Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Xây dựng đạo đức cán bộ công chức huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.57 KB, 109 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi giai đoạn của cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln quan tâm đến vấn đề đạo đức, coi đạo đức là gốc của người cán bộ, đảng
viên. Và Người rất chú trọng tới việc rèn luyện, nâng cao đạo đức cho cán bộ,
đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “có tài mà khơng có đức là người
vơ dụng”. Cũng chính nhờ làm tốt việc tu dưỡng đạo đức nên nhiều thế hệ cán
bộ, đảng viên tiền bối đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được những
thắng lợi to lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc, đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhất là hiện nay, cả
nước đang tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thì việc nâng cao đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên càng có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng, góp phần vào thắng lợi của cơng cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Bên cạnh những mặt tích cực do cơng cuộc đổi mới đem lại, nước ta
cũng đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Trong đó có tình trạng suy thối
về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa rời mục tiêu lý
tưởng vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có những đảng viên giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa
vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi tiền tài,
kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tuỳ tiện vơ nguyên tắc. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng tổng kết, đó là “thứ bệnh nguy hiểm” do chủ nghĩa cá
nhân - “giặc nội xâm”, “kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội”. Điều đáng chú
ý là sự suy thoái này lại có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Đại hội



2
lần thứ XI đảng ta đã nhấn mạnh “tình trạng trên cùng với những yếu kém về
công tác cán bộ nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh
đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Vấn đề nâng cao đạo đức cán bộ,
đảng viên, chống những biểu hiện suy thoái về đạo đức trở thành một nhiệm
vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân.
Thực tế này đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với việc nâng cao đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân trong đó yêu cầu
có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là toàn đảng, toàn dân ta phải học tập, quán
triệt, làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nghiêm túc rèn
luyện, tu dưỡng các chuẩn mực đạo đức, thực hành các nguyên tắc xây dựng
đạo đức mà người đã nêu ra.
Nho Quan là một huyện nghèo của tỉnh Ninh Bình, đã và đang nỗ lực
vượt qua khó khăn, thử thách để thực hiện CNH, HĐH đạt được nhiều thành
tựu nhất định, nhất là CNH, HĐH nông nghiệp, nơng thơn. Những thành tựu
đó phản ánh tinh thần trách nhiệm, ý thức phấn đấu vì cuộc sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân của cán bộ đảng viên trong huyện. Tuy nhiên, từ thực tiễn
đẩy mạnh CNH, HDH ở huyện Nho Quan cho thấy vẫn cịn một bộ phận
khơng nhỏ cán bộ cơng chức, suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối
sống như sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, tham nhũng,
tùy tiện vơ ngun tắc. Do đó, vấn đề rèn luyện, nâng cao đạo đức cán bộ
đảng viên, công chức, chống những biểu biện suy thoái về đạo đức trở thành
một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Đảng bộ huyện Nho Quan.
Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân, để tiến hành cơng nghiệp hóa hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Nho Quan, vai trị của cơng chức vơ cùng quan trọng. Như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Cán
bộ nào phong trào ấy”. Thực tế những năm đổi mới gần đây công chức huyện
Nho Quan đã phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu, năng động, sáng



3
tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao và được
nhân dân tín nhiệm. Song, vẫn cịn một bộ phận cán bộ cơng chức có biểu
hiện tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân, chính những điều này làm suy giảm lòng
tin của nhân dân đối với Đảng và sự quản lý của chính quyền cơ sở. Trước
tình hình đó việc tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cán bộ công chức
trở thành một vấn đề cấp bách.
Từ những lý do trên, tôi chọn “Xây dựng đạo đức cán bộ công chức
huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” làm
đề tài luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng, nâng cao đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức là vấn đề
được nhiều nhà khoa học quan tâm. Đã có nhiều cơng trình, bài viết của các
tác giả nghiên cứu vấn đề này như:
2.1. Về đề tài khoa học và sách
- GS Vũ Khiêu (chủ biên) (1996), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh truyền thống dân tộc và nhân loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- PGS.TS Thành Duy (chủ biên) (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Thang Văn Phúc (chủ biên) (1998), Đạo đức, phong cách, lề lối làm
việc của cán bộ, cơng chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- GS.TS Bùi Thế Vĩnh (chủ biên) (2003), Xây dựng đạo đức cán bộ,
công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và
hội nhập quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- Phạm Quốc Thành (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo
đức cho cán bộ, đảng viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- PGS.TS Nguyễn Khánh Bật (chủ biên) (2006), Nâng cao đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.



4
2.2. Luận văn, luận án
- Đặng Nam Điền (2004) “Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ
cán bộ chính trị Quận đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới”, Luận án
Tiến sĩ Khoa học lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Văn Hùng (2000), Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho
cán bộ quản lý Nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đặng Thanh Giang (2001) “Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho cán bộ cơ
sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Thái
Bình”, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Trà Giang (2006) “Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
vào việc nâng cao phẩm chất đạo đức đội ngũ cán bộ, cơng chức chính quyền
cơ sở ở Hà tĩnh hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Thị Thanh Nhàn (2011), “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính
trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2.3. Bài tạp chí
- GS.TS Hồng Chí Bảo (2002), “Giáo dục và thực hành đạo đức lối
sống của cán bộ, đảng viên theo gương Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố”, Tạp chí Cộng sản, (2).
- Nguyễn Văn Cần (2002), “Rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (5).
- Đặng Sĩ Lộc (2004), “Cán bộ, đảng viên học tập và rèn luyện đạo đức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tư tưởng Văn hố, (3).
- Đinh Đức Hiền (2010), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây

dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay”, Tạp chí Khoa học
và Cơng nghệ, Đại học Đà Nẵng, 5 (40).


