Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hướng tới mục tiêu phát triển bền vững: Kinh nghiệm từ một số nước ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.69 KB, 12 trang )

THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KINH NGHIỆM
TỪ MỘT SỐ NƯỚC ASEAN
ThS. Vũ Thị Vân Anh
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Điều chỉnh chính sách thu hút dịng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) theo
hướng tự do hóa là một đặc điểm nổi bật trong các chính sách đầu tư quốc tế, đặc biệt
là các quốc gia đang phát triển. Phát triển chính sách đầu tư cũng chính là q trình các
quốc gia tăng cường thu hút FDI và các chính sách đầu tư này đóng vai trị quan trọng
ảnh hưởng đến mơi trường kinh doanh. Chính sách đầu tư “thế hệ mới” gắn liền tăng
trưởng và phát triển bền vững (PTBV) với trọng tâm là nỗ lực thu hút và đạt được hiệu
quả từ hoạt động đầu tư. Trong bối cảnh đó, các thành viên ASEAN đã có những nỗ lực
nổi bật trong việc điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) theo hướng tự do
hóa nhằm đảm bảo kết hợp hài hịa giữa chính sách quốc gia và chính sách quốc tế. Bài
viết này hướng tới mục tiêu tổng kết lại những điều chỉnh trong chính sách thu hút (FDI)
của một số nước ASEAN và rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam.
Từ khóa: Điều chỉnh chính sách, FDI, ASEAN
1. KINH NGHIỆM THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
(FDI) HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA MỘT SỐ
NƯỚC ASEAN
1.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hướng tới
mục tiêu phát triển bền vững của Singapore
Singapore là một trong những quốc gia có môi trường kinh tế canh tranh và thân
thiện hàng đầu trên thế giới với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài trên mọi lĩnh vực
của nền kinh tế. Singapore luôn nằm trong số những quốc gia thu hút nhiều FDI nhất
trong khu vực châu Á cũng như trên thế giới. Đây là quốc gia đã thu hút nhiều nhất dòng
vốn FDI trong nhiều năm qua, vượt xa các nước thành viên khác. Dịch vụ là một trong
những nhóm lĩnh vực phát triển nhất tại quốc gia này. Singapore cung cấp cho các nhà
đầu tư một môi trường kinh tế vĩ mơ hấp dẫn và ổn định. Cơng nghiệp hóa nhanh chóng,
cùng với các chính sách hỗ trợ FDI, đã biến quốc đảo này trở thành một địa điểm hấp


dẫn đối với vốn nước ngoài. Theo Báo cáo Đầu tư Thế giới năm 2016 của Liên hợp
quốc, dòng vốn FDI của Singapore đứng ở mức 65 tỷ USD vào năm 2015, trong khi vốn
đầu tư nước ngoài năm 2016 giảm xuống còn 50 tỷ USD. Các ngành sản xuất và dịch
vụ là những ngành đóng góp chính cho nền kinh tế và chiếm gần 80 đến 85% GDP.
314


Theo lĩnh vực đầu tư, vốn FDI được phân bổ trong nhiều ngành kinh tế của Singapore.
Trong số đó, ngành dịch vụ tài chính - bảo hiểm, ngành sản xuất cùng với bán buôn bán lẻ là ba ngành thu hút lượng vốn FDI nhiều nhất, chiếm 47,8% tổng lượng vốn FDI
tại Singapore (tương đương 408,3 tỷ SGD).
Một trong những đặc điểm tạo nên sự thành công trong thu hút FDI của Singapore
chính là việc thu hút FDI ln gắn chặt với việc phát triển theo chiều sâu. Trải qua các
giai đoạn phát triển khác nhau, Singapore luôn cho thấy một mối liên kết chặt chẽ giữa
các chiến lược phát triển kinh tế và chính sách phát triển bền vững dựa trên nền tảng
phát triển kỹ thuật (Kuruvilla và Chua, 2000). Trong q trình cơng nghiệp hóa sớm,
Singapore tập trung vào phát triển giáo dục tiểu học và trung học cơ bản để bổ sung cho
nền kinh tế thâm dụng lao động (Kuruvilla et al., 2002). Khi đất nước bắt đầu thu hút và
dựa vào FDI trong các ngành thâm dụng vốn và kỹ năng nhiều hơn, chính sách giáo dục
và đào tạo bắt đầu tập trung nhiều hơn vào các kỹ năng kỹ thuật cụ thể theo yêu cầu của
các nhà đầu tư. Từ những năm 1980, hệ thống đào tạo kỹ thuật và dạy nghề đã được đào
sâu, trong khi hệ thống đại học được cải cách và mở rộng. Trong suốt quá trình phát
triển của đất nước, Chính phủ Singapore đã đặt ra mục tiêu là tận dụng kiến thức và
công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài để tăng cường các nỗ lực giáo dục và đào tạo
trong nước, bao gồm thông qua đào tạo trực tiếp nhân viên liên kết nước ngoài và các
nhà cung cấp trong nước. Do kết quả của các chính sách kỹ năng tích hợp này và khả
năng đáp ứng của họ đối với thay đổi kinh tế, Singapore đã phát triển một trong những
lực lượng lao động có trình độ cao nhất trên thế giới.
Mặc dù đã có những kết quả tích cực như vậy, song Singapore vẫn ln có những
điều chỉnh trong chiến lược thu hút FDI nhằm hướng tới mục tiêu tái cơ cấu nền kinh
tế, phát triển bền vững, cụ thể:

