Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

VẬN DỤNG PHONG CÁCH làm VIỆC hồ CHÍ MINH vào xây DỰNG PHONG CÁCH làm VIỆC CHO đội NGŨ cán bộ luan van dong quyen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.1 KB, 133 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới khâm phục và tơn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng
giải phóng dân tộc”, danh nhân văn hố kiệt xuất, đồng thời ca ngợi Người là
một nhà lãnh đạo, nhà tổ chức thiên tài với phong cách làm việc nghiêm túc,
khoa học, hiệu quả nhưng cũng rất đổi gần gũi, gắn bó và chan hịa với nhân
dân. Phong cách Hồ Chí Minh thể hiện tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân
cách, phương pháp... của một lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và thế giới. Phong
cách Hồ Chí Minh, đặc biệt là phong cách làm việc của Người đã trở thành
tấm gương mẫu mực cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập, noi theo.
Trên cơ sở nhận thức về vai trị, vị trí quan trọng của người cán bộ
trong sự nghiệp cách mạng, Đảng ta yêu cầu cán bộ phải là người vừa có
phẩm chất đạo đức cách mạng, vừa phải có năng lực chun mơn mới đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách
mạng, việc học tập, rèn luyện để hình thành phong cách làm việc của mỗi
người cán bộ là một vấn đề quan trọng. Bởi phong cách làm việc thể hiện
phẩm chất và năng lực của người cán bộ cách mạng, đồng thời, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói: “mỗi cán bộ, đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì
thành tích của Đảng cịn to tát hơn nữa” [49, tr.272]. Có nghĩa là, người cán
bộ có phong cách làm việc đúng, thì đạt được hiệu quả cơng tác lớn hơn. Vấn
đề càng có ý nghĩa khi Đảng và Nhà nước ta đặt ra nhiệm vụ là tập trung mọi
lực lượng, tranh thủ mọi thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh chung là hội
nhập quốc tế và khu vực trên tất cả các lĩnh vực. Để hồn thành những mục
tiêu, nhiệm vụ đó, việc tổ chức học tập phong cách làm việc của Hồ Chí Minh
cho cán bộ, đảng viên, nhất là xây dựng phong cách làm việc cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở là vấn đề đặc biệt quan trọng cả trước mắt và lâu dài.



2
Trong thời gian qua, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở tinh Cà Mau đã có sự chuyển biến tích cực, trở thành một trong
những động lực tạo ra sự phát triển của địa phương cũng như góp phần vào
nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới và
thực hiện nhiệm vụ công tác của cấp ủy, chính quyền địa phương trong tỉnh
thì phong cách làm việc của đội ngũ này còn bộc lộ nhiều hạn chế. Một số cán
bộ chưa nhận thức được ý nghĩa sâu sắc của việc thực hiện dân chủ nên chưa
tạo ra sự chuyển biến trong phong cách làm việc theo phương pháp dân chủ,
cơng khai, cịn biểu hiện dân chủ hình thức, chưa tạo sự dân chủ thực chất.
Một bộ phận cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có cách làm việc quan liêu, không sâu
sát, gần gũi với nhân dân, gây nhũng nhiễu, phiền hà cho nhân dân. Từ đó,
dẫn đến khơng chỉ hiệu quả cơng việc khơng cao mà còn làm suy giảm lòng
tin của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên và chính quyền.
Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, xây
dựng phong cách làm việc cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà
Mau thật sự dân chủ, quần chúng, khoa học, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói
riêng, cả nước nói chung, vì vậy, chúng tơi chọn chủ đề nghiên cứu: “Xây
dựng phong cách làm việc cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà
Mau trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh”, làm
đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học. Hy vọng kết quả nghiên
cứu của đề tài sẽ cung cấp thêm về mặt lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng
phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về
phong cách Hồ Chí Minh nói chung, phong cách làm việc của Người nói riêng.



3
* Về sách có các cơng trình sau
- Đặng Xn Kỳ (1997), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đây là một trong số ít tài liệu nghiên cứu một cách khái quát, hệ thống
về phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh. Tác giả đã trình bày khái niệm,
nội dung của phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, đi từ khái niệm đến
hệ thống phương pháp và phong cách của Người, cũng như khẳng định mối
quan hệ giữa phong cách Hồ Chí Minh với phong cách của người cộng sản
chân chính.
- Trần Đình Quảng - Nguyễn Quốc Bảo (1997), Phong cách làm việc
Lêninít - phong cách Hồ Chí Minh với cán bộ cơng đồn, Nxb Lao động, Hà Nội.
Nội dung quyển sách gồm ba phần
Phần thứ nhất: Phong cách làm việc Lêninit.
Phần thứ hai: Hồ Chí Minh - tấm gương sáng ngời về phong cách làm việc.
Phần thứ ba: Đổi mới phong cách làm việc, một yêu cầu thiết yếu hiện
nay trong hoạt động của các tổ chức Đảng, Nhà nước, công đoàn và các đoàn
thể quần chúng.
- Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ (1998), Đạo đức, phong cách, lề lối
làm việc của cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
Quyển sách được hình thành trên cơ sở các bài tham luận Hội thảo
khoa học nhân kỷ niệm 50 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi
lối làm việc. Quyển sách đã làm rõ tiêu chuẩn, nội dung, yêu cầu học tập, rèn
luyện đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức hiện nay,
đáp ứng nhiệm vụ cải cách hành chính đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
- Trần Văn Phòng (2001), Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.



