Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

Thực hiện chính sách cán bộ đối với đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc bộ quốc phòng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.66 KB, 132 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách cán bộ là một bộ phận quan trọng của công tác cán bộ. Có
hệ thống chính sách cán bộ đúng sẽ hỗ trợ, thúc đẩy các mặt công tác cán bộ,
tạo động lực cho sự phát triển của đội ngũ cán bộ. Ngược lại, chính sách cán
bộ khơng tốt sẽ gây khó khăn cho cơng tác cán bộ, thậm chí làm biến dạng sự
phát triển của đội ngũ cán bộ, gây ra những hậu quả tiêu cực khơn lường.
Chính sách cán bộ là công cụ và biện pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ. Đảng
ta khẳng định thực hiện chính sách đối với cán bộ là khâu rất quan trọng, là
điều kiện cần thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ.
Trong Quân đội, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ giữ vai trị
rất quan trọng trong cơng tác cán bộ của Đảng đối với Qn đội, đó chính là
một động lực để xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ mới. Đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phịng là một
bộ phận có vị trí quan trọng trong cơ cấu đội ngũ cán bộ của Quân đội ta. Đây
là nguồn nhân lực - nguồn lực quyết định mọi nguồn lực của quá trình đào tạo
cán bộ, sĩ quan của Đảng và của Quân đội. Bởi đội ngũ này khơng chỉ là nhà
sư phạm, mà cịn là người chỉ huy, người lãnh đạo, người quản lý mọi hoạt
động của học viên, người trực tiếp truyền thụ tri thức khoa học, kinh nghiệm
lãnh đạo, chỉ huy, quản lý bộ đội. Họ đảm nhiệm công tác huấn luyện - đào
tạo, nghiên cứu khoa học ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phịng, góp phần
rất quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp
trong quân đội; trực tiếp đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học quân sự cho toàn
quân, nhất là ở các cơ quan chiến lược của Bộ; góp phần bồi dưỡng kiến thức
quốc phòng-an ninh cho các đối tượng là cán bộ của Đảng, Nhà nước trong và
ngoài quân đội; tham gia hợp tác quốc tế về đào tạo trong lĩnh vực quân sự,
góp phần tăng cường quan hệ ngoại giao quốc phòng quân sự với các nước
trên thế giới. Thấy rõ vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên ở các học



2
viên trực thuộc bộ Quốc phòng, Đảng, Nhà nước, Quân đội ban hành nhiều
chủ trương, chính sách xây dựng đội ngũ giảng viên; đã thực hiện một số
chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, bố trí sử dụng, đề bạt, chính sách
tiền lương, phụ cấp, chính sách nhà ở, đất ở, ổn định cuộc sống hậu phương
gia đình cán bộ, chính sách khen thưởng, kỷ luật đối với đội ngũ giảng viên
phù hợp với tình hình mới. Do đó, đội ngũ giảng viên ở các học viện trực
thuộc Bộ Quốc phòng ngày càng trưởng thành nâng cao về trình độ năng lực,
phong cách cơng tác, góp phần tạo ra đội ngũ giảng viên có trình độ năng lực
sư phạm quân sự, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong sáng, đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trong thời gian qua, ở các học viện, nhà trường Quân đội nói chung và
các học viện trực thuộc Bộ Quốc phịng nói riêng, ln được sự quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp về việc thực
hiện chính sách cán bộ đối với đội ngũ giảng viên; bảo đảm đội ngũ giảng
viên từng bước trưởng thành vững mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm
đã đạt được, thực hiện chính sách đối với đội ngũ giảng viên ở các học viện
trực thuộc Bộ Quốc phòng còn bộc lộ một số bất cập như: hệ thống chính
sách chưa đồng bộ, nhất qn, cịn mang tính giải pháp tình thế; thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng chưa sát với yêu cầu; việc thực hiện luân
chuyển, đi thực tế và bố trí, sử dụng đội ngũ giảng viên có nơi, có trường hợp
chưa phù hợp; chính sách đãi ngộ giảng viên chưa thật sự thỏa đáng, đời sống
vật chất và tinh thần của đội ngũ giảng viên và hậu phương gia đình cán bộ
cịn nhiều khó khăn. Vì vậy, sức thu hút cán bộ giỏi, có năng lực về làm giảng
viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng còn hạn chế, đây là một trong
những nguyên nhân làm cho đội ngũ giảng viên thiếu về số lượng, mất cân
đối về cơ cấu và chất lượng có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hiện nay, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng là xu thế khách quan,
bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng xuất hiện và tiềm ẩn nhiều nguy cơ,



3
thách thức, các thế lực thù địch luôn dùng mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá
cách mạng nước ta. Tình hình kinh tế - xã hội đất nước tiếp tục phát triển và
thu được nhiều thành tựu to lớn; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, nẩy sinh nhiều
khó khăn, thách thức mới. Yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
xây dựng Quân đội, củng cố quốc phịng - an ninh trong tình hình mới. u
cầu đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo, đặt ra nhiều vấn đề trong
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội nói chung và đội ngũ giảng
viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phịng nói riêng; địi hỏi phải có
những nghiên cứu, đề xuất các giải pháp khả thi để tiếp tục đổi mới, thực hiện
có hiệu quả chính sách đối với đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc
Bộ Quốc phịng. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Thực hiện chính sách cán
bộ đối với đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phịng
trong giai đoạn hiện nay" có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách cán bộ nói chung và chính sách cán bộ đối với đội ngũ
giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng nói riêng là một vấn đề
lớn trong cơng tác cán bộ, được Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhiều nhà khoa
học, cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, tiêu biểu
là:
* Sách, đề tài khoa học
- Ban Tổ chức Trung ương (1998), Quan điểm, chính sách đào tạo, sử
dụng và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp,
Báo cáo chuyên đề.
- PGS, TS Nguyễn Phú Trọng và PGS,TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên,
(2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Đây là cuốn sách đề cập khá sâu sắc, toàn diện cơ sở lý



