Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác giải quyết tố cáo của công dân do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 122 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tố cáo là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là công cụ pháp lý để công dân bảo
vệ quyền và lợi ích khi bị xâm phạm, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Tố cáo là một kênh thông tin phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy
nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức.
Công dân tố cáo là thực hiện quyền làm chủ của mình trong việc xây
dựng và củng cố bộ máy nhà nước ngày càng phát huy hiệu quả trong quản lý
nhà nước và quản lý xã hội; thực hiện quyền tố cáo thể hiện rõ trách nhiệm
của công dân trong việc giám sát hoạt động quản lý của Nhà nước để xây
dựng bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh đồng thời đối với cả
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước, góp phần ngăn chặn, tiến
tới loại trừ những hành vi quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu quần
chúng của một bộ phận cán bộ công chức nhà nước.
Tố cáo của cơng dân là một hình thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước. Giải quyết tố cáo của các cơ quan
hành chính nhà nước phản ánh yêu cầu của dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền tố cáo của công dân được quy định trong Hiến pháp.
Pháp luật nước ta quy định giải quyết tố cáo là chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan nhà nước. Giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước
nghiêm minh, đúng pháp luật là góp phần phát huy dân chủ, đảm bảo thực
hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa. Giải quyết tố cáo góp phần bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, cơ quan, tổ chức. Việc giải
quyết khiếu kiện nếu không được quan tâm đúng mức, không được giải quyết
đúng đắn đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của công dân, ảnh
hưởng xấu đến sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, chính trị, trật
tự an toàn xã hội.



2
Như vậy, tố cáo và giải quyết tố cáo có vai trị quan trọng trong bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước và ổn định tình
hình kinh tế - xã hội
Giải quyết tố cáo còn là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thông qua giải quyết tố cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn, sự
phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật đã ban hành, từ đó có cơ sở thực
tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường hiệu lực quản
lý Nhà nước.
Từ nhiều năm nay, tình hình tố cáo ln là vấn đề mà Đảng, Nhà nước
và toàn xã hội rất quan tâm. Giải quyết tố cáo của công dân là một vấn đề
được Đảng, Nhà nước đặc biệt chú trọng trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh giải quyết
khiếu nại tố cáo của công dân năm 1981, Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và 2005), Luật Tố cáo năm 2011. Đồng thời,
Đảng và Nhà nước ta tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các văn bản
pháp luật đã ban hành. Chính phủ có giải pháp đồng bộ để thực thi pháp luật.
Các văn bản pháp luật được áp dụng, thực hiện, đã tạo cơ sở pháp lý và
những điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền tố cáo; là căn cứ để
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu tố, có tác động tích cực
đến tình hình tố cáo và giải quyết tố cáo. Do vậy, các vụ việc phức tạp, đơng
người có tiềm ẩn thành “điểm nóng” đã được giải quyết cơ bản, góp phần ổn
định tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội của đất nước.
Trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra mạnh mẽ, nhiều hoạt động kinh tế xã hội
đã và đang biến động rất nhanh. Tốc độ phát triển kinh tế tăng cao. Tuy
nhiên, một số vấn đề phát sinh trong quản lý nhà nước chưa được điều
chỉnh và xử lý kịp thời.



3
Tình hình tố cáo trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, cũng như
một số địa phương khác trong cả nước đang diễn biến phức tạp với số lượng
đơn thư nhiều, có nhiều vụ việc kéo dài. Khiếu kiện tập trung vào lĩnh vực vi
phạm trong quản lý, sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, quản lý trật tự xây
dựng đơ thị, thu chi tài chính ngân sách ở xã, phường....Mặt khác, Hà Nội là
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của cả nước, nơi tập trung các cơ
quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, là nơi diễn ra rất nhiều sự kiện chính trị
quan trọng của đất nước, do vậy chịu ảnh hưởng thêm của rất nhiều vụ việc
khiếu kiện từ các địa phương khác về đây. Nhiều vụ việc khiếu kiện phức tạp,
đông người, dễ phát sinh thành “điểm nóng” ảnh hưởng đến an ninh chính trị,
trật tự, an tồn xã hội, tạo điều kiện để các thế lực phản động và thù địch lợi
dụng nhằm mục đích chống phá Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thời gian gần đây tình hình tố cáo của công dân trên địa bàn Hà Nội
gia tăng về số lượng, nội dung phức tạp, nhất là khiếu kiện đông người.
Nguyên nhân gia tăng số vụ việc tố cáo và tính chất, mức độ phức tạp của các
vụ việc này là:
Số lượng các văn bản pháp luật nhiều, còn một số bất cập, liên tục thay
đổi và phức tạp, quy định về một số vấn đề chưa đủ rõ, chồng chéo, mâu
thuẫn, chính sách pháp luật thiếu khả thi, thiếu các quy định cụ thể; cơ chế, tổ
chức và hoạt động của các cơ quan được giao nhiệm vụ giải quyết tố cáo cũng
chưa hợp lý.
Một số cán bộ làm công tác giải quyết tố cáo cũng chưa đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Trình độ, năng lực cán bộ, nhất là ở cơ sở cịn
nhiều hạn chế, cơng tác quản lý nhà nước cịn nhiều yếu kém. Nội dung tố cáo
chủ yếu là cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, lạm quyền trong thi
hành công vụ, gian lận, vi phạm pháp luật.. liên quan đất đai, xây dựng, giải
phóng mặt bằng.