4
Quyển sách là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học “Phong cách tư
duy Hồ Chí Minh với việc xây dựng phong cách tư duy cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở nước ta hiện nay”. Quyển sách gồm hai phần: phần 1, tác giả trình
bày bản chất, đặc trưng của phong cách tư duy Hồ Chí Minh; phần thứ hai,
tác giả đề cập đến việc xây dựng phong cách tư duy cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
- Ngơ Kim Ngân - Lâm Quốc Tuấn (2010), Phong cách làm việc của
người bí thư huyện ủy hiện nay - Qua khảo sát vùng đồng bằng Sơng Hồng,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đây kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học của Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, do Học viện Xây dựng Đảng chủ trì.
Quyển sách đã trình bày về: Hệ thống chính trị cấp huyện ở đồng bằng Sơng
Hồng và vai trị của người bí thư huyện ủy; quan niệm và tiêu chí đánh giá
phong cách làm việc của người bí thư huyện ủy; thực trạng về phong cách
làm việc của đội ngũ bí thư huyện ủy nước ta hiện nay (qua khảo sát ở đồng
bằng Sông Hồng); phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng phong cách
làm việc khoa học của người bí thư huyện ủy hiện nay.
- Nguyễn Thế Thắng (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây
dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trong quyển sách này, tập thể tác giả đề cập đến hai nội dung cơ bản:
Một là, tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của cán bộ lãnh
đạo, quản lý.
Hai là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng phong cách làm
việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
- Nguyễn Thị Thanh Dung (2010), Phong cách tư duy Hồ Chí Minh
với việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.



5
Trong quyển sách, tác giả đã khái quát chung về phong cách tư duy;
phong cách tư duy Hồ Chí Minh; thực trạng phong cách tư duy của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay; một số giải pháp nâng cao phong
cách tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay theo
phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
* Về luận văn, luận án có các cơng trình sau
- Lê Thị Hương Lan (2006), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ vào việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, Luận văn thạc sĩ
Khoa học chính trị, Hà Nội.
Luận văn đi vào phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ, đồng thời làm rõ thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở tỉnh Hưng Yên và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào đổi mới phương
pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
ở tỉnh Hưng Yên.
- Hồ Ngọc Trường (2012), Xây dựng phong cách Chủ tịch uỷ ban
nhân dân xã ở đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ
Xây dựng Đảng, Hà Nội.
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng
phong cách người Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ở đồng bằng sông Cửu Long;
thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm trong xây dựng phong cách người
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ở đồng bằng sông Cửu Long và đề ra mục tiêu,
phương hướng và những giải pháp chủ yếu xây dựng phong cách người Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã ở đồng bằng sông Cửu Long.
* Về báo và tạp chí có các bài sau
- Bá Ngọc (2003), “Học tập phong cách Hồ Chí Minh”, Báo Nhân dân
cuối tuần, (20).



6
- Trần Phú Mừng (2005), “Rèn luyện phong cách sâu sát quần chúng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (7).
- Nguyễn Phú Trọng (2006), “Tư tưởng, đạo đức và tác phong của
Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi soi đường dẫn dắt sự nghiệp của Đảng ta,
nhân dân ta”, Báo Hà Nội mới, thứ 6, 19/5.
- Bùi Tiến Dũng (2010), “Học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh
về tác phong, phương pháp lãnh đạo của người cán bộ trong giai đoạn mới”,
Tạp chí Lý luận chính trị, (11).
- Trần Hiếu Đức (2012), “Phong cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (6).
- Trần Nhật Duật (2012), “Quan điểm Hồ Chí Minh về phong cách
người cán bộ”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7).
- Bùi Đình Phong (2013), “Xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ,
đảng viên hiện nay theo tấm gương Hồ Chí Minh”, Đặc san Hồ Chí Minh học, (2).
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đi sâu phân tích phong cách Hồ Chí
Minh dưới nhiều góc độ khác nhau như: về xây dựng phong cách, phong cách
tư duy, phong cách làm việc... song có thể nói chưa có cơng trình khoa học
nào đi sâu nghiên cứu, vận dụng phong cách làm việc Hồ Chí Minh vào xây
dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở địa bàn
tỉnh Cà Mau. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã
được cơng bố, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm phong cách Hồ
Chí Minh nói chung và phong cách làm việc của Người nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số nội dung cơ bản trong phong cách làm việc
Hồ Chí Minh, thực trạng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau, vận dụng đề ra phương hướng, giải pháp nhằm xây
dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà
Mau hiện nay.