4
luận, thực tiễn của công tác cán bộ; nêu lên một số kinh nghiệm xây dựng đội
ngũ cán bộ ở nước ta và trên thế giới; đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ,
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ và đề xuất mục tiêu, quan điểm, phương
hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
- PGS, TS Tô Huy Rứa và PGS, TS Trần Khắc Việt đồng chủ biên,
(2003), "Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay", Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Các tác giả đề cập sâu sắc đến những vấn đề cơ bản nhất của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về hình mẫu và tiêu chuẩn của
người cộng sản và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ cán bộ
đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
- Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phịng (2006), "Tiếp
tục đổi mới, hồn thiện chính sách đãi ngộ đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân
đội, củng cố quốc phịng trong tình hình mới", Nxb Qn đội nhân dân. Đây
là đề tài nghiên cứu khá sâu sắc những vấn đề lý luận và thực tiễn của chính
sách và cơng tác chính sách trong Qn đội nhân dân Việt Nam; khẳng định vị
trí, vai trị của chính sách đãi ngộ đối với các đối tượng trong Quân đội; đề
xuất các giải pháp rất căn bản về việc tiếp tục đổi mới, hồn thiện chính sách
đãi ngộ đáp ứng u cầu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong tình
hình mới.
- PGS, TS Trần Đình Hoan (2008), "Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước",
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận về
đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước; thực trạng công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển
cán bộ trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, đồng thời nêu lên một số kinh
nghiệm trong lịch sử nước ta và một số quốc gia trên thế giới về luân chuyển

cán bộ. Cuốn sách cũng nêu lên một số giải pháp đổi mới công tác đánh giá,


5
quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta trong thời kỳ mới.
- PGS,TS Trương Thị Thông và TS Lê Kim Việt đồng chủ biên (2008),
"Bệnh quan liêu trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay - Thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã
tập trung phân tích sâu sắc về nguồn gốc, bản chất, những tác hại, các biểu
hiện chủ yếu và nguyên nhân của bệnh quan liêu trong công tác cán bộ. Đồng
thời, đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu để phịng, chống bệnh
quan liêu trong cơng tác cán bộ giai đoạn hiện nay.
- PGS, TS Lê Văn Yên và TS Nguyễn Duy Hùng (2009), "Về kinh
nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ ở Trung Quốc", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Các tác giả đã phân tích tồn bộ vấn đề liên quan đến công tác cán bộ
như chế độ công vụ của cán bộ, công chức; việc cải cách thể chế chính trị; vai
trị lãnh đạo của Đảng cộng sản; việc xây dựng tố chất và năng lực đối với cán
bộ lãnh đạo; công tác đào tạo, bồi dưỡng; tiến cử, lựa chọn, đề bạt, sử dụng và
đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý của Trung Quốc.
- Bộ Quốc phịng (2010), "Nghiên cứu kiện tồn, phát triển và nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong các trường
Quân đội", Mã số: KXB.04.04. Các tác giả đã lý giải sự cần thiết phải nghiên
cứu vấn đề trên, từ đó đi sâu phân tính cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kiện
toàn, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo
dục trong các trường Quân đội; từ thực trạng của kiện toàn, phát triển đội ngũ
nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục quân đội, đề tài đã đưa ra những giải pháp
quan trọng để kiện toàn, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo,
cán bộ quản lý giáo dục trong các nhà trường quân đội hiện nay.
- Học viện Kỹ thuật Qn sự (2010), "Hồn thiện chính sách xã hội đối
với đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự trong xây dựng Quân đội nhân

dân Việt Nam hiện nay". Ngồi phần lý luận về vị trí, vai trị của chính sách
xã hội đối với đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự, tập thể tác giả đã đi


6
sâu phân tích và đề xuất giải pháp hồn thiện chính sách xã hội đối với đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay.
- Học viện Quốc phòng (2011), "Nghiên cứu nâng cao hiệu quả cơng
tác chính sách ở Học viện Quốc phịng trong tình hình mới". Đề tài đã phân
tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách, cơng tác chính sách ở
Học viện Quốc phòng; chỉ ra những đặc điểm cơ bản liên quan đến việc thực
hiện cơng tác chính sách và đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hơn
nữa hiệu quả cơng tác chính sách ở Học viện Quốc phòng trong những năm tới.
* Các bài viết trên tạp chí:
- Huy Bá (1999), "Để các nhà khoa học công hiến nhiều hơn", Báo
Nhân dân, số ra ngày 28/10/1999.
- Lê Kim Việt (1999), "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng u cầu thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Cộng sản, số 24.
- Trần Xuân Trường (2002), "Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới", Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
Ở các góc độ khác nhau, các tác giả đã đề cập những quan điểm cả về
lý luận và thực tiễn của công tác cán bộ, các nội dung của công tác cán bộ,
nhất là đã đề ra được những giải pháp cơ bản để thực hiện vấn đề mà các tác
giả trình bày.
* Luận án, luận văn
- Nguyễn Quang Phát (2001), Xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị phân
đội của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hờ Chí Minh,
Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Quân sự.

- Trần Văn Minh (2004), Tiếp tục đổi mới cơng tác chính sách trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, Học
viện Chính trị quân sự. Đây là đề tài nghiên cứu khá sâu sắc về vị trí, vai trị,


7
chức năng, nhiệm vụ của cơng tác chính sách trong Quân đội nhân dân Việt
Nam và nhấn mạnh tầm quan trọng của các phẩm chất, năng lực của đội ngũ làm
cơng tác chính sách; đề xuất những giải pháp rất thiết thực cho việc xây dựng,
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong quân đội giai đoạn hiện nay.
- Trần Đình Gia (2008), Thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ
thuộc diện Ban thường vụ huyện uỷ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh quản lý trong giai
đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trịHành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Mai (2009), Thực hiện chính sách cán bộ đối với đội ngũ
cán bộ xã ở Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Các cơng trình nghiên cứu trên, ở những góc độ và mức độ khác nhau
đã bàn đến vấn đề chính sách cán bộ. Một số cơng trình đã luận giải cơ sở lý
luận và thực tiễn việc thực hiện chính sách cán bộ, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ các cấp, chỉ ra phương hướng và giải pháp đổi mới chính sách
cán bộ. Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một
cách trực tiếp, hệ thống, toàn diện về “Thực hiện chính sách cán bộ đối với
đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng giai đoạn
hiện nay”. Chính vì vậy, luận văn này sẽ đi sâu vào nghiên cứu, làm rõ vấn
đề đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách cán
bộ đối với đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng trong
giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp để thực hiện tốt hơn

chính sách cán bộ đối với đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ
Quốc phòng trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ các vấn đề lý luận về thực hiện chính sách cán bộ đối với


