện đúng chính sách đại
đồn kết dân tộc, tham gia công tác Mặt trận ở nơi cư trú. Đoàn kết, hợp tác,
giúp đỡ các tổ chức, cá nhân chưa gia nhập Mặt trận có tinh thần hưởng ứng,
ủng hộ, thực hiện chương trình hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Những nhiệm vụ trên cũng nhằm thực hiện chủ trương đoàn kết rộng
rãi, đoàn kết mọi thành viên trong xã hội có thể đồn kết được, không phân
biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước
hay ở nước ngoài, đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết chân thành, đoàn kết trên cơ sở
mục tiêu chung là: giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc.
Trong quá trình hoạt động, Mặt trận có quan hệ chặt chẽ với các tổ
chức trong hệ thống chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa
là tổ chức lãnh đạo Mặt trận. Là tổ chức lãnh đạo:
Đảng khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của
mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất
và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi
quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh
đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo [37, tr.139].
Đảng lãnh đạo là thực hiện vai trị tiên phong của mình trong việc đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách, bằng cơng tác tun truyền, vận động,
thuyết phục, bằng tổ chức, kiểm tra và bằng vai trò gương mẫu của đảng viên.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là tất yếu khách quan, là vấn đề có tính
ngun tắc, đảm bảo cho Mặt trận không ngừng được củng cố và mở rộng.
Trong q trình hoạt động, Mặt trận có quan hệ chặt chẽ với các tổ
chức trong hệ thống chính trị mà trực tiếp là Nhà nước. Mọi chủ trương, chính
sách, pháp luật, mọi kế hoạch hoạt động của Nhà nước đều quan hệ đến các
giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, đều ảnh hưởng và tác động đến



21
khối đại đoàn kết toàn dân. Để tăng cường và củng cố đồn kết phải trên cơ sở
chính sách, pháp luật. Mặt trận phối hợp với Nhà nước mới có khả năng và điều
kiện thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của mình.
1.2. Thực trạng cơng tác xây dựng và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1986 đến trước năm
1996 và một số vấn đề đặt ra
1.2.1. Thực trạng
1.2.1.1. Công tác xây dựng Mặt trận Tổ quốc của Đảng từ năm 1986
đến trước năm 1996
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới, cùng với đổi
mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, quan điểm về đoàn kết toàn dân cũng
được đổi mới, phát triển. Đại đoàn kết trong thời kỳ đổi mới bao gồm: đồn
kết giai cấp cơng nhân, nơng dân, trí thức; các giới thanh niên, thiếu niên và
nhi đồng, phụ nữ; đoàn kết dân tộc, đoàn kết tơn giáo. Quan điểm của Đảng
về đồn kết và tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam sinh sống ở nước
ngoài xây dựng khối đoàn kết cộng đồng, tiếp xúc với bà con trong nước, đáp
ứng ngày càng nhiều hơn vào công cuộc xây dựng Tổ quốc lần đầu tiên được
nêu lên.
Từ năm 1986 đến năm 1988, trong tồn hệ thống Mặt trận có ba đợt
sinh hoạt chính trị:
Lấy ý kiến nhân dân đóng góp cho Đại hội VI.
Tổng kết việc thực hiện Chỉ thị 17 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (ra
ngày 18-4-1983) về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới".
Thảo luận dự thảo Báo cáo của Đại hội lần thứ III Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
Thơng qua các đợt sinh hoạt chính trị đó, các tầng lớp nhân dân khơng
chỉ nói lên sự lo lắng, nỗi băn khoăn trước tình hình khó khăn của đất nước,



22
mà cịn bộc lộ ý chí kiên cường của người Việt Nam, lòng tự hào dân tộc,
quyết tâm xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh. Đồng thời nhân dân cả
nước cũng đòi hỏi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải có những chuyển biến cơ
bản đưa hoạt động và tổ chức của mình lên ngang tầm nhiệm vụ mới, tích cực
góp phần vào cơng cuộc đổi mới hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội lần thứ III, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp tại Hà Nội từ ngày
1 đến ngày 4-11-1988. Đại hội đã đề ra ba phương hướng nhằm tăng cường
và xây dựng Mặt trận trong những năm tới:
Mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam về hoạt động và tổ chức nhằm tập hợp mọi lực lượng, mọi khả năng
phấn đấu vì sự phồn vinh của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân;
Hướng mọi hoạt động của Ủy ban Mặt trận các cấp đi vào thực hiện
một cách thiết thực các nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của đất nước, của
địa phương, tập trung vào việc vận động nhân dân tham gia xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng chính quyền nhân dân và thực hiện các mục
tiêu kinh tế - xã hội;
Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực vươn lên; ra sức khai thác
mọi tiềm năng và các điều kiện thuận lợi, khắc phục khó khăn, tự đổi mới và
góp phần tích cực vào cơng cuộc đổi mới chung của đất nước.
Thành tựu đáng kể của Mặt trận trong những năm đầu đổi mới (1986 1991) là tăng cường tập hợp đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân vào tổ
chức của mình, động viên phong trào thi đua yêu nước, góp phần đổi mới hệ
thống chính trị, từng bước hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, duy trì
mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Tuy có những đổi mới, tiến bộ, nhưng hoạt động của Mặt trận trong
thời kỳ này vẫn chưa xác định được thật rõ chức năng, nhiệm vụ, còn lúng
túng về phương pháp hoạt động và xây dựng tổ chức; lề lối làm việc còn nặng
tính hành chính. Sự phối hợp giữa Mặt trận và chính quyền chưa có quy chế