7
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ làm rõ:
- Nghiên cứu nội hàm phong cách làm việc của Hồ Chí Minh.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng phong cách làm việc của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Cà Mau từ năm 2005 đến nay, (ưu
điểm, khuyết điểm và nguyên nhân).
- Đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới phong cách làm việc
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau hiện nay theo phong
cách làm việc Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh và khảo sát thực trạng phong cách
làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau trong thời gian
qua; đề xuất phương hướng, giải pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phong cách Hồ Chí Minh là vấn đề rộng, nên luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu một số nội dung về tư tưởng chỉ đạo, về phong cách làm việc của
Người; đánh giá thực trạng từ năm 2005 đến nay, đề ra phương hướng và giải
pháp nhằm đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở ở tỉnh Cà Mau.
5. Cơ sở lý luận luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử lịch sử - lơgíc, phân tích - tổng hợp, quy nạp diễn dịch, phương pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội học, phương
pháp tổng hợp, liên ngành.



8
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm về phong cách làm việc Hồ Chí Minh.
- Cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở Cà Mau, đề xuất những giải pháp nhằm góp phần đổi mới phong cách
làm việc cho đội ngũ này sở trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy, học tập và tuyên truyền tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
- Cung cấp những luận chứng về cơ sở khoa học và thực tiễn cho các
cấp ủy Đảng và Chính quyền trên địa bàn tỉnh xây dựng phong cách làm việc
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

Phong cách
Phong cách là khái niệm đã được đề cập đến từ rất lâu. Ở phương Tây, phong
cách thường được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ giới hạn trong văn học nghệ thuật.
Với cách hiểu này, phong cách là những đặc điểm có tính chất hệ
thống về tư tưởng và nghệ thuật, những đặc trưng thẩm mỹ ổn định về nội

dung và hình thức thể hiện, tạo nên những giá trị độc đáo của một nghệ sĩ.
Với nghĩa này thì phong cách không phải là một hiện tượng phổ biến, mà là
hiện tượng cá biệt và phong cách thường gắn với những nghệ sĩ lớn, những tài
năng lớn. Đây là quan niệm tồn tại rất lâu đời ở phương Tây.
Theo tinh thần đó, G. Búypphơng, nhà văn và nhà tự nhiên học người
Pháp, khi được công nhận vào Viện Hàn lâm Pháp năm 1753, đã nêu ra một
luận điểm nổi tiếng: viết tốt cũng có nghĩa là suy nghĩ tốt, cảm nhận tốt và thể
hiện tốt, là đồng thời có cả trí tuệ, tâm hồn và thị hiếu... Những tác phẩm
được viết tốt là những cái duy nhất sẽ còn lại với hậu thế. Số lượng những
kiến thức, tính độc đáo của các sự kiện, sự mới mẻ của những khám phá cũng
không phải là những bảo đảm chắc chắn cho sự bất tử... Tất cả những thứ đó
đều ở ngồi con người, cịn phong cách chính là con người. Phong cách
không thể bị tước đoạt, chuyển nhượng, cũng không thể bị phai nhạt.
Như vậy, G. Búypphông rất coi trọng phong cách, ông coi phong cách
là yếu tố vững chắc làm nên sự bất tử của một tác phẩm nghệ thuật, của một
nghệ sĩ lớn. Phong cách chính là chính là con người, điều này có phần đúng
bởi vì khi xem xét những giá trị nghệ thuật của người nghệ sĩ, trong đó khơng
phải chỉ chứa đựng tài năng nghệ thuật, mà cịn cả trí tuệ, tư tưởng và tâm hồn
của người nghệ sĩ. Bản chất con người là tổng hòa của tất cả các quan hệ xã


10
hội, do đó, phong cách của một người phải được xem xét trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động xã hội rất đa dạng mà người đó tham gia. Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường nói: muốn đánh giá đúng một con người khơng phải chỉ căn cứ
vào người đó nói và viết như thế nào, mà quan trọng là phải xem người đó
làm như thế nào. Khơng phải chỉ trong quan hệ với một người, một việc mà
với nhiều người, nhiều việc khác nhau, cả trong quá khứ và hiện tại. Đó là lẽ
phải thơng thường khơng ai có thể bác bỏ được.
Vì vậy, phong cách cịn được hiểu theo nghĩa rộng, tức là lề lối, cung

cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nền nếp ổn
định của một người hoặc của một lớp người, được thể hiện trong tất cả các
mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và
viết)... tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó [36, tr.130].
Với cách hiểu như trên, chúng ta có thể nói đến phong cách của bất cứ
một người nào, từ một người bình thường đến một lãnh tụ, một vĩ nhân, cũng
như phong cách quân nhân, phong cách lãnh đạo của Đảng...
Còn theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Phong cách là vẻ riêng trong lối
sống, làm việc của một người hay một hạng người nào đó” [91, tr.1261].
Trong những định nghĩa phong cách nêu trên, theo tác giả, định nghĩa
phong cách trong quyển sách Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh do
Giáo sư Đặng Xuân Kỳ làm chủ biên có nội hàm tương đối đầy đủ và nên dựa
vào đó để bàn về phong cách làm việc của cán bộ, trong đó có phong cách của
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh.
Giữa tác phong và phong cách có mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu
hiểu tác phong là phong cách làm việc, phong cách công tác thì tác phong là
một bộ phận của phong cách. Đó là một bộ phận rất quan trọng nhưng khơng
phải là duy nhất, bởi vì, ngồi phong cách làm việc, thì phong cách cịn bao
hàm nhiều lĩnh vực khác như tư duy, diễn đạt, ứng xử...
Phong cách của người cách mạng, người cán bộ đảng viên cịn có mối
quan hệ mật thiết với tư tưởng, đường lối và phương pháp cách mạng. Nếu tư


11
tưởng, đường lối có tính quyết định nhất, thì phương pháp là những cách thức
có tính ngun tắc để đưa đường lối vào cuộc sống. Nhưng phương pháp dù
là chung hay riêng, chỉ được thực hiện thông qua hoạt động cụ thể của những
con người cụ thể với những trình độ, khí chất và phong cách khác nhau. Trong
tiến trình cách mạng, kết quả thực hiện đường lối, phương pháp cách mạng
của mỗi cán bộ, đảng viên đều không giống nhau. Điều này phụ thuộc vào

phong cách của mỗi người. Xuất phát từ tư tưởng, đường lối cách mạng để đề
ra những yêu cầu về phong cách, nhưng từng người phải phấn đấu thường
xuyên mới có thể dần dần xây dựng được cho mình phong cách đúng đắn,
thực sự cách mạng và khoa học.
Phong cách cũng có liên quan chặt chẽ với đạo đức, đạo đức càng
trong sáng và sâu sắc thì phong cách càng phong phú. Vì vậy, đạo đức được
thể hiện thông qua phong cách và qua phong cách có thể đánh giá được đạo
đức, đánh giá được nhân cách của mỗi con người. Do đó, muốn xây dựng cho
mình một phong cách mới, phong cách mang tính cách mạng và khoa học là
công việc của mỗi người phải phấn đấu bền bỉ suốt đời.
Phong cách hình thành và chịu tác động của các điều kiện tự nhiên, mơi
trường, tình hình chính trị, văn hóa, xã hội... qua các thời kỳ phát triển của lịch
sử. Phong cách người Việt Nam không giống phong cách người Trung Hoa và
khác với phong cách người Pháp, người Mỹ. Ngay cả những người trong một
quốc gia cũng có thể có phong cách khác nhau. Chính vì vậy, phong cách có đặc
điểm là gắn với truyền thống, tập quán, thói quen và do hoàn cảnh sống của mỗi
người quy định. Nếu những truyền thống tốt đẹp có sức sống bền vững đi vào
phong cách, thì những tập qn, thói quen xấu thường có sức ỳ rất lớn, cản trở
việc xây dựng phong cách mới. Con người có thể tiếp thu những truyền thống
tốt, tập quán đẹp và khắc phục những thói quen xấu ở những mức độ như thế nào
hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ và khí chất của người đó. Cùng một hồn cảnh
sống như nhau nhưng ở từng người có phong cách hồn tồn khơng giống nhau.


12
Việc xây dựng phong cách mới mang tính cách mạng và khoa học phải
có sự kết hợp giữa nhận thức lý tính với việc phát huy những truyền thống tốt
đẹp và khắc phục những tập quán, thói quen xấu mà con người thường mắc
phải trong những hoạt động hàng ngày.
Phong cách cịn có đặc điểm nữa là mang dấu ấn cá nhân rất rõ. Một nếp

sống giản dị - đó chính là phong cách sinh hoạt; cịn khiêm tốn lại là một phẩm
chất đạo đức của một người tự biểu hiện mình trong quan hệ với người khác.
Phong cách Hồ Chí Minh: là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái,
phong độ và phẩm cách của Hồ Chí Minh, trở thành những phẩm chất ổn
định, được thể hiện thông qua các hoạt động giao tiếp, ứng xử, và tạo nên
những giá trị mang đậm dấu ấn của Người.
Giữa tư tưởng, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh có mối quan
hệ mật thiết và thống nhất biện chứng với nhau.
Nghiên cứu phong cách Hồ Chí Minh là nghiên cứu theo nghĩa rộng
của khái niệm phong cách. Việc xác định phong cách Hồ Chí Minh xuất phát
từ những hoạt động hết sức đa dạng và phong phú của Người. Đó là phong
cách của một con người với nhân cách siêu việt, cái tâm trong sáng, cái đức
cao đẹp, cái trí minh mẫn, cái hành mực thước, phong cách của một lãnh tụ,
một vĩ nhân, một chiến sĩ cộng sản chân chính. Đó cịn là phong cách của
người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất.
Phong cách Hồ Chí Minh không phải để cho người đời ca ngợi, sùng
bái mà là tấm gương để mọi người noi theo, học tập. Không phải chỉ người
Việt Nam, từ lao động chân tay đến lao động trí óc, từ già đến trẻ, từ miền
ngược tới miền xuôi, từ người tu hành đến các chính khách, thương gia đều
tìm thấy ở Hồ Chí Minh phong cách của chính mình, mà cả người nước ngồi
ở phương Đơng hay phương Tây cũng cảm thấy gần gũi, khơng xa lạ với
phong cách Hồ Chí Minh.
Điều này đã được nhà thơ Xơviết Ơxíp Manđenxtan phát hiện từ năm
1923: qua Nguyễn Ái Quốc, mọi người có thể hiểu được dân tộc Việt Nam là