8
đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng trong giai
đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện chính sách cán bộ đối với
giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng, rút ra nguyên nhân và
kinh nghiệm.
- Dự báo các yếu tố tác động, xác định phương hướng, yêu cầu và đề
xuất giải pháp để thực hiện tốt chính sách cán bộ đối với đội ngũ giảng viên ở
các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: thực hiện chính sách cán bộ đối với đội ngũ
giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: thực hiện chính sách cán bộ đối với giảng
viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng từ năm 2006 đến nay và định
hướng giải pháp đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận: luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về chính sách cán bộ.
5.2. Cơ sở thực tiễn: thực tiễn việc thực hiện chính sách cán bộ đối với
đội ngũ cán bộ nói chung, đối với đội ngũ giảng viên ở các học viện trực
thuộc Bộ Quốc phịng nói riêng.
5.3. Phương pháp nghiên cứu: trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu
phân tích - tổng hợp; lịch sử -lôgic; hệ thống - cấu trúc; điều tra xã hội học và
phương pháp chuyên gia.
6. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn


9
- Góp phần làm rõ những vấn đề về quan niệm, nội dung, nguyên nhân,
kinh nghiệm, các giải pháp thực hiện chính sách cán bộ đối với đội ngũ giảng
viên ở các Học viện trực thuộc Bộ quốc phòng.
- Kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập mơn Xây dựng Đảng, mơn Cơng tác đảng,
cơng tác chính trị trong các học viện, nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


10
Chương 1
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÁN BỘ ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN ë CÁC HỌC VIỆN TRỰC THUỘC BỘ QUỐC PHÒNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
1.1. CÁC HỌC VIỆN VÀ ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN Ở CÁC HỌC VIỆN
TRỰC THUỘC BỘ QUỐC PHÒNG HIỆN NAY

1.1.1. Các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng hiện nay
Luật Giáo dục đã được sửa đổi, bổ sung (2009) quy định các học viện,
nhà trường thuộc Bộ Quốc phòng nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Điều 49 quy định: "Trường của lực lượng vũ trang nhân dân có nhiệm vụ đào
tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan, qn nhân chun nghiệp và cơng nhân
quốc phịng; bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý nhà nước về nhiệm
vụ và kiến thức quốc phòng-an ninh" [57, tr.73].
Các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng nằm trong hệ thống các nhà
trường quân đội, bao gồm 6 học viện:
1- Học viện Quốc phòng
2- Học viện Lục quân
3- Học viện Chính trị
3- Học viện Hậu cần
5- Học viện Kỹ thuật - Quân sự
6- Học viện Quân y
* Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức
Căn cứ Nghị định số 104/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2008
(được điều chỉnh, sửa đổi bằng Nghị định số 35/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 4
năm 2013) của Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành các


11
quyết định cụ thể quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức biên
chế cho các học viện trên, cụ thể gồm:
- Ban Giám đốc (Ban giám hiệu): gồm có giám đốc, chính ủy, phó
chính ủy, các phó giám đốc phụ trách các mặt công tác huấn luyện - đào tạo,
khoa học, hậu cần, kỹ thuật...
- Các cơ quan chức năng: gồm các cục (phịng) chính trị, huấn luyện đào tạo, khoa học, hậu cần, kỹ thuật, văn phịng.
- Các hệ (tiểu đồn) quản lý học viên: thường được tổ chức theo các
khối chuyên ngành khác nhau như:
Học viện Quốc phịng có 4 hệ như: (Hệ Chiến dịch-Chiến lược; Hệ Sau
đại học; Hệ Quốc tế; Hệ Quốc phòng.

Học viện Lục qn có 4 hệ
Học viện Chính trị có 7 hệ
Học viện Quân y có 5 hệ
- Các khoa giáo viên: căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các học
viện. Căn cứ vào các quyết định về tổ chức biên chế do Bộ Tổng tham mưu
ban hành; tổ chức các khoa giáo viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc
phịng có sự khác nhau:
Học viện Quốc phịng tổ chức thành 10 khoa giáo viên (Khoa Công tác
Đảng, Cơng tác Chính trị; Khoa Mác-Lênin; Khoa Chiến lược; Khoa Chiến
dịch; Khoa Trinh sát; Khoa Chỉ huy Bội đội; Khoa Quân chủng; Khoa Binh
chủng; Khoa Quân sự địa phương; Khoa Hậu cần-Kỹ thuật).
Học viện Lục quân: 17 khoa
Học viện Chính trị: 14 khoa
Học viện Hậu cần: 12 khoa
Học viện Kỹ thuật - Quân sự: 15 khoa
Học viện Quân y: 18 Bộ mơn (khoa)
- Các đơn vị trực thuộc khác: có các phịng, trung tâm, viện, cơng ty
như: Phịng Khảo thí và đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo, phịng Thơng
tin KHQS, Trung tâm mơ phỏng, các viện nghiên cứu...