5
- Đại tá, PGS. TS Vũ Như Khôi (22/3/2012), “Giáo dục, rèn luyện cán bộ,
đảng viên trong xây dựng Đảng hiện nay”, Tạp chí Quốc Phịng tồn dân điện tử.
- PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc (2012), “Đảng cách mạng và những tấm
gương, chuẩn mực đạo đức của người cách mạng”, Tạp chí Tuyên Giáo, (2).
- Lương Cường (3/5/2012), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
sạch, vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí
Cộng sản điện tử.
- TS Trần Đình Thắng (7/5/2012), “Rèn luyện phẩm chất chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên”, Tạp chí Xây dựng Đảng điện
tử.
- ThS Nguyễn Văn Hào (12/8/2012), “Nhận diện suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên”, Tạp
chí Xây dựng Đảng điện tử.
Bằng những cách tiếp cận khác nhau, các cơng trình khoa học nói trên
đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần làm rõ những quan điểm cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, về những chuẩn mực đạo đức của đội
ngũ cán bộ, đảng viên; học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Các cơng trình và bài viết này tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng,
rèn luyện, nâng cao đạo đức của cán bộ, cơng chức nói chung hoặc cơ sở nói
riêng trong thời kỳ mới. Có một số cơng trình, bài viết đã đề cập đến vấn đề
đạo đức của cán bộ, cơng chức theo tư tuởng Hồ Chí Minh, hoặc là khai thác
một khía cạnh, một nội dung cụ thể nào đó chưa chưa đề cập đến vấn đề nâng
cao phẩm chất đạo đức đội ngũ cán bộ, cơng chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
một cách tập trung, tồn diện và có hệ thống.
Những cơng trình bài viết của các tác giả nêu trên là nguồn tư liệu bổ ích,

giúp chúng tơi định hướng cho tiến trình nghiên cứu đề tài này.Tuy nhiên chưa
có cơng trình nào đề cập đến vấn đề “Xây dựng đạo đức cán bộ cơng chức
huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Vì


6
vậy, đây cũng là lý do quan trọng để chúng tơi chọn là đề tài luận văn.
3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Hệ thống hóa các chuẩn mực đạo đức cán bộ công chức trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận và phương pháp luận đánh giá thực
trạng đạo đức của cán bộ cơng chức huyện Nho Quan nói chung, cấp cơ sở
nói riêng, từ đó đề xuất các tiêu chuẩn đạo đức và các giải pháp nhằm xây
dựng đạo đức cho đội ngũ cán bộ công chức huyện Nho Quan trong giai đoạn
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu, hệ thống những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cán bộ cơng chức.
- Phân tích thực trạng đạo đức cán bộ công chức huyện Nho Quan, tỉnh
Ninh Bình hiện nay, chủ yếu là cơng chức cấp cơ sở xã, thị trấn.
- Làm rõ những nhân tố ảnh hưởng, những yêu cầu mới đối với việc
nâng cao đạo đức cán bộ cơng chức chính quyền cơ sở ở huyện Nho Quan,
tỉnh Ninh Bình hiện nay.
- Xác định các tiêu chuẩn đạo đức và các giải pháp nhằm xây dựng đạo
đức cán bộ công chức cấp cơ sở ở huyện Nho Quan.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Các bài nói, viết của chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ.
- Các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Đảng bộ Ninh Bình về cán bộ
và cơng tác cán bộ.
- Các báo cáo về cơng tác cán bộ của tỉnh Ninh Bình và huyện Nho

Quan từ năm 2005 đến nay.
- Khảo sát thực tế thực trạng phẩm chất đạo đức đội ngũ cán bộ, cơng
chức chính quyền cơ sở (bao gồm cán bộ, công chức trong HĐND và UBND


7
huyện, xã) ở huyện Nho Quan Ninh Bình từ 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối của đảng ta.
- Cơ sở thực tiễn là thực trạng phẩm chất đạo đức đội ngũ cán bộ cơng
chức chính quyền huyện Nho Quan - Ninh Bình hiện nay, đồng thời luận văn
cũng tham khảo, sử dụng những tài liệu có liên quan đến nội dung luận văn.
- Phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp lôgic.
+ Phương pháp lịch sử.
+ Kết hợp liên ngành, tổng hợp, thống kê.
+ Phương pháp phân tích, so sánh…
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Góp phần hệ thống quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về chuẩn
mực đạo đức của cán bộ công chức.
- Đánh giá thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ cơng chức huyện Nho
Quan - Ninh Bình hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng đạo đức đội ngũ cán bộ cơng
chức huyện Nho Quan - Ninh Bình theo tiêu chuẩn đạo đức trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.
- Luận văn có thể cung cấp thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn
giúp các cấp lãnh đạo huyện Nho Quan trong công tác xây dựng đạo đức cho
đội ngũ cán bộ công chức huyện nhà.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Kết quả nghiên cứu đề tài có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho các
cấp uỷ đảng trong việc giáo dục, rèn luyện đạo đức của cán bộ công chức
huyện Nho Quan - Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay; đồng thời cũng có thể
được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy tại Trường


8
Chính trị tỉnh và Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị cấp huyện.
- Góp phần vào việc đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về đạo
đức, lối sống của cán bộ cơng chức.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


9
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ CÔNG CHỨC
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Khái niệm đạo đức
Hồ Chí Minh khơng đưa ra một định nghĩa đạo đức là gì. Song trong sử
dụng, thuật ngữ đạo đức được Người dùng với các nghĩa khác nhau.
- Theo nghĩa rộng, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con
người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm
giàu tính người trong các quan hệ xã hội, kể cả trong quan hệ tư tưởng, chính
trị, với cả thiên nhiên và môi trường sống. Theo nghĩa này, vấn đề đạo đức
được Hồ Chí Minh đề cập một cách tồn diện, cho mọi đối tượng (sĩ, nơng,
cơng, thương, chính khách, tu hành... nam, nữ, ấu, phụ), cho mọi lĩnh vực (lao