13
một dân tộc rất lịch thiệp và độ lượng, rất ghét những gì thái quá.
Dáng dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây, Nguyễn Ái
Quốc, cũng đang toả ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị... Từ

Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ văn hoá, khơng phải văn hố Âu
châu, mà có lẽ là một nền văn hố tương lai [44, tr.462].
Tóm lại, Phong cách Hồ Chí Minh Minh là một bộ phận quan trọng
trong tồn bộ di sản vơ giá mà Người để lại cho dân tộc ta. Là một hệ thống,
một chỉnh thể, gắn bó chặt chẽ với nhau, phát triển theo lơgích đi từ suy nghĩ
(phong cách tư duy) đến nói, viết (phong cách diễn đạt) và biểu hiện qua
phong cách làm việc, phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt hàng ngày.
Phong cách làm việc: là tổng hợp những phương pháp, biện pháp,
cách thức để chủ thể thực hiện nhiệm vụ được giao.
Phong cách làm việc được đề cập đến ở đây chính là phong cách của
người cán bộ. Phong cách làm việc giữ vai trò quan trọng trong tất cả các
khâu hoạt động và thực thi nhiệm vụ của người cán bộ. Nó được quy định bởi
chức năng, nhiệm vụ, phẩm chất, tri thức và điều kiện hoạt động của người
cán bộ. Với ý nghĩa đó, phương pháp, cách thức làm việc là bộ phận cấu
thành trong phong cách làm việc của cán bộ.
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh: là tổng hợp những phương pháp,
biện pháp, cách thức mà Người sử dụng để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Hồ Chí Minh thường xun quan tâm đến phong cách làm việc của
cán bộ, đảng viên. Về mặt này, Người đã để lại cho chúng ta nhiều giáo huấn
rất sâu sắc, đặc biệt trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, một trong những tác
phẩm quan trọng của Người sau Cách mạng Tháng Tám.
Mỗi người đều có phong cách làm việc riêng của mình. Đối với cán bộ,
đảng viên, đó là phong cách công tác, phong cách lãnh đạo. “Sửa đổi lối làm
việc”, theo tinh thần Hồ Chí Minh là sửa đổi những gì sai trái, khơng đúng,
khơng tốt đã có trong phong cách cơng tác và lãnh đạo của cán bộ, đảng viên.


14
Nghiên cứu phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần phải
đi sâu vào những việc làm cụ thể của Người, vì có nhiều điều Người làm

nhưng khơng nói hoặc nói rất ít. Phải đi vào chỗ ít nói hoặc khơng nói ấy mới
có thể hiểu sâu hơn phong cách làm việc Hồ Chí Minh.
Cán bộ
Cán bộ là một từ Hán Việt dùng để chỉ người lãnh đạo, phân biệt với
nhân dân. Nói đến cán bộ là nói đến một lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng
mọi gian khổ, hy sinh cho cách mạng, gắn bó mật thiết với nhân dân, gần gũi
với dân chúng. Cán bộ có nhiều cách hiểu với phạm vi rộng hẹp và ở từng
nước khác nhau. Ở nước ta cán bộ được sử dụng phổ biến từ sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945. Nói đến định nghĩa cán bộ là gì? Người ta thường đề
cập đến, đó là những người có chức vụ ở cơ quan nhà nước hoặc trong một tổ
chức nào đó.
Trong đời sống xã hội, theo cách hiểu thơng thường, cán bộ được coi
là tất cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đồn
thể, qn đội [75, tr.18].
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, khái niệm cán bộ được định nghĩa là:
Người làm việc trong cơ quan nhà nước.
Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, khơng giữ chức
vụ, trong các cơ quan, tổ chức nhà nước [91, tr.185].
Từ những khái niệm trên, có thể đưa ra quan niệm sau: Cán bộ là
những người làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong các cơ quan của hệ
thống chính trị.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ chí
Minh rất coi trọng vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Người coi vấn đề cán bộ
là một trong những vấn đề then chốt quyết định đến sự thành bại của cách
mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: Cán bộ là gốc của mọi công việc, và
Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy tồn bộ máy cũng tê liệt.