12
1.1.2. Đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng
hiện nay
1.1.2.1. Quan niệm về đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc
Bộ Quốc phòng hiện nay
Với đặc thù hoạt động trong môi trường sư phạm quân sự, đội ngũ
giảng viên các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng được quan niệm cụ thể
như sau:
Đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng là những

nhà giáo, là một bộ phận của đội ngũ cán bộ quân đội, bao gồm những sỹ
quan, qn nhân chun nghiệp, cơng chức quốc phịng, có chức danh là
giảng viên, có đủ phẩm chất và năng lực thực hiện nhiệm vụ huấn luyện - đào
tạo và nghiên cứu khoa học ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phịng; có
trình độ chun mơn sư phạm qn sự nhất định.
Quan niệm đội ngũ giảng viên như trên cho thấy:
Trước hết đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc
phòng là những nhà giáo. Điều 70, Luật Giáo dục được bổ sung, sửa đổi
(2009) chỉ rõ: "Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong
nhà trường, cơ sở giáo dục khác". Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau
đây: phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn được đào tạo về
chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản
thân rõ ràng. Trình độ chuẩn đối với nhà giáo giảng dạy ở các trường đại
học, cao đẳng là phải có bằng đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm [57, tr.94]. Cũng theo Điều 70 của Luật Giáo dục, Nhà
giáo giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng nghề gọi là
giảng viên [57, tr.94].
Đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng là một bộ
phận của đội ngũ cán bộ quân đội, có nghĩa là đội ngũ này được biên chế
trong quân đội, ở các khoa, bao gồm những sỹ quan, quân nhân chuyên


13
nghiệp, cơng chức quốc phịng, được đào tạo cơ bản ở các trường sỹ quan, các
học viện trong quân đội hoặc ở các trường đại học, các học viện ngoài quân
đội được tuyển chọn vào quân đội, làm việc ở các học viện.
Đội ngũ giảng viên trong phạm vi nghiên cứu là những người có chức
danh là giảng viên: phải có quyết định là giảng viên của cấp có thẩm quyền.
Cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phịng sau khi tốt
nghiệp chương trình đào tạo được giữ lại học viện hay sinh viên đã tốt nghiệp

các trường đại học ngoài quân đội được tuyển dụng vào quân đội, hoặc sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phịng đang cơng tác ở các
đơn vị trong tồn quân được điều động về các khoa giáo viên làm nhiệm vụ
huấn luyện - đào tạo và nghiên cứu khoa học ở các học viện trực thuộc Bộ
Quốc phòng. Do điều kiện và khả năng đề tài không nghiên cứu sâu hơn đến
các thành phần, đối tượng khác như giảng viên khiêm nhiệm, thỉnh giảng...
Đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng được
trang bị những kiến thức chuyên môn sư phạm quân sự nhất định: ngoài
những tiêu chuẩn chung của người cán bộ trong quân đội, tiêu chuẩn của nhà
giáo: phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn được đào tạo về
chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản
thân rõ ràng thì đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng
còn được đào tạo, hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm quân sự ở các học viện
theo chuyên ngành đảm nhiệm.
Đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phịng gồm có
các chức danh cụ thể sau:
Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm khoa
Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm (tổ trưởng, phó tổ trưởng ) bộ mơn
Giảng viên
Trên cơ sở Nghị định số 104/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2008,
(được điều chỉnh, sửa đổi bằng Nghị định số 35/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 4


14
năm 2013) của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định ban hành tiêu
chuẩn chức vụ cán bộ trong quân đội, trên cơ sở đó cấp ủy, thủ trưởng các cấp
cần nắm vững tiêu chuẩn từng chức vụ để từ đó lập kế hoạch thực hiện chính
sách cán bộ như: đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ; là cơ sở để xem xét, quản
lý, sử dụng cán bộ được thống nhất và cũng là mục tiêu để từng cán bộ, giảng

viên rèn luyện phấn đấu. Các chức danh cụ thể ở các khoa có các tiêu chuẩn
riêng, tuy nhiên, có những điểm chung cho từng loại giảng viên, đó là:
+ Đối với giảng viên là chủ nhiệm, phó chủ nhiệm khoa
- Về chức trách: là người chỉ huy khoa, chịu trách nhiệm trước đảng ủy,
giám đốc học viện, cấp ủy đảng khoa về tổ chức thực hiện nhiệm vụ huấn
luyện - đào tạo và nghiên cứu khoa học; quản lý xây dựng khoa vững mạnh
toàn diện và hoàn thành các nhiệm vụ khác được giao.
- Về nhiệm vụ:
Căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị, chỉ lệnh của cấp trên, quy chế đào tạo
và mệnh lệnh của giám đốc học viện; lập kế hoạch công tác giảng dạy và
nghiên cứu khoa học, báo cáo giám đốc khi được phê duyệt thì tổ chức thực
hiện.
Chủ động nghiên cứu đề xuất với giám đốc về chuyên ngành đào tạo,
đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học và nghiên cứu khoa
học của khoa.
Trực tiếp chỉ huy điều hành hoạt động giáo dục - đào tạo, nghiên cứu
khoa học, bồi dưỡng chuyên môn cho giảng viên và xây dựng khoa.
Tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, hoạt động phương pháp,
huấn luyện, diễn tập, đi thực tế theo quy định.
Duy trì chặt chẽ chế độ, quản lý nắm chắc mọi mặt của khoa, chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, giảng viên trong khoa, góp phần xây
dựng khoa vững mạnh tồn diện.


15
Kiện toàn và điều hành hoạt động của hội đồng khoa học cấp khoa.
Thực hiện đúng các chế độ công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và báo
cáo cấp trên theo quy định.
Quan hệ phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị trong và
ngoài qn đội có liên quan để thực hiện nhiệm vụ.

Khơng ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ, chức trách được giao.
+ Đối với giảng viên là chủ nhiệm, phó chủ nhiệm bộ môn
Là người chỉ huy bộ môn thuộc một khoa, chịu trách nhiệm trước cấp
ủy, chủ nhiệm khoa về mọi mặt công tác huấn luyện-đào tạo và nghiên cứu
khoa học của bộ môn; quản lý xây dựng bộ môn vững mạnh toàn diện và
hoàn thành các nhiệm vụ khác được giao.
- Về nhiệm vụ:
Căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị, chỉ lệnh và quy chế công tác đào tạo và
mệnh lệnh của giám đốc học viện và của chủ nhiệm khoa; lập kế hoạch công
tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học, báo cáo chủ nhiệm khoa phê duyệt và
tổ chức thực hiện.
Nghiên cứu đề xuất với chủ nhiệm khoa về nội dung, chương trình,
phương pháp huấn luyện - đào tạo và nghiên cứu khoa học của bộ môn.
Trực tiếp chỉ huy điều hành hoạt động huấn luyện - đào tạo, biên soạn
giáo trình, giáo án, nghiên cứu khoa học và các nhiệm vụ được giao.
Tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đổi mới nội dung, phương
pháp, huấn luyện, diễn tập, đi thực tế, dự nhiệm theo quy định.
Tổ chức đăng ký và thi giảng viên dạy giỏi cấp khoa, học viện của
giảng viên trong bộ mơn; duy trì chặt chẽ chế độ về nền nếp chính quy, xây
dựng mơi trường văn hóa lành mạnh của bộ mơn.
Quản lý nắm chắc mọi mặt công tác của bộ môn, chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần cho cán bộ, giảng viên trong bộ mơn, góp phần xây dựng đơn
vị vững mạnh toàn diện.