Thứ nhất, tạo một môi trường vĩ mô ổn định và hấp dẫn để thu hút FDI
Những năm qua, Singapore nổi tiếng với bộ máy hành chính hoạt động rất trơn
tru, nhanh chóng, với sự cộng tác hiệu quả giữa các các cơ quan hữu quan để giúp doanh
nghiệp hoạt động và phát triển dễ dàng. Các doanh nghiệp nước ngoài chỉ cần xin cấp
giấy phép hoạt động và đăng ký thành lập, thông qua sự kiểm soát của Cơ quan quản lý
doanh nghiệp và kế tốn (ACRA), với nhiều hình thức như mở cơng ty con, văn phòng
chi nhánh, văn phòng đại diện. Các thủ tục đăng ký này rất rõ ràng và nhất quán, cũng
như cơ chế thuế ưu đãi và liên danh hiệu quả cùng việc cho phép sở hữu nước ngồi
100%. Khơng chỉ vậy, Chính phủ Singapore cịn tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng về
thị thực nhập cảnh và cư trú cho người nước ngoài muốn hoạt động kinh doanh tại
Singapore. Với sự hỗ trợ tối đa từ Chính phủ thơng qua các chương trình và khuyến
khích, Singapore được nhìn nhận là nơi dễ dàng nhất thế giới để mở hoạt động kinh
doanh cũng như là nền kinh tế cạnh tranh nhất trong khu vực. Trong hơn một thập kỷ,

315


Singapore luôn nằm trong số ba quốc gia dẫn đầu về chỉ số thuận lợi kinh doanh (EBDI
- Ease of Doing Business Index). Theo Doing Business Study (2017) của World Bank,
Singapore đứng thứ 2 trong số 190 quốc gia có thứ hạng cao nhất trong bốn lĩnh vực đăng ký kinh doanh, xử lý giấy phép xây dựng, đăng ký tài sản và nộp thuế. Ngoài ra,
việc xây dựng một chế độ Sở hữu trí tuệ (IP) mạnh mẽ và thân thiện với doanh nghiệp
đã giúp Singapore nổi lên như một trung tâm IP ở châu Á. Đất nước này được xếp hạng
4 trong Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới gần đây
2016 - 2017. Singapore cũng sử dụng kết hợp thuế suất thấp và ưu đãi tài khóa như một
chiến lược cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thuế thu nhập doanh nghiệp ở
mức 17 % là một trong những mức thấp nhất trên thế giới.
Thứ hai, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn thu hút FDI
Trong vài thập kỷ qua, Singapore đã đầu tư rất nhiều vào các ngành công nghiệp
đang phát triển để mở rộng quy mô. Sản xuất là ngành công nghiệp chủ chốt của
Singapore, chiếm 20 - 25% GDP, trong khi ngành dịch vụ đóng góp khoảng 60% GDP.

Các cụm cơng nghiệp trong sản xuất bao gồm điện tử, hóa chất, khoa học y sinh, truyền
thông và media, hậu cần và kỹ thuật vận tải. Các ngành mới nổi bao gồm ô tô, robot,
năng lượng sạch, môi trường và nước và tài nguyên thiên nhiên. Cách tiếp cận theo cụm
là một công cụ của chính sách cơng nghiệp nhằm thu hút FDI đồng thời tăng cường các
mối liên kết và các tác động lan tỏa; phát hiện các khoảng cách và tiềm năng, giúp Chính
phủ có chính sách tránh được những ngun nhân cơ bản gây ra sự thất bại của thị trường
và có thể hỗ trợ các dịch vụ hoặc chuẩn bị kết cấu hạ tầng cho mục đích sử dụng chung.
Singapore đã bắt đầu một chương trình Phát triển Cụm trị giá 1 tỷ đô la Singapore và
gần đây đã tăng quy mô lên gấp 3 lần. Nước này cũng đã chuẩn bị các công viên sản
xuất đặc biệt và xây dựng dự án trị giá 6 tỷ đôla Singapore để khai hoang Quần đảo
Jurong cho cụm cơng nghiệp hố dầu. Việc đầu tư vào các trung tâm R&D (nghiên cứu
và phát triển) nhằm tăng cường mạnh hơn giá trị của cụm và phát huy tốt hơn những lợi
thế bản địa. Bên cạnh đó, Singapore khơng qn đẩy mạnh phát triển hạ tầng, phát triển
thương mại tự do, thể hiện qua các các rào cản thương mại (thuế quan và phi thuế quan)
rất thấp và sự áp dụng rộng rãi các giấy chứng nhận tiêu chuẩn ISO.
Thứ ba, khai thác hiệu quả thuận lợi về vị trí địa lý để thu hút đầu tư FDI
Singapore đã tận dụng rất tốt lợi thế tự nhiên của mình như vị trí địa lý thuận lợi,
nằm ở trung tâm tuyến thương mại và vận tải biển chính của thế giới. Vị trí chiến lược
của Singapore đã làm cho quốc gia này trở thành một trung tâm hậu cần quan trọng cho
thương mại toàn cầu. Theo Chỉ số hiệu suất hậu cần 2014 của Ngân hàng Thế giới,
Singapore đứng đầu trong số các nền kinh tế. Singapore là trung tâm trung chuyển bận
rộn nhất thế giới, xử lý khoảng một phần bảy số tàu trung chuyển container trên thế giới.
Singapore là nhà sản xuất giàn khoan lớn nhất, được sử dụng làm giàn khoan, nền tảng

316


dịch vụ trang trại gió và ngồi khơi. Họ có 70% thị phần toàn cầu. Họ cũng chỉ huy 70%
thị phần cho các đơn vị Giảm tải lưu trữ sản xuất nổi được sử dụng bởi các cơng ty dầu
khí ngoài khơi.