Vấn đề đặt ra là hoàn thiện pháp luật giải quyết tố cáo, hoàn thiện cơ
chế giải quyết tố cáo, cần có điều kiện đảm bảo cơng tác giải quyết tố cáo đạt


4
hiệu quả trở nên rất cần thiết, cấp bách trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Công tác giải quyết tố cáo của cơng dân do cơ quan hành chính nhà
nước thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội để đạt hiệu quả cao là một
nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng tạo nền tảng ổn định, vững chắc xây
dựng và phát triển thủ đô văn minh hiện đại.
Là một cán bộ đã và đang thực hiện công tác giải quyết tố cáo trên địa
bàn thành phố Hà Nội, tơi ln suy nghĩ, trăn trở tìm ra phương hướng, giải
pháp để công tác giải quyết tố cáo đạt hiệu quả cao, giảm thiểu số lượng các
vụ tố cáo tồn đọng, kéo dài góp phần làm ổn định tình hình chính trị, xã hội
để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô. Đây là lý do tôi
chọn đề tài “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác giải quyết tố cáo
của công dân do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trên địa bàn
thành phố Hà Nội” để thực hiện Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và
Lịch sử về Nhà nước và Pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Vị trí đặc biệt của quyền tố cáo của cơng dân, tầm quan trọng và mức độ
phức tạp của công tác giải quyết tố cáo của công dân ... đã thu hút sự quan tâm
sâu sắc của giới nghiên cứu và giới quản lý trong và ngồi nước. Từ góc độ khoa
học pháp lý, các cơng trình nghiên cứu liên quan tới chủ đề này đã đạt tới một số
lượng đáng kể và được cơng bố dưới nhiều hình thức ấn phẩm khác nhau.
Trước hết, phải kế đến các công trình nghiên cứu của các Trường đại
học, các Bộ ngành, trong đó hầu hết các cơng trình nghiên cứu về pháp luật tố
cáo được thực hiện bởi Thanh tra Chính phủ. Theo cơng bố của Thanh tra

Chính phủ, từ năm 2007 đến hết năm 2011, Thanh tra Chính phủ thực hiện:
- 01 đề tài cấp nhà nước "Khiếu nại, tố cáo hành chính - cơ sở lý luận,
thực trạng và giải pháp" (chủ nhiệm đề tài: TS Lê Tiến Hào, Phó Tổng Thanh
tra Chính phủ).


5
- 10 đề tài nghiên cứu liên quan trực tiếp tới công tác giải quyết tố cáo
của cơ quan hành chính nhà nước về tố cáo, có 03 đề tài cấp bộ:
+ Đề tài cấp Bộ: “Cơ sở xác định trách nhiệm của Chủ tịch ủy ban
nhân dân các cấp trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng chống tham nhũng” (2010), do ThS. Nguyễn Tuấn Khanh - Trưởng
phòng Nghiên cứu và Đào tạo, Viện Khoa học Thanh tra làm Chủ nhiệm đề
tài;
+ Đề tài cấp Bộ: “Cơ sở xử lý các hành vi vi phạm Luật khiếu nại, tố
cáo”, (2010), do ThS. Nguyễn Văn Kim - Phó Cục trưởng Cục I, Thanh tra
Chính phủ làm Chủ nhiệm đề tài;
+ Đề tài cấp Bộ: “Đổi mới cơ chế giải quyết tố cáo hiện nay”, (2008),
do TS. Đỗ Gia Thư - Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ làm Chủ
nhiệm đề tài.
- 07 đề tài cấp cơ sở, trong đó đáng chú ý là:
+ Đề tài: “Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện hệ thống quy định
nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo”, (2011), ThS. Nguyễn Huy Hoàng,
Trưởng khoa nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo, Trường Cán bộ Thanh tra
Chủ nhiệm;
+ Đề tài: “Cơ chế bảo vệ người tố cáo” do ThS. Nguyễn Văn Tuấn,
Trưởng phòng Tuyên truyền, thẩm định và kiểm tra văn bản pháp luật - Vụ
Pháp chế, Thanh tra Chính phủ làm Chủ nhiệm đề tài;
+ Đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận
và giải quyết tố cáo hành vi tham nhũng của cơ quan Thanh tra Chính phủ”

do đồng chí Trương Quốc Hưng - Phụ trách phòng Quản lý Khoa học, Viện
Khoa học Thanh tra làm Chủ nhiệm đề tài;
+ Đề tài: “Xây dựng Quy chế phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo đông
người vượt cấp lên Trung ương” do đồng chí Nguyễn Tiến Binh - Phó Vụ
trưởng Vụ VI, Thanh tra Chính phủ làm chủ nhiệm đề tài…
Các cơng trình nghiên cứu kể trên đã góp phần khơng nhỏ làm rõ nhiều


6
vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết tố cáo ở Việt Nam hiện nay. Những
cơng trình này đã đưa ra những nhận định, đánh giá về thực trạng và đề ra những
phương hướng và giải pháp hoàn thiện có tính khả thi về giải quyết tố cáo ở Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào đề cập cụ thể thực trạng
giải quyết tố cáo trên địa bàn Hà Nội cũng như đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật tố cáo dựa trên cơ sở tình hình cụ thể của thủ đơ Hà Nội.
Bên cạnh các đề tài nghiên cứu các cấp, đã có một số Luận án tiến sĩ và
luận văn thạc sĩ luật học tiếp cận nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chủ
đề này. Đáng lưu ý nhất là:
- Luận án tiến sĩ luật học: “Tăng cường hiệu quả pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Nguyễn Thế Thuấn (2001).
- Luận án tiến sĩ luật học: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà
nước ở Việt Nam hiện nay”, (2006) của tác giả Trần Văn Sơn;
Các cơng trình nói trên đã phân tích lịch sử hình thành và phát triển của
pháp luật khiếu nại, tố cáo từ năm 1945 đến nay; đánh giá thực trạng pháp chế
XHCN trong hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay; kiến nghị những giải pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong
hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. Mặc dù vậy, vai trị của cơ quan hành
chính nhà nước trong giải quyết tố cáo của công dân cũng như sự thể hiện vai trị