động, sản xuất, học tập, công tác, chiến đấu...), mọi phạm vi (từ gia đình đến
xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc tế…). Hồ Chí Minh cũng
bàn đến nối quan hệ giữa các hình thái ý thức xã hội (đạo đức với chính trị,
pháp luật, văn hoá…).
- Theo nghĩa hẹp, đạo đức là luân lý, những quy định, những chuẩn
mực ứng xử trong quan hệ của con người với con người, với công việc, với
bản thân. Điều này được Hồ Chí Minh bàn tới thường xuyên và diễn đạt trong
tác phẩm Đường cách mệnh năm 1927 với 3 mối quan hệ: tự mình, với người
và với việc, bằng 23 tiêu chuẩn. Tuy là chưa thật đầy đủ, nhưng với các tiêu
chuẩn ấy cũng đủ để xác định đâu là người đạo đức và người khơng có đạo
đức, đâu là những điều cần xây, cần chống để bồi dưỡng, đào tạo những con
người Việt Nam mới.
- Theo nghĩa rất hẹp, đạo đức được đánh giá bằng hành vi và thái độ
quan tâm đến người khác, chiếu cố và phục vụ người khác. Nói cách khác,


10
đạo đức là tinh thần phục vụ và sự hy sinh cho người khác, cho Tổ quốc, cho
nhân dân, vì người khác, đó là sự hiến dâng, cho mà khơng mong được trả.
Hồ Chí Minh thường xuyên khen thưởng những việc làm tốt, gương hy sinh
trong chiến đấu và công tác. Muốn được gọi là người có đạo đức, ít nhất và trước hết, người đó phải vì người khác mà làm nhiều việc, phải có sự cống hiến và
hy sinh một cách vơ tư. Chính trên ý nghĩa này, nhà triết học, luân lý học nổi
tiếng người Đức - Cantơ đã có câu nói bất hủ: “Đạo đức sở dĩ có thanh danh cao
cả và tốt đẹp như vậy, chính vì nó bao giờ cũng đi đơi với sự hy sinh”.
Thực chất, đạo đức là những quy chuẩn, quy uớc, phép tắc do con người định ra trên cơ sở bảo đảm các lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội để điều
chỉnh hành vi ứng xử, điều chỉnh quan hệ giữa người với người trong hoạt
động sống thơng qua những lời khen chê, đồng tình hay phản đối, thông qua
dư luận xã hội. Như vậy, cùng với luật pháp, các quy tắc, chuẩn mực đạo đức
dùng điều chỉnh hành vi con người, nhưng khác luật pháp, đạo đức điều chỉnh
hành vi con người bằng tự nguyện chứ không phải bằng cưỡng chế, nên hay

không nên làm chứ không phải là được làm hay không được làm (cấm). Trong
thực tế, Hồ Chí Minh sử dụng nhuần nhuyễn cả hai phương thức cơ bản này,
kết hợp một cách khéo léo, tài tình đạt trình độ thấu lý, đạt tình trong ứng xử.
Đạo đức và tài năng là 2 thành phần cơ bản của nhân cách con người. Hồ
Chí Minh khơng chỉ nói đến đức tài, hồng chun mà cịn bàn kỹ quan hệ giữa
đức với tài, hồng với chuyên, trong đó đạo đức là gốc. Cũng có nghĩa là đạo đức
phản ảnh bộ mặt nhân cách của một cá nhân (xấu tốt, thiện ác) với tư cách họ là
chủ thể hoạt động trong các quan hệ xã hội. Chính vì vậy, khi nói về vai trị của
đạo đức đối với cán bộ đảng viên, Hồ Chí Minh xác định trên ba mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, đạo đức là gốc là nền tảng của người cách mạng và đảng
cách mạng
Sinh thời Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ cách mạng quan tâm
nhiều đến vấn đề đạo đức và bản thân Người cũng có những cống hiến về đạo


11
đức. Người xem xét vấn đề đạo đức trên cả hai phương diện lý luận và thực
tiễn. Về lý luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về đạo đức. Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là một
mặt không thể thiếu của cán bộ đảng viên và bản thân Người cũng là một biểu
tượng sáng ngời về đạo đức.
Xun suốt cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí Minh quan niệm đạo
đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Ngay ở trang đầu “Đường Cách
mệnh”, Người đã nêu lên 23 điều về tư cách một người cách mạng, giải quyết
ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người, đối với việc. Những thập kỷ bốn
mươi, năm mươi, sáu mươi, Hồ Chí Minh đều có những bài viết ngắn gọn, súc
tích về đạo đức cách mạng, trong Di Chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy

tớ thật trung thành của nhân dân” [91, tr.611-612]. Đảng cầm quyền phải chăm
lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên, đào tạo cho họ thành những
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơng
ngừng chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân ta. Người nói:
Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nước thì sơng cạn.
Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được
nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là
một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự
mình đã hủ hố xấu xa thì cịn làm nổi việc gì [82, tr.292 - 293].
Như vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là cái gốc của người
cách mạng.