Thứ tư, cải cách hệ thống luật pháp và hệ thống thuế nhằm tạo thuận lợi cho các
nhà đầu tư nước ngoài
Hệ thống luật pháp của Singapore cũng hoạt động rất hiệu quả. Cơ sở pháp lý
liên tục được cập nhật và đổi mới để phù hợp với môi trường văn hóa, kinh tế và thương
mại hiện hành. Thừa hưởng hệ thống pháp luật từ Anh và phát triển thành bản sắc riêng,
hệ thống luật pháp của Singapore đến nay được đánh giá cao nhờ tính hiệu quả và nhất
quán. Các doanh nghiệp ở Singapore không phải chứng kiến quá trình thủ tục pháp lý
chậm chạp, làm giảm sút hiệu quả hoạt động kinh doanh. Chính phủ Singapore coi việc
tiếp cận với pháp luật là một giá trị kinh tế nền tảng, được khai thác nhằm nâng cao uy
tín của Singapore như là một trung tâm thương mại và pháp lý hàng đầu ở châu Á. Hệ
thống luật thương mại của Singapore có tiếng là cơng bằng và vơ tư, biến quốc đảo Sư
tử ngày càng trở thành lựa chọn tự nhiên làm nơi giải quyết tranh chấp, đặc biệt là hịa
giải và trọng tài, ở khu vực Đơng Nam Á. Khuôn khổ pháp lý của Singapore đã tạo ra
một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngồi, khi khơng giới hạn sở hữu nước
ngồi và khơng có kiểm sốt ngoại hối.
Một điểm mạnh khác nữa của Singapore chính là hệ thống thuế, ưu đãi thuế đã
đóng một phần quan trọng trong việc khuyến khích và mở rộng thu hút FDI ở Singapore.
Ủy ban Phát triển Kinh tế (EDB), một cơ quan chính phủ thuộc Bộ Thương mại và Công
nghiệp (MTI), đã được trao thẩm quyền cấp các ưu đãi, điều này cho phép giảm thuế
lên tới 10 năm, được đàm phán về những gì mà FDI có thể cung cấp cho Singapore. Khi
Singapore phát triển kinh tế ở mức cao hơn, các cơ quan chính phủ có thể mở rộng phạm
vi giảm thuế. EDB hoạt động hiệu quả như một trung tâm một cửa cho các nhà đầu tư
bằng cách hợp tác chặt chẽ với tất cả các bộ và cơ quan chính phủ. Tác động của các ưu
đãi thuế này rất phổ biến đến mức mức thuế trung bình cho các cơng ty chỉ ở mức khoảng
8% so với mức thuế suất danh nghĩa là 17% - đây được xem là mức thuế "đơn giản và
thân thiện với nhà đầu tư". Bên cạnh đó, Singapore đã ký kết hiệp định tránh đánh thuế
hai lần (DTA) với hơn 70 quốc gia trên thế giới, qua đó góp phần quan trọng giảm gánh
thuế cho doanh nghiệp nước ngoài. Mạng lưới DTA mở rộng, cùng với thuế tăng vốn
và thu nhập cổ tức bằng 0, đã biến Singapore thành nơi hấp dẫn cho đầu tư kinh doanh
thông qua hình thức liên danh.

Ngồi các ưu đãi tài chính, EDB hoạt động như một cơ quan phát triển đầu tư,
bao gồm hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng, dự báo những cơ hội đầu tư tiếp theo để mở
rộng quy mô và mức độ sâu rộng của các khoản đầu tư. Ngay từ những năm 1970, Chính
phủ Singapore đã bắt đầu bỏ qua các ưu đãi cho các ngành thâm dụng lao động và tập