đó trong một khơng gian cụ thể lại chưa được chú ý đúng mức. Hơn nữa, do
được thực hiện cách đây khá lâu nên nhiều thơng tin đã có phần trở nên lạc hậu.
Ngồi ra, có một số lượng lớn các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên
ngành bàn về các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật tố cáo ở Việt Nam.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Theo những nguồn tư liệu tác giả có thể tiếp cận tới thời điểm này thì
các cơng trình nghiên cứu của nước ngồi có đề cập đến giải quyết tố cáo ở
Việt Nam chủ yếu nằm trong các cơng trình nghiên cứu do các tổ chức Việt


7
Nam thực hiện dưới sự tài trợ của các tổ chức phi Chính phủ. Những cơng
trình này chủ yếu hướng tới vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách
thủ tục hành chính có liên quan đến cơng tác giải quyết tố cáo ở Việt Nam.
Ngồi ra cịn có một số lượng rất ít các nghiên cứu về nhân quyền có đề cập
đến vấn đề tố cáo ở Việt Nam hiện nay, nhưng ở mức độ rất mờ nhạt.
Nghiên cứu pháp luật nước ngoài về tố cáo phải kể đến cuốn " Giải
pháp thay thế sự im lặng - Bảo vệ người tố cáo ở 10 quốc gia Châu Âu " (sách
tham khảo/Anja Osterhaus, Craig Fagan; Hoàng Thị Thu Hương dịch; Đào
Thị Nga h.đ), Nxb. Chính trị Quốc gia, 2011. Cuốn sách đã thông qua cuộc
khảo sát tại 10 quốc gia Châu Âu: Bungary, Cộng hịa Séc, Extơnia… cung
cấp cho các nhà hoạch định chính sách những thơng tin thực tế trong vấn đề
tìm ra những giải pháp bảo đảm an toàn cho người tố cáo và cơ chế thực thi
pháp luật để bảo vệ người tố cáo. Đây là những thơng tin bổ ích cho người
nghiên cứu về q trình giải quyết tố cáo.
Nhìn chung, có khá nhiều cơng trình nghiên cứu ở các mức độ khác
nhau về pháp luật tố cáo và công tác giải quyết tố cáo của cơng dân do cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện ở Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn cịn có nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn còn vướng mắc cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng
tỏ. Đặc biệt, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, đầy đủ về

tình hình tố cáo và cơng tác giải quyết tố cáo tại một địa phương cụ thể là
thành phố Hà Nội. Đó cũng chính là một trong những lý do giúp tác giả quyết
định chọn đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác giải quyết tố
cáo của công dân do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trên địa bàn
thành phố Hà Nội” để thực hiện Luận văn Thạc sỹ của mình.
Đây là vấn đề mới, song luận văn tiếp thu một cách có chọn lọc những
hạt nhân hợp lý của các cơng trình khoa học pháp lý có liên quan, để phát
triển và hồn chỉnh vấn đề nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng tới mục tiêu tổng quát là tăng cường nhận thức lý luận


8
về công tác giải quyết tố cáo của công dân do cơ quan hành chính nhà nước
thực hiện và xây dựng các luận cứ khoa học để tiếp tục nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết tố cáo của công dân do cơ quan hành chính nhà nước thực
hiện trên địa bàn Hà Nội nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền tố cáo của công
dân; trách nhiệm của nhà nước trong tôn trọng, bảo vệ, tổ chức thực hiện
quyền tố cáo của công dân; nội dung, thẩm quyền và quy trình giải quyết tố
cáo của cơ quan hành chính nhà nước; các yếu tố ảnh hưởng đến công tác giải
quyết tố cáo của công dân do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện.
- Đánh giá, phân tích tình hình tố cáo của cơng dân và thực trạng pháp
luật, thực trạng tổ chức và hoạt động của bộ máy giải quyết tố cáo trên địa
bàn thành phố Hà Nội. Từ đó chỉ ra ưu điểm, hạn chế , nguyên nhân và bài
học kinh nghiệm về công tác giải quyết tố cáo do cơ quan hành chính nhà
nước thực hiện trên địa bàn Thủ đô.
- Xác định các yêu cầu và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công

tác giải quyết tố cáo của công dân do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến quyền tố cáo
và trách nhiệm, thẩm quyền, nội dung và quy trình giải quyết tố cáo của cơ
quan hành chính nhà nước trên cơ sở Luật nhân quyền quốc tế và pháp luật
Việt Nam hiện hành.
- Luận văn nghiên cứu thực tiễn công tác giải quyết tố cáo của công
dân do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện tại địa bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Công tác giải quyết tố cáo của cơng dân do cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội sau khi
mở rộng bao gồm Hà Nội cũ, tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc


9
và 4 xã của huyện Lương Sơn, tỉnh Hịa Bình.
- Phạm vi thời gian: Công tác giải quyết tố cáo của cơng dân do cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm
2009 đến năm 2011 (thời điểm khi thành phố Hà Nội thực hiện điều chỉnh địa
giới hành chính theo Nghị quyết số 15/2008/NQ - QH12 ngày 29/2/2008 của
Quốc hội đến nay).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật - biện chứng và
duy vật - lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối,
quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về giải quyết tố cáo.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong khi thực hiện
đề tài là: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương
pháp so sánh, phương pháp thống kê và điều tra xã hội học, phương pháp

đánh giá thực trạng...
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận về công tác giải
quyết tố cáo của công dân do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện.
- Luận văn thể hiện cách nhìn khách quan, đầy đủ về thực trạng tình
hình tố cáo, kết quả đã đạt được trong quá trình giải quyết tố cáo của cơ quan
hành chính nhà nước tại Hà Nội, những hạn chế, bất cập của cơng tác giải
quyết tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước tại Hà Nội, nguyên nhân của
nhưng ưu điểm và hạn chế trong công tác giải quyết tố cáo của cơng dân do
cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trên địa bàn Hà Nội.
- Luận văn nêu một hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu
quả công tác giải quyết tố cáo của công dân do cơ quan hành chính nhà nước
thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội, góp phần ổn định an ninh chính trị, trật
tự an tồn xã hội nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu về tình hình tố cáo và cơng tác giải


10
quyết tố cáo của công dân do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trên địa
bàn thành phố Hà Nội từ khi điều chỉnh địa giới hành chính theo Nghị quyết
số 15/2008/NQ - QH12 ngày 29/2/2008 của Quốc hội.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, các nhà quản lý
trong quá trình xây dựng các phương án hoàn thiện pháp luật tố cáo, nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết tố cáo của công dân ở nước ta hiện nay.
- Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo học tập cho sinh viên Luật
và học viên cao học Luật tại các cơ sở đào tạo Luật ở Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.