23
rõ ràng, chưa thể hiện đúng tinh thần bình đẳng, hợp tác. Tình hình đó địi hỏi
Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận, đồng thời bản thân
Mặt trận cũng phải tự đổi mới tổ chức và hoạt động của mình.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và các văn kiện Đại hội VII (năm 1991) của Đảng đã khẳng định "Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp đồn kết tồn dân
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", đồng thời phát triển và cụ thể hóa vai trị Mặt
trận trong mối quan hệ với Đảng, với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Xây
dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân. Trong điều kiện Đảng nắm chính quyền, mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân thể hiện tập trung ở vai trò của Nhà nước, vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Cương lĩnh của Đảng tiếp tục khẳng định: Đảng tơn trọng tính tự chủ, ủng
hộ mọi hoạt động tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp
của Mặt trận. Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho Mặt trận hoạt động có hiệu quả.
Mặt trận phải vươn lên tự đổi mới và phải bằng những hành động cụ thể đưa
Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Quá trình chuyển biến trong đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị đã tạo điều kiện thuận lợi để phát huy vai
trò, tác dụng của Mặt trận, làm nền tảng chính trị vững chắc cho việc đổi mới
hệ thống chính trị và cơng cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Tuy vậy, để đẩy
lùi nguy cơ, tranh thủ thời cơ và vận hội mới trong đầu những năm 90 của thế
kỷ XX, nhằm đưa đất nước thốt khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, rút ngắn
khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và thế giới thì
những chuyển biến nói trên chỉ là bước đầu, q trình chuyển biến đó chưa
căn bản và chưa đồng bộ. Yêu cầu cấp bách đặt ra lúc này là phải tăng cường
và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân nhằm khơi dậy mọi tiềm năng về vật



24
chất, tinh thần, tài năng và trí tuệ của cộng đồng người Việt Nam, kết hợp sức
mạnh nội lực dân tộc với sức mạnh thời đại.
Để mở rộng mặt trận đại đồn kết, tiếp tục giữ vững mơi trường hịa bình,
đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, Đảng đã có bước đột phá trong chiến lược
đại đồn kết toàn dân được thể hiện rất rõ trong Nghị quyết số 07 NQ/TW ngày
17-11-1993 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đề ra
về "Đại đồn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất". Nghị
quyết xác định mục tiêu trước mắt và nhiệm vụ chung của Mặt trận dân tộc
thống nhất; đồng thời cịn vạch chiến lược đại đồn kết trong thời kỳ phát triển
mới của đất nước.
Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị đề ra những chủ trương, quan điểm cơ
bản chỉ đạo quá trình tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và tiếp
tục đổi mới về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thực
hiện chủ trương củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, Nghị quyết
nêu rõ đoàn kết mọi người Việt Nam, lấy mục tiêu chung làm điểm tương
đồng, chấp nhận những điểm khác nhau, không trái với lợi ích dân tộc, cùng
nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, xây dựng tinh thần đoàn kết, cởi
mở, tin cậy lẫn nhau.
Triển khai thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị, Mặt trận và các
đồn thể nhân dân đã phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc, phát triển phong
trào quần chúng bằng các hình thức đa dạng từ thấp đến cao, sáng tạo thêm
nhiều hình thức hoạt động phong phú. Thơng qua hoạt động thực tiễn, Mặt trận
từng bước thể hiện rõ chức năng, nhiệm vụ của mình trong giai đoạn hiện nay
là những tổ chức tập hợp đoàn kết các tầng lớp nhân dân, nơi thể hiện nguyện
vọng và ý chí của nhân dân, tham gia với chính quyền trong việc giải quyết các
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, trong việc thực hiện dân chủ và đổi mới xã
hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính

đáng của các tầng lớp nhân dân, tham gia xây dựng, giám sát và bảo vệ chính
quyền, tham gia quản lý xã hội, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã


25
hội, an ninh, quốc phịng, góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Tiếp theo Nghị quyết 07, ngày 29-11-1993, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng ra Nghị quyết 08-NQ/TW về "Chính sách và cơng tác đối với
người Việt Nam ở nước ngồi". Với hai Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VII), trong thời gian này Chính phủ đã có nhiều
văn bản, chỉ thị, thơng tư hướng dẫn các cấp, các ngành về công tác Mặt trận,
công tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi.
1.2.1.2. Phát huy vai trị của Mặt trận Tổ quốc từ năm 1986 đến trước
năm 1996
Đường lối của Đảng, chủ trương của Bộ Chính trị và các văn bản
hướng dẫn của Chính phủ về xây dựng Mặt trận trong giai đoạn này đã có tác
dụng to lớn trong cơng tác Mặt trận và công tác đối với người Việt Nam ở
nước ngồi, có ý nghĩa chiến lược quan trọng, góp phần tăng cường sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; tăng cường quan
hệ hữu nghị giữa nước ta với các nước, củng cố vị thế và uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế; khai thác mọi tiềm năng và lợi thế của kiều bào phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Do đó, trong thời kỳ này đã có nhiều Việt kiều về nước thăm thân nhân,
du lịch, tìm kiếm cơ hội làm ăn, giúp đỡ gia đình. Dư luận kiều bào ngày càng
quan tâm hơn đến quá trình tiến hành đổi mới ở trong nước, nhất là các chính
sách đối với kiều bào. Đa số kiều bào ở các nước, nhất là kiều bào ở Mỹ hoan
nghênh, ủng hộ tiến triển bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ. Nhiều người,
nhất là giới trẻ hăng hái thúc đẩy hoạt động đầu tư, kinh doanh hoặc giới thiệu
các đối tác nước ngoài vào Việt Nam làm ăn. Các Hội người Việt Nam và các

tổ chức nghề nghiệp, đồng hương, từ thiện tiến bộ ở Pháp, Bỉ, Nhật, Cộng hòa
Liên bang Đức...được củng cố một bước và đang có những hoạt động, đóng
góp thiết thực hướng về đất nước.


×