317


trung vào việc thu hút nhiều ngành cơng nghiệp địi hỏi nhiều kỹ năng và tri thức hơn.
Điều này liên quan đến việc chuyển hướng phát triển bền vững trong tương lai, theo đó
các TNC được lựa chọn dựa trên những đóng góp tiềm năng của họ cho nền kinh tế
Singapore, bao gồm cả về nâng cao kỹ năng.
1.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hướng tới
mục tiêu phát triển bền vững của Malaysia
Malaysia được đánh giá là một trong những nước thành công nhất trong khu vực
Đông Nam Á trong việc thu hút dòng vốn FDI chất lượng. Thế mạnh cạnh tranh của
Malaysia chính là một hành lang pháp lý vừa ổn định vừa linh hoạt. Trong tiến trình
phát triển của mình, Malaysia đã khơng ngừng điều chỉnh chính sách nhằm thu hút nhiều
hơn nữa FDI từ bên ngồi.
Dịng vốn FDI ở Malaysia đã có xu hướng tăng kể từ năm 2001, ngoại trừ năm
2009. Dòng vốn FDI thấp hơn trong năm 2009 phần lớn là do khủng hoảng tài chính
tồn cầu. Dịng vốn FDI đạt mức cao mới trong năm 2016 với giá trị 47,0 tỷ RM và
giảm xuống còn 41,0 tỷ RM trong năm 2017, một phần phản ánh sự tăng trưởng toàn
cầu bị khuất phục. Vào cuối năm 2017, vị trí vốn đầu tư trực tiếp của Malaysia Malaysia
đạt 70,3,3 tỷ RM và dịng vốn FDI vào năm đó chủ yếu bằng cổ phiếu quỹ đầu tư và vốn
đầu tư đóng góp 86,3%.
Hình 1: Foreign Direct Investment in Malaysia, 2001 - 2017

Chính sách thu hút FDI của Malaysia tập trung chủ yếu vào những nội dung sau:
Thứ nhất, thu hút FDI trong các ngành cơng nghệ cao

Chính phủ Malaysia coi nguồn vốn đầu tư nước ngoài như là một động lực quan
trọng cho phát triển kinh tế của đất nước, mặc dù vẫn duy trì các hạn chế về đầu tư trong
318


một số lĩnh vực nhất định như các ngành công nghiệp dựa trên tài nguyên để đảm bảo
mục tiêu phát triển bền vững đã đặt ra. Chính sách thu hút đầu tư chủ yếu cho ngành
công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp công nghệ cao hướng đến xuất khẩu thông qua một
số ưu đãi như miễn thuế, trợ cấp thuế đầu tư, trợ cấp địa điểm kinh doanh, xây dựng cơ
sở hạ tầng, phụ cấp tái đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu đối với
nguyên liệu, linh kiện, máy móc. Các ngành này hướng đến tạo ra giá trị hay một số lĩnh
vực mới (công nghệ sinh học, quang điện tử, công nghệ không dây và vật liệu tiên tiến),
nhằm định hướng thu hút FDI có chất lượng chứ không chạy theo số lượng như trước đây.
Malaysia là quốc gia phát triển khá tốt các ngành công nghiệp dựa trên lợi thế tài
nguyên thiên nhiên. Chính phủ đã ban hành chính sách thu hút đầu tư để tạo ra các liên
kết theo cả chiều dọc và chiều ngang, thúc đẩy phát triển các ngành chế tạo và dịch vụ,
đặc biệt là trong các ngành cơng nghiệp khí đốt, dầu mỏ, dầu cọ và cao su. Tuy nhiên,
với một số ngành khơng có lợi thể so sánh tự nhiên như các ngành thiết bị điện và điện
tử cũng được Chính phủ Malaysia phát triển theo định hướng xuất khẩu, chứ khơng chỉ
nhằm mục đích thay thế nhập khẩu và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành.
Phát triển đa dạng hóa các ngành cơng nghiệp phục vụ xuất khẩu đã giảm áp lực lên
nguồn tài nguyên thiên nhiên của Malaysia, đồng nâng cao được giá trị xuất khẩu và gia
tăng thị phần của quốc gia này trong chuỗi giá trị toàn cầu. Những yếu tố này sẽ góp
phần làm “xanh hóa” nền kinh tế của Malaysia, giúp quốc gia này có thể đạt tới mục
tiêu PTBV trong tương lai.
Thứ hai, hướng tới đẩy mạnh thu hút FDI trong ngành công nghệ sinh học
Malaysia xác định công nghệ sinh học là ngành hỗ trợ cho mục tiêu PTBV nên
cần tìm kiểm các nhà đầu tư trong lĩnh vực này với nguồn cơng nghệ tiên tiến. Vì cơng
nghệ sinh học dựa trên nền tảng khoa học về sự sống, kết hợp với quy trình và thiết bị
kỹ thuật hiện đại nhằm tạo ra các công nghệ khai thác các hoạt động sống của vi sinh

vật, tế bào thực vật và động vật để sản xuất ở quy mô cơng nghiệp các sản phẩm sinh
học có chất lượng cao, phục vụ cho lợi ích, nhu cầu của con người đồng thời phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ mơi trường. Để thu hút đầu tư nước ngồi trong cơng nghệ
sinh học, Chính phủ Malaysia tăng cường bảo tồn và quảng bá đa dạng sinh học của đất
nước để các nhà đầu tư thấy được đây là lợi thế cạnh tranh, là môi trường tiềm năng để
đầu tư đặc biệt trong sản xuất nơng nghiệp, chăm sóc sức khỏe và áp dụng các quỵ trình
cơng nghệ bền vững. Điều này cũng đáp ứng được nhu cầu sản xuất của các nhà đầu tư,
khi người tiêu dùng đang ưa thích sử dụng các sản phẩm sạch và an tồn.
Thứ ba, ưu đãi, cắt giảm thuế quan
Chính phủ đưa ra các ưu đãi như giảm thuế và cho vay, thu hút đầu tư vào năng
lượng tái tạo. Các chính sách thu hút giảm những trở ngại về mặt hành chính cũng như
đưa ra Feed-in-Tariff (FiT) vào năm 2011. Ngoài ra, cịn có các ưu đãi tài chính khác
319