11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CƠNG DÂN
DO CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN
1.1. QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ
NƯỚC TRONG GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN

1.1.1. Tố cáo và quyền tố cáo của công dân
Theo Từ điển Tiếng Việt thì tố cáo là “báo cho mọi người hoặc cơ quan
có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó" hay “là vạch rõ
tội lỡi của kẻ khác trước cơ quan pháp luật hoặc trước dư luận” [41].
Tố cáo là biểu hiện sự bất bình của người này về hành vi của người
khác và báo cho cơ quan, tổ chức, người khác biết để có thái độ, biện pháp
giải quyết. Tố cáo phản ánh những điều bất ổn đang diễn ra trong xã hội, cần
được những thiết chế chính trị - xã hội có phương thức giải quyết.
Giống như các quyền con người khác, tố cáo là một quyền tự nhiên, do
tạo hóa ban tặng, gắn liền với con người, thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
Quyền tố cáo, quyền công dân là những giá trị xã hội, thuộc về mỗi cá nhân
con người. Sự thụ hưởng, chọn lọc quyền này tùy thuộc vào mỗi cá nhân.
Tố cáo và khiếu nại có những khác biệt về cả nội dung lẫn cách thức
giải quyết. Cụ thể:
Thứ nhất, chủ thể của tố cáo chỉ là công dân còn chủ thể của khiếu nại
là cơ quan Nhà nước, tổ chức và cơng dân.
Thứ hai, tố cáo có đối tượng rất rộng, đó là "hành vi vi phạm pháp luật
của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt
hại tới lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, cơ quan, tổ
chức". Cịn đối tượng của khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành
chính hoặc quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức.

Thứ ba, mục đích của tố cáo khơng chỉ nhằm bảo vệ và khơi phục
quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo mà cịn hướng tới lợi ích của Nhà


12
nước và xã hội. Cịn mục đích của khiếu nại là hướng tới bảo vệ và khôi phục
quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
Thứ tư, cách thức thực hiện tố cáo là việc người tố cáo "báo" cho
người có thẩm quyền giải quyết tố cáo "biết" về hành vi vi phạm pháp luật,
trong khi đó, cách thức thực hiện của khiếu nại là việc người khiếu nại "đề
nghị" người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại "xem xét lại" các quyết định
hành chính, hành vi hành chính...,
Thứ năm, giải quyết tố cáo là việc người giải quyết tố cáo xác minh, kết
luận về nội dung tố cáo. Từ đó áp dụng biện pháp xử lý cho thích hợp với tính
chất và mức độ sai phạm của hành vi chứ không ra quyết định giải quyết tố
cáo, trong khi đó, giải quyết khiếu nại là việc xác minh, kết luận và ra quyết
định giải quyết của người giải quyết khiếu nại.
Từ những khác biệt nêu trên có thể thấy giữa hai khái niệm khiếu nại và
tố cáo có sự khác nhau khơng chỉ về nội dung mà cịn khác nhau từ bản chất
của chúng. Tuy nhiên, hai khái niệm này có liên quan với nhau, đều là những
quyền cơ bản của công dân - quyền trong lĩnh vực hành chính - chính trị.
Khiếu nại, tố cáo là những quyền chính trị - pháp lý của cơng dân, hình thức
của quyền dân chủ trực tiếp để nhân dân thực hiện quyền quản lý hành chính
nhà nước.
Cơng dân có quyền tố cáo là một nguyên tắc của nhà nước pháp quyền,
quyền tố cáo của công dân là để đối trọng và ngăn cản, hạn chế quyền lực nhà
nước nhằm bảo vệ quyền lực nhân dân, quyền và tự do của con người. Tuy
nhiên, quyền tố cáo cũng phản ánh sự phát triển và mang đặc điểm xã hội, nó
chịu sự chi phối của điều kiện tồn tại xã hội. Mức độ thực hiện quyền tố cáo
tác động trở lại sự phát triển xã hội. Quyền tố cáo, quyền công dân thể hiện

truyền thống và văn hóa dân tộc. Quyền phát triển dưới ảnh hưởng của những
điều kiện về tư tưởng, văn hóa, truyền thống, dân tộc, tơn giáo...
Quyền tố cáo là loại quyền có giới hạn, có thể bị hạn chế vì các lý do
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cả người khác, bảo vệ lợi ích chung của xã


13
hội. Phạm vi thực hiện quyền tố cáo được xác định bằng pháp luật của nhà
nước: trách nhiệm của nhà nước là bằng pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý cho
quyền tố cáo thông qua quy định về nội dung cụ thể của quyền, trách nhiệm
pháp lý của mỗi cá nhân, tổ chức khi cản trở người khác thực hiện quyền tố
cáo, khi lợi dụng, lạm dụng quyền hoặc trốn tránh nghĩa vụ…
Về phương diện chính trị - pháp lý, quyền tố cáo được các văn bản
pháp luật quốc tế về quyền con người và hầu hết hiến pháp của các quốc gia
ghi nhận, bảo vệ, đồng thời được cụ thể hóa và đảm bảo thực hiện bởi các luật
và văn bản hướng dẫn thi hành luật khác.
Khoản 3 Điều 2 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 qui định: các quốc gia thành viên ký kết công ước phải ban hành
pháp luật và các biện pháp cần thiết phù hợp để bất cứ người nào bị xâm
phạm quyền tự do đều được đền bù, đòi bồi thường thỏa đáng; tăng cường
những khả năng đưa ra những biện pháp khắc phục và bảo đảm các cơ quan
tư pháp, hành chính hay cơ quan lập pháp, các cơ quan có thẩm quyền sẽ phán
quyết về quyền của bất kỳ người nào yêu cầu được hưởng biện pháp khắc
phục; Bảo đảm các cơ quan thẩm quyền phải thi hành nghiêm chỉnh những
biện pháp khắc phục đã được đề ra.
Quyền tố cáo là một trong những quyền cơ bản của cơng dân được
Hiến pháp nước cộng hịa XHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001), ghi nhận tại Điều 74: “Cơng dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân

hoặc bất cứ cá nhân nào”.
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 quy định: “Tố cáo là việc công dân
theo thủ tục do Luật này quy định, báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức cá nhân
nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của cơng dân, cơ quan, tổ chức" (Khoản 2, Điều 2) [17].


14
Khoản 2, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2012)
quy định: “Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật
của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt
hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, cơ quan, tổ
chức” [20].
Như vậy, bản chất của quyền tố cáo là quyền tự vệ hợp pháp trước
những hành vi vi phạm để tự bảo vệ mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích của xã
hội. Đó là quyền phản hồi, quyền dân chủ và hơn thế nữa, đó là quyền để bảo
vệ quyền.
- Về mặt chủ thể: Chủ thể thực hiện quyền tố cáo là mọi công dân. Pháp
luật quy định chỉ cơng dân có quyền tố cáo.
- Về đối tượng: Đối tượng của tố cáo là mọi hành vi vi phạm pháp luật
của cơ quan, tổ chức, cá nhân gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
- Về nguyên nhân phát sinh: Tố cáo phát sinh khi một người cho rằng
lợi ích của Nhà nước, quyền hoặc lợi ích hợp pháp của cơng dân, cơ quan, tổ
chức đã bị xâm hại hoặc có thể bị xâm hại.
- Về tính chất, mục đích: Tố cáo là hành động nhằm bảo vệ và ngăn
chặn khả năng vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức.

-Về cách thức thực hiện: công dân phát hiện và báo cho người có thẩm
quyền giải quyết tố cáo ''biết'' về hành vi vi phạm pháp luật.
- Về trách nhiệm pháp lý: Người tố cáo phải chịu trách nhiệm pháp lý
khi cố tình tố cáo sai sự thật.
Pháp luật một số quốc gia trên thế giới thừa nhận tố cáo là quyền của
công dân, được nhà nước bảo đảm thực hiện. Trung Quốc, Singapore, Anh,
Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc đều quy định về quyền này và có thiết chế đảm bảo
thực hiện. Nhiều nước quy định bất kỳ công dân nào cũng có quyền báo cho


15
cơ quan có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật (hoặc nghi ngờ hành vi
vi phạm) của bất cứ cá nhân, tổ chức nào cho cơ quan có thẩm quyền. Đối với
các hành vi phạm tội về tham nhũng, hành vi phạm tội nói chung, tố cáo
khơng chỉ là quyền mà là nghĩa vụ của công dân. Một số nước quy định các
biện pháp khuyến khích để quyền tố cáo được thực hiện đầy đủ và mở rộng.
Hàn Quốc, Nêpan, Pakixtan quy định mức thưởng cho những người có thơng
tin phát hiện chính xác về tham nhũng....
1.1.2. Nghĩa vụ đối ứng của nhà nước đối với quyền
tố cáo của cơng dân
Lịch sử xã hội lồi người đã minh chứng, quyền tố cáo không do nhà
nước ban phát, song việc đảm bảo trên thực tế lại phụ thuộc rất nhiều vào hoạt
động nhà nước, vào nhận thức và thái độ của hệ thống công quyền. Trách
nhiệm của nhà nước trước hết thể hiện ở việc ghi nhận kịp thời và đầy đủ về
mặt pháp lý quyền tố cáo của công dân, đồng thời nhà nước không thể tùy
tiện tước bỏ, cắt xén quyền tự nhiên.
Quyền con người nói chung, quyền tố cáo nói riêng là một trong những
tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Nhà nước pháp quyền
phải quán triệt và hiện thực hóa hai nguyên tắc pháp luật cơ bản về đảm bảo
quyền con người: Cá nhân được làm tất cả trừ những điều pháp luật cấm; Cơ

quan, cán bộ nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Hoạt động
của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người
trong đó có quyền tố cáo của công dân, tạo mọi điều kiện cho công dân thực
hiện quyền tố cáo của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Mối quan
hệ giữa công dân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện luật
pháp và mang tính bình đẳng.
Trong quan hệ pháp luật này, cơng dân có quyền tố cáo, nhà nước, chủ
thể thực hiện quyền lực nhà nước, có nghĩa vụ bảo vệ những lợi ích cơ bản
nhất của nhà nước, xã hội và công dân. Điều 51 Hiến pháp 1992 quy định:
“Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo


16
đảm các quyền của công dân; công dân phải làm trịn nghĩa vụ của mình đối
với Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và
luật quy định” [14].
Như vậy, theo Điều 51, Điều 74 Hiến pháp 1992, Nhà nước ghi nhận
quyền tố cáo là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân và nhà
nước xây dựng các thiết chế bảo đảm cho công dân được hưởng các quyền,
thực hiện quyền và cũng địi hỏi cơng dân phải thực hiện các nghĩa vụ của
mình đối với nhà nước.
Xét từ yêu cầu, nghĩa vụ này, Nhà nước phải tổ chức thực hiện quyền
lực nhà nước thông qua quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đảm bảo quyền tố
cáo của công dân được thực hiện.
Về lĩnh vực lập pháp, Nhà nước phải tổ chức xây dựng Hiến pháp và
pháp luật quy định ràng buộc trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan nhà nước,
nhà chức trách trong việc tôn trọng, bảo vệ quyền tố cáo, quy định những thiết
chế bảo đảm sự tôn trọng, bảo vệ quyền tố cáo một cách hữu hiệu. Hiến pháp
là đạo luật cơ bản của Nhà nước và có giá trị pháp lý cao nhất; mọi văn bản
quy phạm pháp luật khác trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới quyền tố cáo và