15

Cán bộ là người đem chính sách của chính phủ, của Đoàn thể thi
hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng khơng
thể thực hiện được [58, tr.54].
Do đó, Người yêu cầu mỗi cán bộ phải luôn tự rèn luyện, phải luôn
giữ được tư cách của người cán bộ cách mạng. Trước hết, theo Hồ Chí Minh
người cán bộ cách mạng phải là người luôn giữ chủ nghĩa cho vững, ít ham
muốn về vật chất, ngày đêm nghĩ đến sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng hy sinh
tất cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và nhân loại. Đó là những con người
biết phân biệt giữa “thiện” và “ác”, “chính” và “tà”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
yêu cầu những người cán bộ khi đã tự nguyện đi làm “cơng bộc” của dân thì
trước hết phải thực hiện nghiêm túc bốn đức cách mạng “cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư”, một lịng vì nước, vì dân.
Cán bộ chủ chốt: là những người lãnh đạo đứng đầu trong các cơ quan, tổ
chức, có tác dụng làm nịng cốt chi phối hoạt động của cơ quan, tổ chức đó.
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về các chức danh cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở, có các ý kiến như:
Ý kiến thứ nhất, bao gồm có vài chức danh trong hệ thống chính trị ở
cơ sở, đó là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ nhiệm Hợp tác
xã và trưởng thôn (trưởng ấp) [31, tr.37].
Ý kiến thứ hai, là Bí thư và phó bí thư thường trực Đảng ủy, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Hội Nông
dân xã [67, tr.141].
Ngoài ra, một số ý kiến khác lại cho rằng, ngồi các chức danh trên,
cịn một số chức danh khác như: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch Hội
Cựu chiến binh, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ, Bí thư Đồn Thanh niên…
Thực tiễn cho thấy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
là xây dựng cả đội ngũ cấp trưởng của tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận



16
Tổ quốc và các đồn thể quần chúng. Bởi vì mỗi tổ chức đều có vị trí, vai trị
nhất định và có mối quan hệ tác động qua lại với nhau.
Như vậy, có thể hiểu: cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người lãnh đạo
đứng đầu quan trọng nhất trong hệ thống bộ máy ở cấp xã, phường (hoặc tương
đương), có vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt chi phối việc thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn mà họ phụ trách.
Theo đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở bao gồm: Bí thư Đảng uỷ,
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Chủ tịch Hội Nơng dân, Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ và Chủ tịch Hội Cựu
chiến binh cấp cơ sở.
1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH

1.2.1. Phong cách làm việc quần chúng
Đây là nội dung quan trọng hàng đầu trong phong cách làm việc của
Hồ Chí Minh. Phong cách quần chúng trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể
hiện qua những hành động cụ thể:
- Một là, sâu sát quần chúng, chú ý tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của
quần chúng, quan tâm đến mọi mặt đời sống của quần chúng.
- Hai là, tin yêu và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe và giải quyết
những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của
quần chúng và sửa chữa khuyết điểm của mình.
- Ba là, giáo dục, lãnh đạo quần chúng, đồng thời không ngừng học
hỏi quần chúng, tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng.
- Bốn là, tự mình phải mực thước để xứng đáng với sự tin cậy của
quần chúng nhân dân.
Phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự thấm nhuần
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như truyền thống của dân tộc. Bởi



17
vì, quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã từng
tổng kết về sức mạnh của nhân dân và sự đoàn kết dân tộc: “Đẩy thuyền là
dân, lật thuyền cũng là dân”, “vua tơi đồng lịng, anh em hịa thuận, nước nhà
chung sức thì giặc phải thua”… điều đó có nghĩa là ý chí của dân chúng là
bức tường thành giữ nước chắc chắn nhất.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng cũng như trong cuộc sống
thường ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhìn thấy sức mạnh và sự sáng tạo
to lớn của nhân dân, do đó, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải đi đúng
đường lối của quần chúng. Người cho rằng “Trong bầu trời không gì q bằng
nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân” [53, tr.453] và:
“Nước lấy dân làm gốc…
Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” [48, tr.502].
Vì vậy, Người luôn chăm lo tăng cường mối liên hệ với quần chúng
nhân dân và coi đó là nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng.
Với nhân dân, đời sống là rất quan trọng, bởi vì dân lấy cái ăn làm
trời. Do đó, Người ln căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn quan
tâm đến đời sống của nhân dân. Người cho rằng nếu đất nước được độc lập
mà nhân dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì sự độc lập ấy chẳng có
nghĩa lý gì. Là cơng bộc, là đày tớ của dân thì Đảng, Chính phủ và mỗi cán bộ
phải chăm lo đời sống của nhân dân. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, tại phiên họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến
quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mục tiêu của nước ta là phải làm sao
cho nhân dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở và làm cho
dân được học hành. Đây chính là những nhu cầu thiết yếu nhất của nhân dân

trong cuộc sống thường ngày mà Đảng và Nhà nước phải lo cho nhân dân.