như Chính phủ cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp khi mở rộng hoạt động liên quan
đến sản xuất sạch hay các quy trình và kết quả đầu ra thân thiện với mơi trường.
Chính phủ miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị điện mặt trời; giảm thuế, cung
cấp tín dụng ưu đãi khi đầu tư vào năng lượng tái tạo. Một khoản thuế lợi nhuận cũng
được miễn trong 15 năm đối với các công ty sản xuất năng lượng mặt trời, cho phép thu
hút các công ty sản xuất công nghệ nguồn, làm tăng sức hấp dẫn của thị trường năng
lượng mặt trời cho các nhà đầu tư khác. Các nhà đầu tư nước ngồi cũng có thể được
hưởng lợi từ biểu thuế ưu đãi này với điều kiện nguồn vốn sở hữu nước ngoài chỉ đạt tối
đa 49% trong các liên doanh.
Cụ thể, để thực hiện các cơ chế khuyến khích và thu hút đầu tư xanh, Chính phủ
cùng đã thiết lập một quỹ hỗ trợ cho các nhà đầu tư tư nhân trong lĩnh vực năng lượng
tái tạo, cơng trình xanh và cơng nghệ cao các bon thấp. Ngồi ra, Chính phủ cung cấp
các ưu đãi tài chính cho các nhà đầu tư trong các lĩnh vực xanh, chủ yếu là miễn thuế
hoặc giảm thuế. Ví dụ, hai gói tài chính năm 2009 hỗ trợ cho việc phát triển năng lượng
tái tạo thông qua miễn thuế thu nhập theo luật định trong vòng 10 năm cho ngành điện

tử năng lượng mặt trời, nhiên liệu sinh học, thủy điện và gói thứ hai trợ cấp thuế đầu tư
cho chi phí vốn trong vịng 5 năm đầu tiên đối với công ty sử dụng công nghệ tái tạo.
Trong năm 2011, Chỉnh phủ đã ban hành chính sách khuyến khích giá điện năng lượng
tái tạo (Feed-in-tariff) với các ưu đãi trợ giá điện và miễn thuế trong vòng 15 năm. Điều
này sẽ thu hút sự quan tâm mạnh mẽ từ các nhà sản xuất, đặc biệt là các nhà đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực sản xuất điện từ năng lượng tái tạo như gió, mặt trời. Ngồi ra,
Malaysia cũng đang nỗ lực hơn nữa để thu hút sự ủng hộ của các tổ chức tài chính trong
nước và ngoài nước tài trợ cho các dự án xanh, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu
tư trong lĩnh vực này.
Thứ tư, hỗ trợ đầu tư tư nhân, bao gồm cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài
Chỉnh phủ đã tạo ra quỹ chuyên dụng để xúc tác cho đầu tư tư nhân trong lĩnh
vực năng lượng tái tạo, xây dựng xanh và giao thông cácbon thấp. Các ưu đãi tài chính
đều được cung cấp cho các dự án đầu tư trong lĩnh vực màu xanh lá cây. Ví dụ, Chính
phủ cung cấp các khoản vay lãi suất thấp cho các công ty muốn mở rộng hoạt động của
họ liên quan đến làm sạch sản xuất hoặc các quá trình sản xuất và các kết quả đầu ra
thân thiện mơi trường khác.
Thứ năm, các chính sách nhằm duy trì các lợi thế về xã hội
Malaysia là một quốc gia đạo Hồi, vì vậy, nhiều chính sách kinh tế được đưa ra
cũng theo hướng đảm bảo gìn giữ bản sắc. Chính phủ cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài được tham gia vào các lĩnh vực ngân hàng - tài chính - bảo hiểm, đặc biệt là Chính
phủ khuyến khích đầu tư vào takaful - loại hình bảo hiểm được xây dựng trên cơ sở các
luật và quy định của thế giới Hồi giáo. FIEs có thể sở hữu lên đến 70 - 100% trong lĩnh
320


vực ngân hàng Islamic (Ngân hàng theo kiểu đạo Hồi) và bảo hiểm takaful tùy từng
trường hợp. Đây là điều khá thú vị tại Malaysia, một mặt, vẫn cho phép Malaysia tiếp
cận được với các nền văn hóa đa dạng trên thế giới, mặt khác, vẫn bảo toàn và giữ gìn
bản sắc của cộng đồng Hồi giáo. Bên cạnh đó, việc đầu tư cho lực lượng lao động có tay
nghề cao và lợi thế là một nước nói tiếng Anh giúp Malaysia thu hút được nhiều nhà