16
Quan hệ phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị trong và
ngồi qn đội có liên quan để thực hiện nhiệm vụ.
Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ, chức trách được giao.
+ Đối với giảng viên
Là cán bộ giảng dạy, chịu trách nhiệm trước chủ nhiệm bộ môn và chủ
nhiệm khoa về giảng dạy và các nhiệm vụ khác được giao.
- Chức trách:
Giảng dạy một phần hoặc tồn bộ chương trình mơn học được phân cơng.
Tham gia hướng dẫn và chấm luận văn, tiểu luận, bài kiểm tra, bài tập,
chuyên đề, thi tốt nghiệp quốc gia, viết giáo trình, giáo án, tưởng định, mơ
hình, học cụ, tập bài, thảo luận; nghiên cứu đề tài khoa học, diễn tập thực nghiệm.
Biên soạn tài liệu giảng dạy (bài giảng, bài tập, tài liệu tham khảo, đề
thi, đáp án...) môn học; chuẩn bị cơ sở vật chất cho giảng dạy môn học được
phân công.
Thực hiện các quy định về giảng dạy, nghiên cứu khoa học, chuyên
môn nghiệp vụ; hướng dẫn học viên đi thực tập, thực tế, tham gia quản lý giáo
dục, đào tạo khi được phân công.
Thường xuyên học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất, trình độ năng
lực về mọi mặt của bản thân.
1.1.2.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ giảng viên ở các học viện trực
thuộc Bộ Quốc phòng
Lịch sử cho thấy, để tiến hành đấu tranh cách mạng có kết quả cần có
những người tổ chức, lãnh đạo phong trào, đó chính là cán bộ. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn" [41, tr.181]. V.I.Lênin, người kế thừa và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đã đặc biệt coi trọng vai trò của cán bộ.
Lênin khẳng định: "Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh.


17
Hiện nay đó là then chốt; nếu khơng thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết
định sẽ chỉ là mớ giấy lộn" [37, tr.449].

Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đặc biệt quan tâm đến cán bộ và công tác
cán bộ. Người coi: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [47, tr.269]; "Công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [47, tr.273].
Đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng là một bộ
phận của đội ngũ cán bộ trong qn đội, có vai trị rất quan trọng trong mọi
hoạt động của các học viện, có thể khái quát ở những nội dung chính sau:
Thứ nhất, đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng
giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng huấn luyện - đào tạo.
Các nhà kinh điển Mác-Lênin đều cho rằng, đội ngũ nhà giáo trong
quân đội vô sản là lực lượng vô cùng quan trọng, họ là những "máy cái" sản
xuất ra những"cỗ máy" mới là đội ngũ sĩ quan - lực lượng nịng cốt của qn
đội vơ sản; sản phẩm của họ là "giá trị tạo ra mọi giá trị". Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi nhiệm vụ của giáo viên là "thiêng liêng", là "quan trọng và vẻ vang"
với trách nhiệm nặng nề là đào tạo con người cho sự nghiệp xây dựng, phát triển
và bảo vệ đất nước. "Các cơ, các chú có nhiệm vụ quan trọng: bồi dưỡng thế hệ
công dân, cán bộ sau này. Làm tốt thì thế hệ sau này có ảnh hưởng tốt, làm
khơng tốt sẽ có ảnh hưởng khơng tốt đến thế hệ sau" [62, tr.98].
Đảng, Nhà nước đã xác định phát triển giáo dục - đào tạo là quốc sách
hàng đầu, ln đề cao vị trí, vai trị của nhà giáo. Quân đội luôn khẳng định vị
thế xã hội cũng như ghi nhận và đánh giá cao sự cống hiến lớn lao của đội
ngũ nhà giáo trong các nhà trường quân đội, trong đó có đội ngũ giảng viên ở
các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng, đây là nguồn lực - nguồn lực quyết
định mọi nguồn lực của quá trình đào tạo, điều này đã được khẳng định tại
Điều 15, Luật Giáo dục năm (2005), sửa đổi, bổ sung (năm 2009): “Nhà giáo
giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục”. [57, tr.40-41].
Đội ngũ giảng viên là người trực tiếp biên soạn tài liệu, giáo án, bài giảng,


18
trực tiếp huấn luyện - đào tạo học viên, trực tiếp tham gia đánh giá kết quả

học tập của học viên. Do đó, chất lượng huấn luyện - đào tạo ở các học viện
trực thuộc Bộ Quốc phòng phụ thuộc vào trình độ, năng lực cơng tác của đội
ngũ giảng viên. Ở đâu, lúc nào phát huy hết khả năng, năng lực, trách nhiệm
của đội ngũ giảng viên thì ở đó, nhiệm vụ trung tâm là huấn luyện - đào tạo sẽ
hồn thành tốt và ngược lại, nếu khơng chú trọng chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng,
phát huy đội ngũ giảng viên đúng mức thì sẽ ảnh hưởng đến mức độ hoàn
thành nhiệm vụ, chất lượng huấn luyện - đào tạo ở học viện.
Thứ hai, là lực lượng chủ công trong nghiên cứu khoa học ở các học
viện trực thuộc Bộ Quốc phòng
Nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ chính của các học
viện trực thuộc Bộ Quốc phịng, để thực hiện tốt nhiệm vụ này khơng ai khác
là đội ngũ giảng viên; với số lượng và chất lượng của đội ngũ giảng viên có
thể nói hầu hết các cơng trình nghiên cứu khoa học, đều phải có bàn tay, khối
óc của người thầy, của các nhà khoa học ở các khoa giáo viên. Người thầy
được trang bị những kiến thức cơ bản ở các chuyên ngành, trên lĩnh vực khác
nhau, có khả năng tư duy tổng hợp và khái quát cao, có kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn phong phú cả ở trên lớp, ngoài thao trường và ở các trung tâm
nghiên cứu, thí nghiệm. Đội ngũ giảng viên luôn được coi là lực lượng đông
đảo, quan trọng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả cơng tác nghiên cứu khoa
học của học viện.
Thứ ba, góp phần rất quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
xây dựng đơn vị, thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước và Quân đội
Các học viện trực thuộc Bộ Quốc phịng ln được xác định là những
trung tâm đào tạo lớn của quân đội và của quốc gia, không chỉ đào tạo đội ngũ
sĩ quan trong quân đội mà còn đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cho Đảng,
Nhà nước; đào tạo các chuyên ngành quân sự, đào tạo liên ngành, liên thông,