18
Người nói: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta
đã tranh được rồi...
Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì
tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập
khi mà dân được ăn no, mặc đủ” [47, tr.175].
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nêu một tấm gương mẫu mực về phong
cách làm việc sâu sát, thận trọng, nắm sát tình hình quần chúng. Vì thế, Hồ
Chí Minh thường yêu cầu cán bộ, đảng viên phải từ nơi quần chúng mà ra và
phải trở lại nơi quần chúng mà phục vụ.
Người đã nhiều lần phê phán tệ xa rời quần chúng, lên mặt “quan
cách mạng”, “quan nhân dân”, khơng thấy mình là người đày tớ, người học
trị của nhân dân. Những thói mệnh lệnh, cửa quyền đối với quần chúng,
không chú ý lắng nghe ý kiến phê bình, những kiến nghị của quần chúng, bỏ
mặt khơng xem xét những yêu cầu, khiếu nại của quần chúng là hoàn toàn xa
lạ với quan điểm và phong cách quần chúng của Người.
Hồ Chí Minh nêu lên một quan điểm rất rõ: “Trước mặt quần chúng,
không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức” [49, tr.16]
và phải u dân, kính dân thì dân mới dành sự u kính cho mình. Điều này
có ý nghĩa rất quan trọng đối với cán bộ, đảng viên. Làm cho dân kính, dân
yêu, dân tin, dân phục là vấn đề thuộc về lòng người. Ỷ vào quyền lực chỉ có
thể làm cho người ta sợ, ngại, xa lánh và khinh ghét, chứ không thể dành
được sự tin yêu, kính phục của người khác. Xưa nay, người cán bộ sáng suốt,
tài giỏi đều biết lặn lội, sâu sát, thận trọng, tỉ mỉ trong hoạt động thực tiễn và
nó trở thành phong cách làm việc khoa học và đạo đức của người cán bộ. Vì
thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ: chẳng những phải lãnh đạo quần

chúng, mà lại phải học hỏi quần chúng. Nghĩa là, người cán bộ không được
kiêu ngạo, mà nên thấu hiểu, giữ mối liên hệ bền chặt với quần chúng, biết


19
học hỏi quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Kinh nghiệm cho thấy,
bệnh mị dân không kém nguy hiểm so với bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.
Chứng bệnh mị dân là bạn đường của những kẻ xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích
động, chia rẻ cán bộ và nhân dân, hịng hạ uy tín của Đảng và Nhà nước ta.
Không được mị dân, mà phải lãnh đạo dân. Lãnh đạo dân phải ra được những
quyết định đúng, tổ chức, thực hiện và kiểm tra cho có hiệu quả. u cầu đó
địi hỏi cán bộ phải sâu sát cơ sở, phải thận trọng, tỉ mỉ, phải nắm chắc yêu
cầu, nguyện vọng của nhân dân. Có như vậy mới có được chủ trương, biện
pháp đúng đắn và sát hợp với thực tiễn của dân. Về điểm này, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã có chỉ dẫn rất cụ thể:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì
nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng
chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân
chúng giúp sức thì khơng xong.
3. Phải tổ chức sự kiểm sốt, mà muốn kiểm sốt đúng thì cũng phải
có quần chúng giúp mới được [48, tr.325].
Rõ ràng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, ba khâu trong quy trình lãnh
đạo của người cán bộ đều phải hết sức sâu sát, đều phải có nhân dân tham gia.
Ngay từ khi cịn hoạt động cách mạng bí mật cho đến khi trở thành
Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh ln gần gũi với nhân dân vẫn không khác già
Thu ở Pác Bó, như ơng Ké hồi ở chiến khu Việt Bắc. Nhân dân từ già đến trẻ,
thuộc mọi tầng lớp, dân tộc, mọi thế hệ đều gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng
hai tiếng Bác Hồ, ai cũng thấy Người gần gũi với mình như người thân trong
gia đình. Dù bận rất nhiều việc lớn của Đảng và Nhà nước, nhưng Người vẫn

thường xuyên đi thăm các cơ sở, đến các đơn vị vũ trang nhân dân thuộc đủ
các binh chủng, quân chủng, ngay trên bãi tập hay ngoài trận địa. Người đã có
mặt ở hàng trăm cơng trường, xí nghiệp, nông trường, hợp tác xã, bệnh viện,