12
Coi trọng đạo đức vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong cuộc
đấu tranh để chống lại những kẻ thù mạnh hơn mình gấp bội, lấy gì mà để
đánh thắng? Phải dựa vào sức mạnh lý tưởng, sức mạnh tinh thần, sức mạnh
của đạo đức.
Đạo đức là một sức mạnh tinh thần to lớn. Nó là một bộ phận năng động
nhất của thế giới quan, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, có tác dụng chỉ đạo
hành vi ứng xử của con người trong mọi tình huống. Chủ tịch Hồ chí Minh
thường căn dặn cán bộ, đảng viên: “Cách mạng là một cuộc đấu tranh phức tạp,
lâu dài và gian khổ”, vì vậy: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm
nền tảng mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [88, tr.601].
Chính đạo đức yêu nước thương dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là động
lực to lớn góp phần làm nên sự nghiệp cách mạng phi thường của Người.
Ngược lại sự suy thoái về đạo đức là khởi điểm của mọi sự suy thoái. Tha hoá

về đạo đức sớm muộn sẽ dẫn đến tha hố về chính trị. Xét ở từng con người
hay một chế độ xã hội, nói chung đều là như vậy. Do đó suốt cuộc đời mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” Người đã nhấn mạnh đối với
người cán bộ cách mạng là phải cần kiệm, vị công vong tư, không hiếu danh,
khơng kêu ngạo, giàu lịng hy sinh, ít lịng tham muốn về vật chất… Và ngay
cả trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Người đã để lại Di Chúc căn dặn
cũng phải chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên để họ
xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Người cho rằng đạo đức là cái “gốc” của người cán bộ cách mạng bởi một
trong những nhân tố quyết định thành công của cách mạng đó chính là đạo
đức của người cách mạng. Người coi đạo đức là cái gốc, là nền tảng của
người cách mạng, bởi lẽ sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc là rất khó
khăn, lâu dài, người cán bộ khơng thể vượt qua khó khăn, thử thách, thậm chí
hy sinh. Nếu khơng có đạo đức thì người cán bộ khơng thể lãnh đạo được
nhân dân và hồn thành nhiệm vụ vẻ vang.


13
Bên cạnh đó Người cịn nhấn mạnh, đạo đức cách mạng có liên quan
đến sự thành bại của cách mạng và đạo đức cách mạng sẽ giúp cán bộ đảng
viên tránh được những thó hư tật xấu như: tham nhũng, quan liêu, hủ hoá…
mới làm cho họ xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân và được
nhân dân tin yêu, ủng hộ. Có tài phải có đức, có tài khơng có đức, tham ơ hủ
hố có hại cho nước. Có đức khơng có tài như ơng bụt ngồi trong chùa khơng
giúp ích gì được ai.
Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết sức mạnh của đạo đức cách mạng, chính
đạo đức cách mạng đã giúp Người vượt qua mọi khó khăn thác ghềnh nguy
hiểm để vươn tới thành công. Người dạy:
làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự

nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ nặng nề, một
cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, gian khổ, có sức mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng mới hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang [88, tr.829].
Sức mạnh của người cán bộ cách mạng là sức mạnh của đạo đức cách
mạng. Điều đó sẽ giúp người cán bộ sẵn sang hy sinh lợi ích riêng của mình
để phục vụ lợi ích chung của Tổ quốc, khi cần có thể hy sinh cả tính mạng của
mình. Ngồi ra, vai trò của đạo đức cách mạng còn được thể hiện ở chỗ đó là
thước đo lịng cao thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh
tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, nguời
làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng. Xác định
được tầm quan trọng của vấn đề đạo đức, trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln là tấm gương mẫu mực, thưc hiện triệt để
những phẩm chất cách mạng. Bác nhắc nhở trước mặt quần chúng không phải
ta cứ viết lên trán hai chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ
yêu quý những người cị tư cách, có đạo đức.


14
Thứ hai, đạo đức là tiêu chuẩn hàng đầu của người cán bộ
Từ xưa ở phương Đông và Việt Nam, cả Nho, Phật, Lão đều coi trọng
đạo đức, đều nêu cao lý tưởng vua sáng, tôi hiền, nghĩa là nêu cao tấm gương
đạo đức của người cầm quyền. Đối với nhân dân, niềm tin về chính trị gắn liền
với niềm tin vào đạo đức của người lãnh đạo, do đó sự nêu gương đạo đức ở
người cán bộ, đảng viên, đặc biệt ở người lãnh đạo, giữ một vai trò cực kỳ quan
trọng; một khi quần chúng đã mất niềm tin vào đạo đức của người cầm quyền
thì niềm tin chính trị đối với họ cũng khơng cịn. Trong lịch sử nước ta, những
lãnh tụ dân tộc muốn tập hợp được nhân dân chống ngoại xâm hay chống lại
chế độ phong kiến hà khắc đều phải là những người có uy tín đạo đức rất cao.
Ngược lại, bọn vua chúa vô đạo sớm muộn cũng đều bị nhân dân lật đổ. Chủ

tịch Hồ Chí Minh nói: đối với các dân tộc phương Đơng “một tấm gương sống
cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [78, tr.284].
Từ sau 1945, sau khi lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, Đảng ta trở
thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu việc giáo
dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Người đã kiên trì đấu tranh chống lại
nguy cơ xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng nhân dân, rơi vào thoái hoá biến
chất của một Đảng cầm quyền. Người nói “Trước mặt quần chúng không phải
ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình
phải làm mực thước cho người ta bắt chước” [83, tr.16].
Với trí tuệ sáng suốt, tầm nhìn xa trơng rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm tiên tri, tiên lượng về những căn bệnh của những người có chức, có quyền
và đã sớm chỉ ra những biện pháp cần đề phịng, khắc phục, trong đó Người đặt
lên hàng đầu việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng
viên. Không lâu, trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo: “Một
dân tộc, một đảng và mỗi con người hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
khơng nhất định hơm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi
nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” [91, tr.672].