bảo đảm của Nhà nước đối với quyền tố cáo đều phải được ban hành trên cơ
sở Hiến pháp và phải phù hợp với Hiến pháp. Các quy định của Hiến pháp về
quyền tố cáo và bảo đảm của Nhà nước có ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng
đặc biệt trong xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp
luật liên quan tới quyền tố cáo.
Nhà nước là chủ thể chính của việc “xã hội hố” tổ chức thực hiện và
thực hiện pháp luật về quyền tố cáo. Nhà nước vận động, động viên, thuyết
phục và tổ chức các tầng lớp nhân dân tham gia vào quá trình tuyên truyền,
phổ biến, giải thích và giáo dục pháp luật về quyền tố cáo; xây dựng, nêu
gương và nhân rộng các điển hình của việc thực hiện pháp luật về quyền tố
cáo; xây dựng, phát huy và duy trì dư luận xã hội lành mạnh trong việc thực
hiện pháp luật về quyền tố cáo; xây dựng và thực hiện các chính sách, cơ chế,


17
có biện pháp phù hợp đảm bảo, kết hợp với các tổ chức quần chúng trong việc
tổ chức thực hiện và thực hiện pháp luật về quyền tố cáo; thực hiện dân chủ
hố, cơng khai hố và minh bạch hố q trình nhân dân đóng góp nguồn lực
của vào việc tổ chức thực hiện và thực hiện pháp luật về quyền tố cáo…
Nhà nước cần thiết thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất pháp
luật về quyền tố cáo. Thực hiện pháp luật về quyền tố cáo được tiến hành
dưới bốn hình thức là tuân thủ (tuân theo) pháp luật, chấp hành (thi hành)
pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Tuân thủ pháp luật về
quyền tố cáo là sự tự kiềm chế của các chủ thể pháp luật để không thực hiện
những hành vi bị pháp luật cấm; chấp hành pháp luật về quyền tố cáo là sự
thực hiện các nghĩa vụ pháp lý bằng những hành vi tích cực của các chủ thể
pháp luật (yêu cầu của Nhà nước ở đây là không chỉ phải thực hiện các nghĩa
vụ pháp lý mà còn phải thực hiện các nghĩa vụ ấy một cách đầy đủ, nghiêm
chỉnh và thống nhất); sử dụng pháp luật về quyền tố cáo là sự thực hiện các
quyền pháp lý của các chủ thể pháp luật (yêu cầu của Nhà nước ở đây là các

chủ thể pháp luật phải thực hiện các quyền pháp lý trong phạm vi cho phép
của pháp luật); áp dụng pháp luật về quyền tố cáo là hoạt động mang tính tổ
chức - quyền lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm
quyền nhằm vận dụng các quy phạm pháp luật hiện hành cho từng cá nhân, tổ
chức cụ thể trong từng trường hợp cụ thể.
Cả bốn hình thức thực hiện pháp luật về quyền tố cáo nêu trên đều phụ
thuộc rất lớn vào trình độ ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân. Do đó, cần
áp dụng đồng bộ các biện pháp pháp lý nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho
họ, như tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục pháp luật;
đẩy mạnh cơng tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; xử lý kịp thời,
nghiêm minh, nhanh chóng mọi vi phạm pháp luật.
Nhà nước tổ chức thực hiện bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền tố cáo của
cơng dân, có chế tài xử phạt hành vi xâm phạm quyền tố cáo của cơng dân.
Để bảo vệ có hiệu quả pháp luật hiện hành về quyền tố cáo, Nhà nước


18
có các biện pháp: kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về quyền tố cáo,
trong đó cần kết hợp chặt chẽ bốn hình thức kiểm tra: kiểm tra của Đảng,
kiểm tra của Nhà nước, kiểm tra của các tổ chức xã hội và kiểm tra của nhân
dân, đồng thời nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp. Các thiết chế bảo vệ pháp luật xử lý kịp thời, nghiêm
minh các vi phạm pháp luật về quyền tố cáo và phòng ngừa các vi phạm pháp
luật về quyền tố cáo, là những biện pháp hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu
quả bảo vệ pháp luật hiện hành về quyền tố cáo của cơng dân.
Cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm chính và trực tiếp trong
việc hiện thực hố quyền tố cáo của cơng dân. Quyền tố cáo có được thực thi
trong thực tiễn hay không, được bảo đảm thực hiện trên thực tế như thế nào
phụ thuộc nhiều vào hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, chức năng của cơ
quan hành chính nhà nước. Từ đó cũng khẳng định rằng vai trị của cơng tác

giải quyết tố cáo của cơng dân do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện là
rất quan trọng. Công tác giải quyết tố cáo của công dân là việc tổ chức cho
công dân thực hiện quyền tố cáo của mình và yêu cầu các chủ thể khác có
nghĩa vụ trách nhiệm tơn trọng, thực hiện quyền tố cáo của công dân.
1.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA
CƠNG DÂN DO CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN

1.2.1. Khái niệm giải quyết tố cáo của công dân do cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện
1.2.1.1. Khái niệm giải quyết tố cáo
Theo từ điển tiếng Việt thì giải quyết là "làm cho khơng còn mọi trở
ngại, khó khăn để đạt tới kết quả tốt đẹp" hoặc " làm cho không còn thành
vấn đề nữa" [41, tr.388].
Khái niệm giải quyết tố cáo được thể hiện trong quy định tại khoản 7,
Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011: “Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh,
kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo”.
Khái niệm này đã bao quát khá đầy đủ trình tự, nội dung của việc giải