đầu tư hơn (Satandertrade.com, 2014).
Thứ sáu, Chính phủ khuyến khích đầu tư tư nhân cho các dự án năng lượng sạch
Malaysia đã nhận được 9,5 tỷ USD vốn đầu tư tích lũy cho các dự án năng lượng
sạch từ các nguồn như tài sản tài chính; hoạt động sáp nhập và mua lại; từ vốn chủ sở hữu
tư nhân, đầu tư mạo hiểm; và phát hành cổ phiếu trên thị trường. Hình thức M&A cũng
được đẩy mạnh, tỷ lệ chiếm đến 78% nguồn tài chính cung cấp cho các dự án đầu tư trong
năng lượng sạch (với tổng vốn đầu tư 7,5 tỷ USD). Đã có 10 thương vụ M&A, các vụ sáp
nhập này có nguồn gốc từ các nước như Đức, Indonesia, Singapore, UAE, Hàn Quốc và
Australia. Các quốc gia này đều có ít nhất 1 hoặc 2 cơng ty tham gia góp vốn vào công ty
của Malaysia (OECD, 2013). Nguồn đầu tư thứ hai là từ các tài sản tài chính của các công
ty công và tư nhân. Nguồn vốn này đạt 1,13 tỷ USD, chiếm 12% tổng vốn đầu tư cho lĩnh
vực năng lượng sạch. Đã có 65 dự án được cấp tài chính từ nguồn vốn này. Có nhiều dự án
được cấp vốn từ việc hợp tác giữa các công ty Malaysia và các đối tác nước ngoài như Nhật
Bản, Indonesia. Cũng đã có trường hợp các cơng ty của Malaysia đầu tư ra nước ngoài theo
thức này (OECD, 2013). Nguồn đầu tư thứ ba là từ phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng
khốn trong và ngồi nước. Kênh đầu tư này thu được khoảng 800 triệu USD, chiếm 8%
tổng vốn đầu tư cho năng lượng tái tạo. Nguồn thu hút vốn cuối cùng là đầu tư mạo hiểm
và vốn sở hữu tư nhân chỉ chiếm 2%, khoảng 164 triệu USD trong tống vốn đầu tư.
Thứ bảy, thu hút FDI trong khuôn khổ hỗ trợ đầu tư phát triển xanh
Trong Kế hoạch Malaysia làn thứ II giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ xác định
tăng trưởng xanh sẽ là trụ cột trong mục tiêu phát triển quốc gia, là cơ sở bảo tồn nguồn
tài nguyên thiên nhiên và môi trường trong phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, đầu tư
phát triển xanh sẽ giúp Malaysia cân bằng đồng thời giữa lợi ích phát triển về kinh tế xã hội và bảo đảm đa dạng sinh học. Để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư hỗ trợ tăng
trưởng xanh, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa khn khổ đầu tư và cam kết của chính phủ
trong thúc đẩy các nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Do đó, Malaysia ban hành nhiều chính
sách và luật pháp như Chính sách quốc gia về mơi trường (2002), Chính sách quốc gia về
biến đổi khí hậu (2009), Chính sách Cơng nghệ xanh (2009), Chính sách Năng lượng tái
tạo và kế hoạch hành động (2010). Các chính sách này hướng dẫn các nhà đầu tư hướng
đến môi trường đầu tư thân thiện với môi trường, phát triển nguồn nhân lực để hỗ trợ cho
các nhà đầu tư xanh, khuyến khích trách nhiệm môi trường của công ty và chiến lược thúc

đẩy nhu cầu sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường của người dân.
321


1.3. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hướng tới
mục tiêu phát triển bền vững của Thái Lan
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế của
Thái Lan và quốc gia này là một trong những điểm đến FDI lớn trong khu vực ASEAN.
Theo Báo cáo Đầu tư thế giới năm 2018 của UNCTAD, năm 2017, sau nhiều năm sụt
giảm liên tiếp, dòng vốn FDI đầu tư vào Thái Lan đã phục hồi, tăng 3,7 lần từ năm 2016
đến 2017 và đạt 7,6 tỷ USD (2017). Sự phục hồi này là do đầu tư của các nước Liên
minh châu Âu tăng lên và dòng vốn mạnh mẽ từ các nước ASEAN và Nhật Bản. Thông
qua Đạo luật Xúc tiến Đầu tư, khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào các ngành công nghệ
tiên tiến, các hoạt động đổi mới và nghiên cứu và phát triển, và Đạo luật Hành lang Kinh
tế phía Đơng (EEC), mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư trong khu vực này (trợ cấp thuế,
quyền sở hữu đất đai, ban hành thị thực), dịng vốn FDI khơi phục đã cho thấy kết quả
khả quan trong bức tranh kinh tế Thái Lan năm 2017. Cổ phiếu của FDI tăng 15% trong
năm 2017 và đạt mức 219 tỷ USD, tương đương 50,7% GDP của đất nước. Nhật Bản và
Singapore cho đến nay là các nhà đầu tư lớn nhất trong nước và chiếm hơn một nửa
dòng vốn FDI. Đài Loan, Hà Lan, Đức, Thụy Sĩ, và Vương quốc Anh cũng nằm trong
số các nhà đầu tư lớn. Hoạt động sản xuất, tài chính và bảo hiểm thu hút gần 70% tổng
số dòng vốn FDI. Đầu tư vào bất động sản, thương mại và thông tin và truyền thông là
rất quan trọng.
Thái Lan là một trong những quốc gia có nhiều cải cách nhất trong quy định kinh
doanh trong vài năm qua, điều này đã tạo thuận lợi cho quá trình thiết lập và giảm thời
gian bắt đầu kinh doanh từ 27,5 ngày xuống còn 4,5 ngày. Quốc gia này đã cải thiện
đáng kể thứ hạng của mình trong kinh doanh của Ngân hàng Thế giới và nó chiếm vị trí
thứ 27 trong bảng xếp hạng kinh doanh 2019, mất một vị trí so với năm trước. Quyền
của người vay và chủ nợ đã được củng cố cũng như hệ thống quản lý đất đai. Nước này
đã thực hiện các bước để làm rõ cơ cấu quản trị, sở hữu và kiểm soát doanh nghiệp bằng