15
Nhận thức được vai trò sức mạnh của sự nêu gương, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã suốt đời nhắc nhở, giáo dục cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng suốt
đời khơng ngừng tự tu dưỡng, tự rèn luyện mình về đạo đức để trở thành “tấm
gương tuyệt vời về con người mới”, thành hình ảnh mẫu mực về “người lãnh
đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, có sức lơi cuốn, cảm hố
mãnh liệt đối với tồn thể dân tộc.
Thứ ba, đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa

phải ở mức sống vật chất cao mà trước hết là ở giá trị đạo đức của nó, ở phẩm
chất đạo đức của những người cộng sản. Người đã đưa ra quan điểm này khi
nói về tấm gương đạo đức của Lênin:
Khơng phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa
hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm
lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn
lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim họ hướng về
Người khơng gì ngăn cản nổi [78, tr.317].
Như vậy, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không
phải ở lý tưởng cao xa nào mà trước hết, cụ thể và trực tiếp, là ở những người
cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho
lý tưởng đó trở thành hiện thực. Củng cố hay làm suy giảm niềm tin của quần
chúng vào tương lai chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không phải ở những
sai lầm và thất bại tạm thời khó tránh khỏi trên con đường mới khai phá mà
chủ yếu là ở sự sa sút, thoái hoá của những người được mệnh danh là “những
chiến sĩ tiên phong” trước thắng lợi hoặc khó khăn của cách mạng.
Chính vì vậy, Người đã viết: Phong trào cộng sản quốc tế trở thành lực
lượng quyết định vận mệnh loài người chẳng những là do chiến lược và sách
lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao


16
quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành sức mạnh vô địch. Lênin đã cho
chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ,
những đức tính làm đẹp thêm những chiến sĩ chân chính của cách mạng và
những người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Cũng như Lênin, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chẳng những có sức
hấp dẫn mạnh mẽ đối với toàn thể nhân dân Việt Nam mà cịn có ảnh hưởng
sâu rộng trên tồn thế giới.
Nhiều lãnh tụ của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng

dân tộc, nhiều học giả, nhà văn, nhà bác học nổi tiếng trên thế giới đã viết về
sức cổ vũ kỳ diệu của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối với nhân dân
nước mình và chứng minh rằng: Do ngưỡng mộ trước một nhân cách vĩ đại
như vậy, có biết bao lớp người trẻ tuổi đã đứng vào hàng ngũ cộng sản, tình
nguyện hiến dâng đời mình cho cuộc đấu tranh vì tự do, độc lập, vì chủ nghĩa
xã hội và hạnh phúc của nhân dân. Nhờ biết nêu cao và phát huy giá trị, tác
dụng của đạo đức theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà cách
mạng, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của nhân dân ta giành được thắng
lợi rực rỡ. Nếu chúng ta để những giá trị đó bị suy yếu hoặc mất đi thì sức hấp
dẫn của chủ nghĩa xã hội, của Đảng Cộng sản sẽ giảm đi rất nhiều.
1.1.2. Khái niệm cán bộ
Trong lịch sử dân tộc, vấn đề “hiền tài”- với tư cách là “cán bộ”, là
người lãnh đạo, quản lý, điều hành công việc của đất nước - đã được tiếp cận
và được xem là “nguyên khí quốc gia”, có vai trị quyết định đến sự tồn vong,
thịnh suy của đất nước.
Thuật ngữ “cán bộ” được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc và được
dùng phổ biến từ thời kỳ chống Pháp. “Cán bộ” là một danh từ đẹp, đầy niềm
tự hào và vinh dự trong xã hội ta trong mấy thập niên vừa qua. “Cán bộ” là
một danh từ chỉ lớp người, những chiến sĩ cách mạng, những người mới, sẵn
sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, ln gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự


17
nghiệp cao cả giành độc lập, tự do cho dân tộc. Vì vậy, từ “cán bộ” đã từng để
lại dấu ấn đẹp trong lịch sử cách mạng nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo.
Trong q trình hoạt động cách mạng, từ lúc ra đi tìm đường cứu nước
đến khi sáng lập và trở thành lãnh tụ Đảng và Nhà nước ta, Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ cho sự nghiệp
cách mạng. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về cán bộ và công tác cán bộ, kế thừa và phát triển những tư

tưởng tiến bộ trong lịch sử dân tộc, phù hợp với tiến trình cách mạng Việt
Nam. Ở Hồ Chí Minh đã hình thành những quan niệm hết sức khúc chiết,
sáng tạo và toàn diện về cán bộ và đội ngũ cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh
Hố ngày 20 - 2 - 1947, đã đưa ra khái niệm cán bộ: “Cán bộ là cái dây
chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền khơng tốt, khơng chạy thì động cơ dù
tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách
của Chính phủ, của Đồn thể thi hành trong nhân dân” [80, tr.68].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “cán bộ” là khái niệm cụ thể và việc xác
định “nội hàm” của nó được đặt trong những mối quan hệ nhất định. Bởi vì,
nếu khơng, sẽ không hiểu được thực chất của vấn đề cán bộ là gì và khơng thể
xác định đúng đắn những u cầu cụ thể về năng lực và phẩm chất của mỗi
loại cán bộ (như cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ chun mơn, khoa
học...). Từ đó, sẽ không xác định được những nội dung, biện pháp để phát huy
vai trò, cũng như xây dựng đồng bộ đội ngũ cán bộ cho sự nghiệp cách mạng.
Qua các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh, ta thấy “cán bộ” được
Người xác định trong những mối quan hệ cơ bản sau:
Thứ nhất, quan hệ với đối với quần chúng nhân dân
Nhận thức đúng vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân, Hồ Chí
Minh cho rằng: “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Vì vậy, khi đặt ra
và trả lời cho câu hỏi “Cách mệnh trước hết phải làm gì?”, Người nói: “Cách