19
quyết tố cáo.
Do tính phức tạp của cơng tác giải quyết tố cáo nên trên thực tế hiện
nay cịn có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Một số nhà nghiên cứu cho
rằng giải quyết tố cáo còn bao hàm cả việc thi hành quyết định xử lý tố cáo
của cơ quan cơ thẩm quyền và việc kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết tố
cáo và thi hành quyết định xử lý tố cáo. Cũng có ý kiến cho rằng việc giải
quyết tố cáo bao gồm nhiều vấn đề liên quan trong việc chỉ đạo, tổ chức thực
hiện, bao gồm việc thẩm tra, xác minh nội dung tố cáo; việc kết luận, kiến
nghị các biện pháp xử lý; việc quyết định xử lý của người có thẩm quyền;
việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện quyết định xử lý về tố cáo trên thực tế và cả

việc kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết tố cáo, thi hành quyết định xử lý
tố cáo... Bên cạnh đó cũng có ý kiến khơng hồn tồn thống nhất như vậy, mà
cho rằng việc thẩm tra, xác minh là công việc đương nhiên phải làm trong quá
trình giải quyết tố cáo và việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện quyết định xử lý về
tố cáo là các công việc của các cơ quan quản lý nhà nước. Hoặc cho rằng,
giám sát hoạt động giải quyết tố cáo, việc xử lý của cơ quan nhà nước đối với
người có hành vi vi phạm khơng nằm trong chu trình của hoạt động giải quyết
tố cáo. Vì vậy, suy cho cùng giải quyết tố cáo là việc xử lý của nhà nước đối
với “người” có hành vi vi phạm.
Nghiên cứu những vấn đề liên quan tới tố cáo và giải quyết tố cáo,
đồng thời trên cơ sở phân tích hoạt động của các cơ quan, tổ chức ở nước ta,
thấy rằng: giải quyết tố cáo là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
xem xét hành vi của cá nhân, tổ chức (bị người tố cáo cho là có hành vi trái
pháp luật) và xử lý đối với “người” có hành vi vi phạm và có những biện
pháp khắc phục hậu quả do hành vi sai trái đó gây ra nhằm giữ gìn kỷ cương,
trật tự an tồn xã hội. "Người" ở đây được hiểu là các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có hành vi vi phạm.
Như vậy, giải quyết tố cáo là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, như trên đã phân tích, do sự đa dạng, phức tạp của các hành vi bị


20
tố cáo có thể là hành vi vi phạm pháp luật hành chính, hình sự, kinh tế, lao
động…nên việc giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan khác
nhau và do rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Việc giải quyết
tố cáo được áp dụng theo những thủ tục nhất định tùy vào tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Những hành vi vi phạm ở mức độ
nhẹ thì bị xử lý bằng biện pháp hành chính và sẽ do cơ quan hành chính tiến
hành, cịn những những hành vi vi phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự thì phải được các cơ quan tố tụng tiến

hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ đã được pháp luật về tố tụng quy định.
Chính vì vậy Luật Tố cáo hiện hành không quy định sâu về nội dung này mà
tập trung điều chỉnh về việc tố cáo và giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền giải
quyết của các cơ quan hành chính nhà nước.
1.1.1.2. Khái niệm cơ quan hành chính nhà nước
Trước hết, cơ quan hành chính nhà nước là một cơ quan nhà nước, nó
có 4 dấu hiệu cơ bản của một cơ quan nhà nước. Đó là:
- Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy
nhà nước được thành lập theo một trình tự thủ tục được pháp luật quy định.
- Cơ quan nhà nước có chức năng, quyền hạn, trách nhiệm xác định.
- Cơ quan nhà nước có cấu tạo bên trong theo quyết định pháp luật.
- Cơ quan nhà nước nhân danh nhà nước thực hiện các hoạt động có
tính quyền lực nhà nước.
Chức năng của các cơ quan thuộc hệ thống hành chính nhà nước là tiến
hành các hoạt động quản lý nhà nước hay điều hành trên cơ sở chấp hành
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - hành
chính, văn hóa xã hội. Nói cách khác, các cơ quan thuộc hệ thống hành chính
nhà nước thực hiện chức năng hành pháp bằng cách tiến hành các hoạt động
quản lý hành chính nhà nước. Nó khác với hoạt động của các cơ quan tư pháp
thực chất cũng tiến hành hoạt động thi hành pháp luật, nhưng bằng cách tiến
hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Tổ chức thực hiện


21
pháp luật không phải đặc quyền của hệ thống hành chính nhà nước.
Dù phân loại cơ quan nhà nước theo cách nào thì vẫn đi đến thừa nhận
chung hệ thống cơ quan bao gồm Chính phủ, UBND các cấp trong bộ máy
nhà nước nước ta là hệ thống cơ quan hành chính nhà nước hay quản lý nhà
nước hành pháp. Từ những trình bày về dấu hiệu của cơ quan nhà nước và sự
phân loại cơ quan hành chính nhà nước nêu trên có thể nêu khái niệm chung

về cơ quan hành chính nhà nước như sau:
Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của hệ thống hành
chính nhà nước được thành lập theo thủ tục nhất định nhằm thực hiện chức
năng quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật.
Theo khái niệm này, các cơ quan hành chính gồm Chính phủ và các bộ,
ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp và các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND. Nhưng cơ quan nào không thực hiện chức năng quản lý thì
khơng phải cơ quan hành chính nhà nước. Đối với các bộ phận thuộc UBND
cấp xã như văn phịng, tài chính cũng có thực hiện các nhiệm vụ quản lý,
nhưng bản thân chúng không phải là các bộ phận có chức năng độc lập và cơ
cấu của chúng cũng chỉ như một tổ công tác nên cũng không xem các cơ cấu
này là một cơ quan.
Tuy nhiên, giữa các cơ quan trong và ngoài hệ thống hành chính nhà
nước cũng có những cơ quan có chức năng, nhiệm vụ có nét tương đồng,
nhưng nội dung và mục đích hoạt động khác nhau nên thuộc về các cơ quan
khác nhau ví dụ vụ tổ chức cán bộ của hệ thống tòa án và một vụ tổ chức cán
bộ của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
1.2.1.3. Khái niệm giải quyết tố cáo của công dân do cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện
Phân tích khái niệm giải quyết tố cáo và khái niệm cơ quan hành chính
nhà nước trên đây, chúng ta có thể hiểu giải quyết tố cáo của công dân do cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện là việc các cơ quan hành chính nhà
nước tiến hành xác minh, kết luận về những nội dung tố cáo của công dân và