19

liên kết, đào tạo trong nước và hợp tác đào tạo quốc tế. Đội ngũ giảng viên là
lực lượng góp phần rất quan trọng vào thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước, Quân đội về thực hiện cơng tác tổ chức cán bộ, là lực
lượng nịng cốt ở các học viện thực hiện nhiệm vụ huấn luyện - đào tạo; dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, người chỉ huy đội ngũ giảng viên đã cụ thể
các chủ trương, nghị quyết, các nội dung, chương trình huấn luyện - đào tạo
vào bài giảng, chuyên đề, có hệ thống chuyên sâu, giảng viên được trực tiếp
lên lớp truyền thụ tri thức đến người học, do đó góp phần nâng cao trình độ,
năng lực cho người học, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ. Có thể nói họ là xương sống trong hệ thống tổ chức ở các
học viện, khơng có đội ngũ này thì khơng thể hình thành lên một học viện,
nhà trường quân đội; đây là lực lượng đông đảo nhất, có học hàm, học vị cao
nhất, tạo ra thương hiệu của một học viện.
Thứ tư, đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phịng
có vai trò như một tấm gương cho học viên noi theo.
Mọi hoạt động của đội ngũ giảng viên đều mang tính mơ phạm rất cao,
tạo lên phong cách sư phạm quân sự, nó như chiếc “máy cái”, sản phẩm của
họ là "giá trị tạo ra mọi giá trị". Giảng viên không chỉ truyền thụ kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ mà còn là người truyền thụ kinh nghiệm thực tiễn
quân sự cho người học, họ vừa là người thầy mẫu mực, vừa là người lãnh đạo,
chỉ huy, quản lý trực tiếp đối tượng là học viên. Do đó, địi hỏi giảng viên
phải có phẩm chất chính trị đạo đức mẫu mực, năng lực toàn diện, nhất là bản
lĩnh của người chỉ huy, người lãnh đạo, phải được sư phạm hóa có ý nghĩa
như mơ hình chuẩn mực, định hướng giá trị cho người học.
1.1.2.3. Đặc điểm của đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc
Bộ Quốc phòng
Việc xác định đặc điểm của đội ngũ giảng viên ở các học viện trực
thuộc Bộ Quốc phịng có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng, ban hành hệ



20
thống chính sách phù hợp với đội ngũ này. Đặc điểm của đội ngũ giảng viên ở
khối các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng được quy định bởi vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của đội ngũ giảng viên. Về vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên là người trực tiếp huấn luyện - đào tạo học
viên, trực tiếp tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học, gắn liền với chất
lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và kết quả đánh giá của học viên. Về tổ
chức, đội ngũ giảng viên làm việc ở các bộ môn, các khoa. Đội ngũ giảng
viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng cũng có các đặc điểm chung
của đội ngũ giáo viên trong các nhà trường trong quân đội, tuy nhiên có
những điểm khác biệt, được khái quát một số nét chính như sau:
Thứ nhất, đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng
là một bộ phận cán bộ của Đảng, của Quân đội công tác ở các học viện, có
trình độ học vấn cao, chun mơn sâu
Đại bộ phận có kiến thức hiểu biết tương đối tồn diện, đặc biệt là trình
độ hiểu biết về khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học kỹ thuật quân sự và
khoa học xã hội nhân văn quân sự, do được đào tạo ở các nhà trường cả trong
và ngoài quân đội, nên trình độ học vấn, văn bằng cũng rất đa dạng. Trước hết
đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng là một bộ phận
của đội ngũ cán bộ trong quân đội, do đó, họ có những đặc điểm đặc thù của
người cán bộ phục vụ trong môi trường quân sự. Song, với cương vị, chức
trách được giao, đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng
là người trực tiếp huấn luyện - đào tạo các học viên từ người chiến sĩ trở
thành sĩ quan và phát triển đội ngũ sĩ quan này đảm nhiệm các cương vị cao
hơn trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Như ở Học viện Lục quân đào tạo
cán bộ, sỹ quan cấp chiến thuật - chiến dịch (cấp tiểu đồn đến cấp sư đồn);
Học viện Chính trị đào tạo cán bộ chính trị (chính ủy, chính trị viên) cấp trung
đồn trở lên; Học viện Quốc phịng đào tạo cán bộ cấp chiến dịch - chiến lược
(tư lệnh, chính ủy các qn khu, qn đồn, qn binh chủng...). Vì vậy, đội