18
mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ” [79, tr.288]. Như vậy, để tập hợp,
đoàn kết, tổ chức và phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân phải có
những “con người sử dụng lực lượng thực tiễn”. Chính họ là những người có
trọng trách “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn
luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [78, tr.209], tức là đội ngũ
những người “giác ngộ dân chúng”, tập hợp và phát huy sức mạnh to lớn của

quần chúng nhân dân.
Mặt khác, Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [82, tr.309]. Như vậy, theo Hồ Chí
Minh, cán bộ khơng những là người có vai trị giác ngộ và hướng dẫn, lãnh
đạo quần chúng mà còn là người phản ánh tình hình của dân với Đảng và Nhà
nước, “chiếc cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là “công bộc” của
nhân dân. Rõ ràng, nếu cán bộ dở thì đường lối, chính sách của Đảng, Chính
phủ không thể thực hiện được mà chỉ là “một mớ giấy lộn”.
Thứ hai, đối với công việc
Cả cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã phấn đấu, hy sinh cho
nhiều “công việc”. Nhưng “công việc” quan trọng nhất là “làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào, ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [81, tr.87].
Theo Hồ Chí Minh, cách mệnh là cơng việc “khổng lồ”, rất lâu dài, đầy
gian nan thử thách. Vì vậy, “phải có tổ chức rất bền vững mới thành cơng”
[79, tr.297] và “muốn cách mệnh thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng)
làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất”
[79, tr.304]. Cho nên, như Lênin từng khẳng định là cần có “những nhà chính
trị vơ sản và khơng thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư sản”. Trong
tổng hồ các mối quan hệ đa chiều của sự nghiệp cách mạng và trong chiều


19
sâu tư duy chính trị Hồ Chí Minh thì “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”
[82, tr.309]. Theo quan niệm của Người: “Cây phải có gốc, khơng có gốc thì
cây héo” [82, tr.292]. Vì vậy, trong mọi cơng việc mà khơng có cán bộ thì
khơng thể hồn thành.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây không chỉ dừng lại ở chỗ có hay khơng có cán

bộ. Đó chỉ mới là cấp độ thứ nhất, cũng như cây phải có gốc. Nhưng “gốc có
vững, cây mới bền”, cũng như có cán bộ tốt, cán bộ giỏi, công việc mới thành
công. Bởi vậy, cần phải hiểu “gốc” là từ đó sinh ra, làm cho cây mạnh khoẻ,
tốt tươi hay ngược lại. Hồ Chí Minh viết: “Mn việc thành cơng hoặc thất
bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [82, tr.280].
Thứ ba, đối với bộ máy
Trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh quan niệm “cán bộ là dây chuyền
của bộ máy”. Đời sống kinh tế - xã hội và toàn bộ sự nghiệp cách mạng là
một cỗ máy khổng lồ. Trong cỗ máy đó, cán bộ là dây chuyền. Hồ Chí Minh
quan niệm “dây chuyền” với ý nghĩa cán bộ và đội ngũ cán bộ là mắt xích liên
kết các bộ phận của bộ máy, là hệ thống chuyển tải năng lượng đến từng bộ
phận của bộ máy. Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy.
Nếu dây chuyền khơng tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt, toàn bộ máy cũng
tê liệt” [82, tr.68].
Thứ tư, đối với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng
Trả lời câu hỏi “cách mệnh trước hết phải có cái gì?” Hồ Chí Minh
khẳng định cách mệnh “trước hết phải có Đảng cách mệnh” [79, tr.289];
Người cịn nhấn mạnh thêm: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng
như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy” [79, tr.289]. Để lãnh đạo cách
mạng, thì Đảng: “1. Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng. 2. Phải tổ chức sự
thi hành cho đúng.3. Phải tổ chức kiểm tra, kiểm soát cho đúng” [82, tr.325].
Muốn vậy, phải có “sự cố gắng”, phải đào tạo lấy “những nhà chính trị
giai cấp”. Cán bộ, đội ngũ cán bộ và vai trị lãnh đạo của Đảng có mối quan


20
hệ biện chứng. Trong đó, Hồ Chí Minh xem cán bộ là lực lượng có tính quyết
định đến vai trị lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt “khi có chính sách đúng, thì sự
thành cơng và thất bại của chính sách đó là do tổ chức cơng việc, do nơi lựa
chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy

cũng vơ ích” [82, tr.636]. Với cách đặt vấn đề như vậy, Hồ Chí Minh quan
niệm “cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể. Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính
sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức là có lãi. Khơng có cán
bộ tốt thì hỏng việc, tức lỗ vốn” [83, tr.636].
Rõ ràng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ là một khái niệm “mở”,
được Người đề cập ở nhiều góc độ, nhiều mối quan hệ và được thể hiện ở
nhiều cách khác nhau, phù hợp các vị trí, vai trị của họ trong tồn bộ sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Nhưng về cơ bản, Người xem: “cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu
rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [82, tr.309]. Đó là những
người hội đủ phẩm chất đạo đức và năng lực nhất định để đảm đương được
yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, vừa là người lãnh đạo vừa là
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, cán bộ là những người làm trong các cơ
quan đồn thể, cơng sở, lực lượng vũ trang… Họ có thể là đảng viên hoặc
chưa phải, khơng phải đảng viên. Họ có thể giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý
(gọi là cán bộ lãnh đạo) hoặc làm công tác nghiệp vụ, chuyên môn đơn thuần
(gọi là viên chức, công chức), là những người được thi tuyển hoặc nhân dân bầu
và “uỷ thác” trách nhiệm. Họ là những người hoạt động trong các thời kỳ cách
mạng, thốt ly, có lĩnh lương để phân biệt với nhân dân. Tuy nhiên trong các tác
phẩm, bài viết, bài nói, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiều đến cán bộ, đảng viên có
chức, có quyền (cán bộ lãnh đạo và lãnh đạo chủ chốt), những người chịu trách
nhiệm trực tiếp, to lớn và nặng nề trước Đảng, nhân dân và dân tộc.