cách ban hành luật yêu cầu các công ty bổ nhiệm các thành viên độc lập của Hội đồng
quản trị và thành lập ủy ban kiểm toán. Ưu đãi thuế tái tạo năng lượng: miễn giảm thuế
thu nhập 8 năm đối với năng lượng tái tạo, cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến
năng lượng, sản xuất năng lượng tiết kiệm, thiết bị tái tạo năng lượng và sản xuất các tế
bào năng lượng mặt trời. Quỹ ESCO Thái Lan khuyến khích đầu tư và hiệu quả năng
lượng và các dự án tái tạo năng lượng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra quỹ
ENCON của Thái Lan là quỹ thuộc nguồn tài chính quốc gia dành cho trợ cấp năng
lượng tái tạo và các ưu đãi đầu tư. Quỹ ENCON cung cấp các khoản tài trợ cho các dự
án năng lượng và hiệu quả tái tạo ở phạm vi lớn hơn.
Thái Lan sẽ tổ chức các cuộc trình diễn con đường quốc tế nhằm thúc đẩy xuất
khẩu, duy trì sự tự tin cho các nhà đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư nước ngoài, cụ thể
trong 10 ngành mục tiêu được thúc đẩy như là các cụm. Đó là cơng nghiệp ơ tơ thế hệ
322


mới, điện tử thông minh, du lịch chữa bệnh và làm đẹp, nông nghiệp và sinh học, thực
phẩm, công nghiệp rơbot, logistic và hàng khơng, biofuels và hóa chất sinh học
(biochemicala), công nghệ số (digital) và dược phẩm (medical).
Tháng 11/2015, nội các Chính phủ đã thơng qua đề xuất của Bộ Tài chính thành
lập 10 tỷ Baht tài trợ cho hoạt động đầu tư trong 10 cụm công nghiệp. Quỹ này có thể
giúp đỡ các nhà đầu tư dễ dàng hơn trong tiếp cận hỗ trợ tài chính nhằm thúc đẩy đầu
tư của các dự án (Bangkok Post, 2015).
2. KINH NGHIỆM CHUNG RÚT RA CHO VIỆT NAM
Qua nghiên cứu chính sách thu hút FDI nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền
vững của một số nước ASEAN có thể rút ra những kinh nghiệm sau đây cho Việt Nam:
Thứ nhất, hồn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư theo hướng
hội nhập kinh tế quốc tế; gắn hội nhập kinh tế quốc tế với đầu tư là điều kiện tiên quyết
cho phát triển bền vững.
Từ bài học kinh nghiệm về chủ động mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của các
nước trong khu vực cho thấy việc xác định đường lối, chiến lược mở cửa hội nhập với

bên ngoài là rất quan trọng. Mở cửa hội nhập vừa là xu thế phát triển chung của thời đại
vừa phù hợp với lợi ích kinh tế của đất nước. Theo đó, trong nhiều năm qua, Việt Nam
đã tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, thu hút đầu
tư nước ngồi đặc biệt là thu hút FDI; nỗ lực tham gia vào các tổ chức quốc tế, thực hiện
tự do hóa thương mại và đạt được những thành tựu đáng kể. Để có thể áp dụng kinh
nghiệm từ các nước, Việt Nam cần thiết: (1) Xây dựng những chính sách phù hợp định
hướng thu hút FDI vào các ngành có lợi thế so sánh, những ngành công nghệ mới và
công nghệ cao; (2) Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo nguyên tắc của WTO; (3) Tăng
cường kiểm tra giám sát việc thực hiện những quy định của luật pháp để tạo môi trường
kinh doanh lành mạnh, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
Thứ hai, hệ thống cơ chế, chính sách về đầu tư phải nhất quán và phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội quốc gia
Chính sách đầu tư đúng đắn, rõ ràng, nhất quán và phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế mỗi nước là cơ hội tốt nhất thu hút FDI. Các chính sách đảm bảo đầu tư và
giải quyết các tranh chấp phải đảm bảo cơng bằng. Khuyến khích đầu tư nước ngồi
song phải có chính sách phát triển các doanh nghiệp trong nước một cách hài hòa, và
quan trọng hơn là phải gắn kết được doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước để
tận dụng, khai thác triệt để những lợi ích mang lại của dòng vốn FDI.
Thứ ba, tăng cường thu hút đầu tư bằng các địn bẩy kinh tế thơng qua các chính
sách ưu đãi đầu tư
Để cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài các quốc gia đều nỗ lực cải cách chính
sách, đặc biệt là chính sách ưu đãi đầu tư. Ưu đãi về thuế, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiền
323


lương, thưởng, bảo hiểm, thường được sử dụng như là động lực trực tiếp khuyến khích
các doanh nghiệp có vốn FDI làm ăn hiệu quả. Ví dụ như theo quy định của Thái Lan,
lợi nhuận và vốn được tự do chuyển ra nước ngồi; Chính phủ cam kết khơng trưng thu
tài sản của doanh nghiệp FDI; phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi để doanh
nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Giảm thuế, áp dụng chế độ tỷ giá