21
ngũ giảng viên ở các học viện trên cần phải có trình độ học vấn cao, chun
mơn sâu. Đồng thời đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc
phòng là lực lượng nòng cốt trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nghệ thuật
quân sự, góp phần quan trọng đào tạo những nhà khoa học trong lĩnh vực
quốc phòng quân sự, khoa học nhân văn quân sự, các khoa học ở các lĩnh vực
khác; thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng Chủ nghĩa Xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa. Gần đây thực hiện
chủ trương xã hội hóa giáo dục; liên thơng đào tạo, đội ngũ giảng viên ở các
học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng còn đảm nhiệm giảng dạy bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng - an ninh, đào tạo các chuyên ngành cho các đối tượng là
sinh viên ở ngoài quân đội phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hợp tác đào tạo quốc tế. Đây là đặc điểm quan trọng hàng đầu
của đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng, yêu cầu cao
hơn so với các trường khác trong quân đội cả về trình độ năng lực, tư duy trí
tuệ và kinh nghiệm thực tiễn.
Hoạt động huấn luyện - đào tạo trong môi trường qn sự đó là loại
hình lao động đặc biệt, bao gồm hai lĩnh vực hoạt động: quân sự và sư phạm,
hai lĩnh vực có những yêu cầu chung nhưng lại có những địi hỏi rất riêng.
Khi phối hợp hai lĩnh vực hoạt động này sẽ tạo ra một loại hình hoạt động
mới là hoạt động sư phạm quân sự. Điều đặc biệt ở đây là bản lĩnh của người
chỉ huy, người lãnh đạo phải được sư phạm hóa có ý nghĩa như mơ hình
chuẩn mực định hướng giá trị cho người học. Đạo đức, tác phong của nhà sư
phạm phải được quân sự hóa đáp ứng yêu cầu của điều lệnh quân đội và phù
hợp với tính chất đặc thù của lĩnh vực hoạt động quân sự.
Giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phịng phải có trình độ
học vấn đại học và sau đại học, được đào tạo chuyên sâu về một chuyên
ngành khoa học nhất định. Trong khi đứng trên cương vị người thầy để truyền
thụ cho học viên những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, giảng viên đồng



22
thời phải đứng trên cương vị người chỉ huy, lãnh đạo cấp trên để dạy cho cấp
dưới cách chỉ huy bộ đội, cách dạy bộ đội thực hiện chuyên môn nghiệp vụ
đó. Giảng viên khơng chỉ truyền thụ cho học viên những kiến thức mà còn
phải truyền thụ cho người học cả kinh nghiệm thực tiễn quân sự của bản thân,
cả bản lĩnh của người sĩ quan chỉ huy, lãnh đạo đơn vị theo chức vụ xác định.
Người cán bộ là giảng viên ở một học viện trực thuộc Bộ Quốc phịng,
thực hiện nhiệm vụ giảng dạy với tình cảm nghề nghiệp mạnh mẽ, tinh thần
trách nhiệm cao, hứng thú với kết quả lao động; vượt qua mọi khó khăn cản trở
để thực hiện nhiệm vụ một cách tự nguyện; luôn mong muốn được hy sinh công
hiến và được gắn bó suốt đời với cơng việc, với nghề nghiệp của mình. Đánh giá
đúng trình độ chun mơn và sư phạm; ghi nhận những cống hiến của từng
giảng viên để cổ vũ tinh thần và tâm lý, để giảng viên công hiến hết năng lực và
tâm nguyện của mình cho sự nghiệp giáo dục, cho sự phát triển của nhà trường
và Quân đội. Đồng thời nghiên cứu bố trí, sắp xếp, giao nhiệm vụ, có chính sách
đào tạo, bồi dưỡng, có các chính sách đãi ngộ bảo đảm về vật chất và tình thần
sao cho tạo điều kiện ổn định đội ngũ giảng viên để họ phấn đấu và bộc lộ hết
năng lực của mình, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu cống hiến cho chuyên môn giảng
dạy. Đây cũng là đặc điểm chung cho cả đội ngũ nhà giáo trong các nhà trường
quân đội và là đặc điểm chi phối rất lớn đến công tác quy hoạch, lựa chọn, đào
tạo bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Thứ hai, giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng rất đa
dạng về thành phần, phong phú về nhóm loại, cấp, chức. Sự đa dạng về thành
phần, phong phú về nhóm, loại của đội ngũ giảng viên, bắt nguồn từ sự đa
dạng, phong phú về nguồn gốc, thành phần xuất thân, con đường hình thành
phát triển và yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức. Đội ngũ này sinh ra và lớn lên từ
nhiều vùng quê, là con em của nhiều tầng lớp gắn với sự phong phú về môi
trường, điều kiện lịch sử, truyền thống q hương, gia đình, dịng họ. Khi vào

bộ đội lại được đào tạo từ nhiều cơ sở khác nhau…


23
Sự phong phú cịn thể hiện ở các nhóm ngành chuyên môn khác nhau
do chức năng, nhiệm vụ quy định với cấp bậc, chức vụ, tuổi quân, tuổi đời và
tuổi nghề cao thấp khác nhau; cả quân nhân chuyên nghiệp hưởng lương sĩ
quan, cả sĩ quan, từ cấp uý đến cấp tướng. Đặc điểm này cũng chi phối rất lớn
đến thực hiện chính sách cán bộ đối với từng đối tượng, nhằm phát huy tối đa
năng lực, sở trường, tâm huyết của đội ngũ nhà giáo trong các học viện trực
thuộc Bộ Quốc phòng.
Thứ ba, giảng viên ở các học viện trực thuộc Bộ Quốc phòng được
tuyển chọn sàng lọc từ các đơn vị, nhà trường trong toàn quân. Hiện tại có
một bộ phận giảng viên đã trải qua các cương vị công tác khác nhau ở đơn vị.
Trước khi về công tác tại các học viện, đại bộ phận được đào tạo cơ bản, có
khả năng và chiều hướng phát triển tốt; có một bộ phận đã là giảng viên giảng
dạy ở các nhà trường trong toàn quân, khi về các học viện đã có ít nhiều kinh
nghiệm và phương pháp sư phạm; một bộ phận khác được đào tạo cơ bản ở
nước ngoài trước khi được điều vào trong quân đội và về các học viện, nhưng
hầu hết là học viên có thành tích học tập, rèn luyện tốt, có chiều hướng phát
triển, được học viện giữ lại và tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng cao hơn; có một bộ
phận sau khi học tập ở các học viện, nhà trường khác trong và ngoài quân đội,
trước khi trở thành giảng viên được tuyển chọn, đào tạo ở bậc học cao hơn
(giảng viên dạy các môn khoa học cơ bản, ngoại ngữ, tin học...). Đặc điểm
này cho ta thấy sự khó khăn trong thực hiện chính sách cán bộ trong từng
khâu của công tác cán bộ đối với đội ngũ giảng viên.
Thứ tư, một bộ phận trong đội ngũ giảng viên ở các học viện trực thuộc
Bộ Quốc phòng có kinh nghiệm thực tiễn chiến đấu và cơng tác, nhưng cũng
có một bộ phận giảng viên ngày càng trẻ, ít trải nghiệm. Nhìn chung, đội ngũ
cán bộ lãnh đạo ở các khoa, bộ mơn có kiến thức tương đối tồn diện, có kinh

nghiệm lãnh đạo, chỉ huy quản lý bộ đội, cũng như kinh nghiệm trong cuộc
sống, hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Hiện tại có 12,5% đồng