21
Hồ Chí Minh khơng đề cập đến cán bộ một cách chung chung mà ln
có “tính từ”, ln gắn với vai trị cụ thể trong tồn bộ sự nghiệp cách mạng.
Đó là “cán bộ tốt”, “cán bộ kém”, “cán bộ dở”, “người của tổ chức”, “người

của Đoàn thể”… Đặc biệt, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh “làm cán bộ tức
là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân”. Điều này hoàn toàn khác
với “phụ mẫu chi dân”, chăn dắt người dân trong các triều đại phong kiến và
bọn quan lại thực dân “đè đầu cưỡi cổ nhân dân” thời kỳ trước đây.
Hồ Chí Minh ln ln đề cao vị trí vai trị của đội ngũ cán bộ, cơng
chức, đồng thời địi hỏi người cán bộ phải có tiêu chuẩn nhất định, tiêu chuẩn
đó xuất phát từ yêu cầu cách mạng, địi hỏi của thực tiễn, chứ khơng phải của
ý muốn chủ quan theo Hồ Chí Minh, người cán bộ phải là những người vừa
có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc của người cán bộ, đó là những tiêu
chuẩn chung đối với người cán bộ. Bởi theo người, có tài mà khơng có đức là
người vơ dụng, có đức mà khơng có tài làm việc gì cũng khó. Giữa tài và đức
hai mặt đó khơng được coi nhẹ mặt nào bởi nó thống nhất với nhau, có quan
hệ biện chứng qua lại với nhau.
Trong những tiêu chuẩn ấy có những nội dung căn bản chung cho mọi
cán bộ, chung cho mọi thời kỳ cách mạng, như lòng trung thành với sự nghiệp
cách mạng của Đảng, của nhân dân tính tổ chức kỷ luật, cần kiệm liêm chính,
chí cơng vơ tư, khiêm tốn giản dị… nhưng trong từng giai đoạn phát triển,
những tiêu chuẩn ấy lại được bổ sung và cụ thể hoá cho phù hợp với yêu cầu
và nhiệm vụ chính trị đang đặt ra.
Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ cần phải có những tiêu chuẩn sau đây:
Một là, cán bộ phải có đạo đức cách mạng làm gốc:
Đây là yêu cầu “gốc”, “nguồn” đúng như Hồ Chí Minh đã nêu, đây
cũng chính là quan điểm xuất phát, một u cầu có tính chất tiên quyết
đối với cán bộ cách mạng, khơng ít lần Hồ Chí Minh lưu ý rằng: Đảng
khơng phải là một tổ chức làm quan phát tài, người cán bộ cách mạng


22
không phải là người “làm quan cách mạng”, không phải vào Đảng, không
phải làm cán bộ để “thăng quan tiến chức” không phải như dưới thời thực

dân - phong kiến một người làm quan cả họ được nhờ không phải là cán
bộ đè đầu cưỡi cổ dân chúng như thời thực dân phong kiến… Người cán
bộ phải tận tuỵ với sự nghiệp cách mạng, phải trung thành với Đảng với tổ
quốc phải làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho tổ quốc giàu
mạnh, đồng bào sung sướng. Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của
người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sơng suối.
Người viết: Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì
sơng cạn - cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân.
Trung thành ở đây địi hỏi cán bộ phải hồn thành tốt, hồn thành xuất
sắc nhiệm vụ của mình được giao, kể cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân và cả khi thời bình, xây dựng đất nước; khi gặp thắng lợi thì
khơng kêu căng, chủ quan tự mãn; khi gặp khó khăn, gian khổ trở ngại thì
khơng hoang mang, dao động “vơ luận trong hồn cảnh nào lịng họ cũng
khơng thay đổi” phải ln có ý thức và hành động bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ
quốc. Trung thành với cách mạng là phải hết lòng hết sức phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân là việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng gắng sức làm, việc gì
có hại cho dân dù nhỏ cũng hết sức tránh.
Trong quan niệm về cái “đức làm gốc” nhất thiết phải bao hàm phẩm
chất chính trị bên trong, điều này được Hồ Chí Minh khẳng định:
Nói tóm tắt thì đạo đức cách mạng là:
- Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều
chủ chốt.
- Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật cho Đảng thực hiện
tốt đường lối chính sách của Đảng.