22
quyết định xử lý đối với “người” có hành vi vi phạm và có những biện pháp
khắc phục hậu quả do hành vi sai trái đó gây ra. Chủ thể tiến hành là cơ quan
hành chính nhà nước. Nội dung giải quyết là xác minh, kết luận và quyết định
xử lý đối tượng có hành vi vi phạm. "Người” được hiểu là các cá nhân, công

dân, cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm bị xử lý.
1.2.1.4. Thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam
trong giải quyết tố cáo của công dân
Thẩm quyền giải quyết tố cáo là quyền xem xét, giải quyết nội dung mà
chủ thể của quyền tố cáo đưa đến.
* Xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo:
- Nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo:
Căn cứ vào đặc điểm, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi bị tố
cáo và đối tượng bị tố cáo, Điều 12 Luật Tố cáo năm 2011 quy định về
nguyên tắc xác định thẩm quyền như sau:
1. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, cơng chức, viên chức đó giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do
người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó
giải quyết.
2. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ của cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của
nhiều cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý
cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo phối hợp với các cơ quan, tổ chức có
liên quan giải quyết.
3. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, cơng
vụ của cán bộ, cơng chức, viên chức có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành


23
tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự [20].
- Đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức khi thực
hiện nhiệm vụ cơng vụ trong cơ quan hành chính nhà nước: thẩm quyền giải

quyết được quy định cụ thể tại Điều 13 Luật Tố cáo:
Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ,
công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan hành chính
nhà nước gồm:
1. Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) có
thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện
nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, cơng chức do mình quản lý trực tiếp.
2. Chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã,
người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp huyện và cán bộ, cơng chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
3. Người đứng đầu cơ quan chuyên mơn thuộc UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp
luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của
người đứng đầu cơ quan chun mơn trực thuộc cơ quan mình và cán bộ,
cơng chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
4. Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp
huyện, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh và cán bộ, cơng chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
5. Tổng cục trưởng, Cục trưởng và cấp tương đương được phân cấp
quản lý cán bộ, cơng chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm
pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp
phó của người đứng đầu đơn vị thuộc Tổng cục, Cục và cấp tương đương, cán


24
bộ, cơng chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

6. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có thẩm quyền giải quyết
tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của
người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, thuộc
cơ quan ngang Bộ và cán bộ, cơng chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
7. Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Bộ trưởng, Thứ
trưởng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp tỉnh và
cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
Việc xác định thẩm quyền giải quyết được dựa trên nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của nền hành chính nhà nước ta, đó là nguyên tắc kết hợp quản
lý theo ngành và theo lãnh thổ. Như vậy, cơ sở pháp lý để xác định thẩm
quyền giải quyết tố cáo phải căn cứ vào hệ thống nhiều luật gồm Luật Tổ
chức và hoạt động của HĐND và UBND, Luật Cán bộ công chức, Luật Viên
chức, Luật Tố cáo...
Căn cứ quy định của Luật Tố cáo thì thẩm quyền giải quyết tố cáo được
phân cấp thẩm quyền theo phân cấp thẩm quyền của hệ thống cơ quan quản lý
hành chính nhà nước, cấp các cơ quan Trung ương và hệ thống ba cấp cơ quan
quản lý hành chính địa phương gồm: Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn
(cấp xã); Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã (cấp huyện); Người đứng đầu
cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp
tỉnh); Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh);
- Đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh
vực, Điều 31 quy định về thẩm quyền giải quyết như sau:
1. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà
nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ
quan đó có trách nhiệm giải quyết. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính trong cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với
hành vi vi phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý được giao, trừ trường hợp



25
pháp luật có quy định khác.
2. Tố cáo có nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của
nhiều cơ quan thì các cơ quan có trách nhiệm phối hợp để xác định thẩm
quyền giải quyết hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cấp trên quyết định giao
cho một cơ quan chủ trì giải quyết; tố cáo có nội dung thuộc thẩm quyền giải
quyết của nhiều cơ quan thì cơ quan thụ lý đầu tiên có thẩm quyền giải quyết.
3. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do cơ quan
tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
* Điều 23 quy định thẩm quyền của thẩm quyền của Chánh thanh tra
các cấp, của Tổng Thanh tra Chính phủ như sau:
- Thẩm quyền của Chánh thanh tra các cấp:
Xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà người đứng đầu cơ quan
cấp dưới trực tiếp của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp
đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp có căn cứ cho
rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đứng đầu
cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp xem xét, giải quyết lại.
- Thẩm quyền của Tổng Thanh tra Chính phủ:
Xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp
tỉnh đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp kết luận
việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem
xét, giải quyết lại.
Như vậy, căn cứ quy định của pháp luật tố cáo thì thẩm quyền giải
quyết tố cáo trong các cơ quan hành chính nhà nước là: Chủ tịch UBND cấp
xã; Thủ trưởng cơ quan trực thuộc UBND cấp huyện và sở, ngành; Chủ tịch
UBND cấp huyện; Giám đốc sở, ngành; Chủ tịch UBND cấp tỉnh; Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ; Thủ tướng Chính
phủ và Chánh thanh tra các cấp, Tổng thanh tra Chính phủ. Tuy nhiên, việc xác

định thẩm quyền giải quyết là của ai phụ thuộc vào đối tượng bị tố cáo, hành vi


×