24
chí được rèn luyện, thử thách trong chiến đấu qua các cuộc kháng chiến
chống Mĩ, chiến tranh bảo vệ Biên giới Tây Nam và phía Bắc; có bản lĩnh,
tâm lý bền vững, dày dạn kinh nghiệm, có độ vững vàng, khá nhạy bén trong
lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đặc biệt
trước những biến động phức tạp của tình hình, đội ngũ giảng viên ở các học
viện luôn tỏ rõ sự trung kiên, thực sự là chỗ dựa cho cán bộ, học viên, chiến sĩ
cơng nhân viên trong tồn đơn vị. Tuy vậy, do tuổi quân, tuổi đời ngày càng
cao thì sức khoẻ ngày càng giảm, khả năng nhanh nhạy trong hoạt động cũng
như tiếp thu, nắm bắt những tri thức mới, nhất là tri thức khoa học công nghệ
hiện đại, ngoại ngữ, tin học… còn nhiều hạn chế. Mặt khác, do quy trình, bậc
học của hệ thống các nhà trường trong quân đội, khi trở thành thạc sĩ nhiều
đồng chí giảng viên đã ở tuổi 40; trở thành tiến sĩ với độ tuổi từ 45 đến 50,
quỹ thời gian lao động, cống hiến trong qn đội khơng nhiều. Do độ tuổi
trung bình cao (nhất là giảng viên ở các học viện lớn như Học viện Quốc
phòng, Học viện Lục quân, Học viện Chính trị...) theo luật sĩ quan hiện hành,
nhiều đồng chí đến tuổi nghỉ chế độ, nhưng đã phải vận dụng kéo dài đến hết
dự bị 1, thậm chí cả dự bị 2, nếu khơng có chính sách quy hoạch, kế hoạch
hợp lý, kịp thời, sẽ dẫn đến tình trạng hẫng hụt đội ngũ giảng viên, ảnh hưởng
trực tiếp đến việc thực hiện nhiệm vụ huấn luyện - đào tạo và nghiên cứu
khoa học trong thời gian tới. với độ tuổi này, theo quy luật sinh lý của con
người thì khả năng tư duy, sáng tạo đã giảm. Rõ ràng, so với các trường đại
học bên ngoài và trên thế giới, độ tuổi đào tạo trình độ sau đại học ở các học
viện trực thuộc Bộ Quốc phòng cũng đặt ra nhiều điều đáng suy nghĩ. Vì vậy,
nếu tổ chức, cơ quan chức năng khơng có những chính sách cụ thể, phù hợp
như quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và bản thân đội ngũ

giảng viên thoả mãn dừng lại, thiếu tích cực, chủ động trong tự học tập,
nghiên cứu, dễ dẫn đến tụt hậu về kiến thức và rơi vào chủ nghĩa kinh
nghiệm, giáo điều.


25
Bên cạnh đó có một bộ phận khơng nhỏ đội ngũ giảng viên ngày càng
trẻ về các học viện, chiếm khoảng hơn 30%, lực lượng này được bổ sung cho
số lượng thiếu và thay thế số giảng viên đến tuổi nghỉ hưu. Đây là điều kiện
để đội ngũ giảng viên nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, tuy nhiên, số
cán bộ ở ngồi đơn vị về cơng tác ở các học viện, để thay đổi phong cách làm
việc, phương pháp tác phong cơng tác cũng gặp nhiều khó khăn, từ phong
cách làm việc, phương pháp tác phong công tác của người cán bộ lãnh đạo,
chỉ huy đơn vị cơ sở trở thành phong cách làm việc, phương pháp tác phong
công tác của người giảng viên và nhà khoa học là cả một vấn đề lớn, kinh
nghiệm giảng dạy, tiêu chuẩn, chức danh cán bộ đòi hỏi phải phấn đấu, nỗ lực
rất lớn của đội ngũ giảng viên trẻ. Do đó, việc thực hiện chính sách cán bộ,
nhất là chính sách quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng và chính sách đảm bảo lợi
ích cho đội ngũ giảng viên trẻ mới về đơn vị cũng gặp khơng ít khó khăn.
Thứ năm, đội ngũ giảng viên đại đa số có mức sống trung bình, cuộc
sống hậu phương gia đình cán bộ cịn nhiều khó khăn. Hoạt động trong lĩnh
vực sư phạm quân sự mang tính đặc thù, ln tự giác chấp hành nghiêm điều
lệnh, điều lệ, quy định của quân đội: thời gian, nền nếp, lễ tiết, tác phong, kỷ
luật quân đội, ln gương mẫu, mơ phạm trong lời nói và việc làm. Ngồi
đồng lương, đội ngũ giảng viên khơng có khoản phụ cấp đặc thù quân sự theo
Quyết định số 15/2009/QĐ-TTg ngày 21/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ
quy định như: cơng binh, pháo binh, trinh sát, phịng khơng - khơng qn,
ngành bảo vệ, bảo hiểm xã hội, kiểm tra, thanh tra... Mặt khác do tính chất
đặc thù quân sự, các trường bên ngồi dân sự ít có nhu cầu giảng dạy các mơn
thuộc lĩnh vực quốc phịng - qn sự, hầu hết khơng có điều kiện giảng dạy

thêm ở các trường đại học, các trung tâm ngoài quân đội để tăng thêm phần
thu nhập ổn định cuộc sống gia đình. Số giảng viên trẻ, số cán bộ được tuyển
lựa về làm giảng viên ở các học viện cơ bản chưa bố trí sắp xếp được chỗ ở
cho gia đình của họ, phải đi th nhà ở bên ngồi, cuộc sống cịn rất nhiều


×