23
- Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi

ích của cá nhân mình, hết lịng phục vụ nhân dân, vì Đảng, vì nhân
dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
- Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin luôn ln dùng tự phê bình
và phê bình để năng cao tư tưởng và cải tiến cơng tác của mình và
cùng đồng chí mình tiến bộ [17, tr.19].
Theo Hồ Chí Minh thì cuộc cách mạng ở Việt Nam do Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, không chỉ dừng lại ở giai đoạn là giải phóng dân tộc mà
cịn tiến lên một giai đoạn cao hơn là giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đó là cuộc cách mạng giải phóng hồn tồn xã hội, giải phóng triệt để con
người, để xã hội trở nên tốt đẹp hơn.Theo nghĩa đó, thì đây cịn có nghĩa là
một cuộc cách mạng đạo đức vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Đạo đức có
vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, đạo đức truyền thống
của dân tộc Việt nam là một động lực tinh thần, một sức mạnh to lớn trong sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xây dựng chế độ mới.
Như vậy, con người trong quá trình thực hiện vai trị của mình trong sự
nghiệp cách mạng đó phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng chính
là thể hiện tính “người” của con người, Người viết: “tuy năng lực và công
việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng
ai giữ được đạo đức thì là người cao thượng” [86, tr.508] và Người cịn so
sánh: “Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng. Đất có bốn phương: Đơng,
Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa
thì khơng thành trời. Thiếu một phương thì khơng thành đất. Thiếu một đức
thì khơng thành người” [83, tr.117]. Đạo đức cần cho mọi người, và đạo đức
đặc biệt cần thiết cho cán bộ, đảng viên, cho những người cách mạng. Tại
sao? Bởi vì trong cuộc cách mạng khó khăn, gian khổ đó, người cán bộ phải
hy sinh rất nhiều thậm chí là cuộc sống để phục vụ lý tưởng. Trong hồn cảnh
đó, chỉ có những người có đạo đức chân chính mới chiến thắng được cám dỗ
và chiến thắng được bản thân để hoàn thành nhiệm vụ.



24
Người cán bộ cách mạng phải là những người có tầm nhìn xa, khơng
lấy cái vật chất hiện tại làm thước đo, khơng lấy hẹp hịi mà so sánh tương lai
tốt đẹp phía trước, người cán bộ phải có niềm tin vào quần chúng, phải đem
tinh thần để thắng vật chất, đem văn minh chiến thắng hung tàn. Cách mạng
có lúc thắng lợi cũng có lúc khó khăn, chỉ có những người có đạo đức cách
mạng mới khơng lùi bước.
Trên tinh thần đó, thì đạo đức chính là sức mạnh tinh thần để người cán
bộ vượt lên trước, đi đầu trong sự nghiệp cách mạng, lãnh đạo nhân dân đến
thắng lợi cuối cùng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đối với người cán bộ, đạo đức là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, cho dân tộc;
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng, thực hiện tốt đường
lối chính sách của Đảng; Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên
trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục vụ
nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh qn mình, gương mẫu trong
mọi cơng việc; Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng
tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng cải tiến cơng tác của mình
và cùng đồng chí mình tiến bộ [88, tr.603].
Theo Hồ Chí Minh, rèn luyện đạo đức không chỉ là thực hiện tốt những
nguyên tắc đạo đức cách mạng mà còn phải đấu tranh chống lại những biểu
hiện phi đạo đức. Đó là địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, óc quân phiệt quan
liêu, óc hẹp hịi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, vơ kỷ luật, kỷ
luật khơng nghiêm, ích kỷ, hủ hoá, bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kêu
ngạo, bệnh hiếu danh, bệnh hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh, bệnh “cận
thị”, bệnh xu nịnh, a dua, bệnh khai hội, bệnh nể nang, bệnh quan liêu, mệnh
lệnh, tham ô, lãng phí,…
Hồ Chí Minh cho rằng tất cả những căn bệnh trên có nguồn gốc từ “chủ
nghĩa cá nhân”. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng



25
trăm thứ bệnh và nhiều cái xấu, thiên hình vạn trạng. Chủ nghĩa cá nhân là
giặc nội xâm, bạn đồng minh của các kẻ địch khác. Nói tóm lại, muốn trở
thành người cách mạng, thành người cộng sản, người cán bộ cách mạng chân
chính thì phải qt sạch chủ nghĩa cá nhân.
Trên đây chính là tiêu chí đạo đức của người cán bộ cách mạng đã được
Hồ Chí Minh vạch ra hết sức cụ thể: Hồ Chí Minh chỉ ra những căn bệnh mà
cán bộ cần phải tránh, sửa chữa, đó là: Tư tưởng địa phương chủ nghĩa, bè
phái quân phiệt, hẹp hịi, chuộng hình thức, vơ kỷ luật, tham lam, lười biếng,
kiêu ngạo lãng phí.
Hai là, người cán bộ phải có năng lực tổ chức thực hành.
Theo Hồ Chí Minh người cán bộ chỉ có đạo đức trong sáng cùng lịng
nhiệt tình thơi thì chưa đủ, mà cịn phải có năng lực trí tuệ, biết nhận thức và
vận dụng đúng đắn những quy luật tự nhiên và xã hội vào hoạt động thực tiễn.
Năng lực tức là những thuộc tính nói lên tương quan giữa cá nhân với hoạt
động, bảo đảm cho cá nhân đạt được hiệu quả lao động trong lĩnh vực chuyên
môn nhất định phải thực hành khẩu hiệu “làm việc gì học việc ấy”, “vơ luận ở
qn sự, chính trị, kinh tế, văn hố, tổ chức, tuyên truyền, công an…, cán bộ
ở môn nào phải học cho thạo công việc ở trong môn ấy” [82, tr.14].
Cách mạng muốn thành cơng phải có Đảng lãnh đạo, đường lối đúng
đắn của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu cho thắng lợi của cách mạng.
Nhưng cách mạng chỉ thực sự thắng lợi khi mà Nghị quyết của Đảng thực sự
đi vào quần chúng nhân dân biến thành hành động cách mạng.
Để cho Nghị quyết của Đảng thật sự đến với nhân dân, thì phải cần có cán
bộ tốt. Cán bộ tốt ở đây chính là năng lực lãnh đạo và tổ chức vận động quần
chúng của cán bộ. Bởi vì, cán bộ chính là cầu nối là người đem chủ trương của
Đảng đến với nhân dân và đem tiếng nói của nhân dân đến với Đảng.
Trước hết, để lãnh đạo được quần chúng, người cán bộ phải gần dân
chúng, phải hiểu được tâm tư nguyện vọng của dân, nói được tiếng nói cuộc



×