hối đoái theo nguyên tắc tạo thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp. Lương của người lao
động được ấn định bằng đồng bản tệ, các loại phí, lệ phí được quy định rõ ràng, khơng
áp dụng giá phân biệt giữa người trong nước và người nước ngồi đối với các dịch vụ
sản xuất. Nhờ đó thu hút được một số lượng lớn các công ty đa quốc gia thành lập các
công ty con, tạo nên một xung lực mạnh mẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế.
Thứ tư, tích cực cải cách hành chính trong hoạt động đầu tư
Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm thiểu thời gian và chi phí cho các nhà
đầu tư. Thực hiện chính sách một cửa, giảm thiểu thời gian cấp phép đầu tư (thời gian
cấp Giấy phép đầu tư theo quy định của Indonesia là 10 ngày; của Malaysia là 8 tuần;
Thái Lan là 7 ngày. Trên thực tế tùy thuộc từng dự án, từng nước mà thời gian cấp phép
có thể khác nhau) do sự phối hợp của các cơ quan liên quan.
Thứ năm, tạo mơi trường đầu tư hấp dẫn, thơng thống, khơng ngừng đổi mới
các hoạt động xúc tiến đầu tư
Hệ thống cơ chế, chính sách về FDI phải tạo được mơi trường đầu tư thuận lợi,
thơng thống, với một cơ sở hạ tầng phát triển và lực lượng lao động có kỹ năng, với
mức thuế cạnh tranh và các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư thích hợp giúp các
nhà đầu tư tận dụng cơ hội khai thác tốt các lợi thế đầu tư. Thành lập các văn phòng xúc
tiến đầu tư tại nước ngoài nhằm tiếp cận các nhà đầu tư tiềm năng, tăng cường năng lực
hoạt động của các trung tâm dịch vụ đầu tư trong nước nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư. Định
hướng xúc tiến đầu tư vào các công ty quốc gia. Theo kinh nghiệm của các nước trong
khu vực cho thấy việc thu hút đầu tư của các cơng ty TNC có ý nghĩa rất lớn, khơng chỉ
với vai trị là bổ sung nguồn vốn mà còn để nâng cấp kết cấu kỹ thuật, ngành nghề và
phát triển các ngành kỹ thuật cao. Đây chính là cơ sở chiến lược để thu hẹp khoảng cách
thực hiện CNH - HĐH đất nước đồng thời tham gia vào phân công và cạnh tranh quốc
tế. Do vậy, để thu hút đầu tư, ngồi việc cải thiện mơi trường đầu tư, Việt Nam nên có
những chính sách khuyến khích để thu hút các TNC.
Thứ sáu, xây dựng và phát triển quy hoạch theo ngành, theo vùng, tạo điều kiện
cho phát triển bền vững
Để phát triển bền vững quốc gia, các quốc gia đều quan tâm đến hoạt động xây
dựng và phát triển quy hoạch tổng thể, cả quy hoạch theo ngành nghề và quy hoạch theo

vùng thống nhất trong cả nước. Thu hẹp các ngành nghề hạn chế đầu tư; phát triển quy
hoạch vùng, tạo nên các cực kinh tế trọng điểm; mở rộng các vùng kinh tế và chuyển
324


dịch các cực kinh tế rộng khắp cả nước (ví dụ Malaysia đang chuyển cực kinh tế từ
Penang và Kuala lumpur sang Sarawak).
Thứ bảy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Kinh nghiệm các nước cho thấy nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong
việc quyết định mức độ lan tỏa và hấp thụ FDI. Các doanh nghiệp FDI cũng rất quan
tâm tới lực lượng lao động địa phương, do vậy cần có chính sách khuyến khích các
doanh nghiệp có vốn FDI đào tạo và tuyển dụng lao động địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

ISIS, M. (2011). Malaysia: Policies and Issues in Economic development. Kualar Lumpur.

2.

Department of Statistics, Malaysia, Statistics of Foreign Direct Investment in
Malaysia (FDI) 2017, (2018), Putrajaya.

3.

Behname, M. (2012). Foreign direct investment and urban infrastructure. An
evidence from Southern Asia. Advances in Management & Applied Econometrics,
2(4), 253 - 259.

4.


Bevan, A.A. and S. Estrin (2000), The Determinants of Foreign Direct Investment
in Transition Economies.

5.

Makki, S.S. and A. Somwaru (2004), Impact of Foreign Direct Investment and
Trade on Economic Growth: Evidence from Developing Countries, American
Journal of Agricultural Economics 86(3): 795 - 801.

6.

Sosukpaibul, S. (2007), The Relationship among Foreign Direct Investment Flows,
Government Policy and Investment Strategy: The Case of Thailand.

7.

Thangavelu, S.M. (2015) FDI Restrictiveness Index for ASEAN: Implementation
of AEC Blueprint Measures, ERIA Discussion Paper Series 43.

8.

Tosompark, C.T. and K. Daly (2010) The Determinants of FDI inflows–Recent
Evidence from Thailand, Available at SSRN 1630642.

325



×