20
trường học, nhà trẻ, lớp mẫu giáo và nhiều nơi ở của cơng nhân, cán bộ bình
thường để nắm tình hình và động viên, khuyến khích mọi người cố gắng làm
tốt công việc được giao. Dấu chân của Người để lại ở nhiều địa phương, từ
trung du đến đồng bằng, từ miền núi đến miền duyên hải và các đảo xa rất sâu
đậm. Theo thống kê chưa thật đầy đủ, chỉ tính trong vịng 10 năm (từ năm
1955 đến năm 1965), không quản tuổi cao, sức yếu, công việc bộn bề nhưng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện khoảng 700 lượt đi thăm các địa phương,
đến với nhân dân để thăm hỏi đồng bào chiến sĩ, xem xét tình hình, kiểm tra
cơng việc. Tính ra mỗi năm có hơn 60 lượt Người đi xuống cơ sở, mỗi tháng
có khoảng 6 lần Người gặp gỡ quần chúng. Đó là một kỷ lục khó ai có thể
vượt qua, nhất là đối với một lãnh tụ đã ở tuổi thất thập.
Hồ Chí Minh đến với mọi người một cách rất tự nhiên, bình dị. Mọi
nghi thức đối với Người hình như đều trở thành khơng cần thiết. Một hàng rào
danh dự có khi thừa vì Người đã lặng lẽ vào thăm chỗ ở, chỗ ăn, chỗ vệ sinh
trước khi gặp những người phụ trách ở nơi Người đến thăm.
Năm 1961, khi về thăm lại Pác Bó, Cao Bằng, thấy tỉnh tổ chức đón
tiếp, Người nói: Tơi về thăm nhà mà sao phải đón tơi.
Khi đi thăm dân, Người khơng muốn có nhiều bảo vệ vì nhân dân đã
bảo vệ Người. Khi đến một cơ sở, Người không muốn tiệc tùng tốn kém theo
kiểu “khách ba, chúa bảy” để mang tiếng với dân. Vì vậy, một bữa cơm nắm ở
ven đồi hay dưới gốc cây cổ thụ trước khi gặp dân, thăm dân là chuyện thường
tình ở Hồ Chí Minh, điều chưa thấy ở bất cứ một vị Chủ tịch nào khác.
Khi gặp gỡ bà con nông dân ngay trên đồng ruộng, Người bỏ dép, sắn
quần lội xuống nơi bà con đang cấy, hoặc cũng đạp nước, tát nước như một

lão nông quen việc đồng án. Đi thăm tàu hải quân, Người cầm lái khơng khác
gì một thủy thủy lão luyện. Đến với dạ hội thanh niên, Người đứng vào vị trí
chỉ huy dàn nhạc, bắt nhịp cho hàng ngàn thanh niên cùng hát bài “Kết đồn”.
Những hình ảnh ấy cịn lại mãi với thời gian, có ý nghĩa vơ cùng sâu sắc.


21
Phong cách quần chúng rất tự nhiên, bình dị ấy như có sức cuốn hút kì
lạ, làm cho quần chúng đến với Người khơng chút e ngại, cũng bình dị, tự
nhiên như họ vẫn sống hàng ngày. Tác phong ấy làm cho lãnh tụ và quần
chúng dễ dàng hòa nhập với nhau trong sự đồng cảm sâu sắc nhất. Nhờ vậy,
mọi người có thể nói hết những suy nghĩ, trăn trở của mình, cịn Người thì
lắng nghe để có thể hiểu nhịp đập của cuộc sống xung quanh.
Phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở chỗ, Người
luôn quan tâm đến mọi việc của các ngành, các địa phương, các cơ sở, qua
các báo cáo cũng như báo chí hàng ngày của cả Trung ương và địa phương.
Đặc biệt, Người thường xuyên chú ý đến những gương người tốt, việc tốt
trong các ngành, các giới, các lứa tuổi, các tầng lớp nhân dân để động viên,
khen thưởng, qua đó giáo dục mọi người. Tập hợp trên 4000 trường hợp đã
được thưởng “Huy hiệu Bác Hồ”, giữa năm 1968, Người đã mời một số cán
bộ đến tìm cách làm và xuất bản loại sách Người tốt, việc tốt. Nói về tầm
quan trọng của loại sách này, Người chỉ rõ: “Những chiến cơng và thành tích
nổi bật, vang dội thì ai cũng có thể thấy được. Cịn những việc nhỏ, bình
thường thơi, nhưng ích nước lợi dân, thì hay bị xem thường” [58, tr.663].
Theo Người, biển cả phải từ bao nhiêu giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy
về một hướng thì mới thành suối, thành sơng, rồi thành biển. Thấy biển lớn thì
phải tìm về những giọt nước nhỏ. Thấy thắng lợi vĩ đại, phải trở về với những
con người bình thường, với quần chúng nhân dân.
Phong cách quần chúng không chỉ là phong cách cần thiết của cán bộ,
đảng viên trong quan hệ với dân, mà còn là phong cách của cấp trên với cấp

dưới, của cán bộ lãnh đạo với cán bộ, đảng viên bình thường. Đối với người
lãnh đạo cấp trên, hiểu dân và hiểu cấp dưới đều có tầm quan trọng đặc biệt.
Hiểu dân là để hiểu cấp dưới được chính xác hơn; hiểu cấp dưới là để hiểu
dân được chính xác hơn. Càng hiểu dân và hiểu cấp dưới, người lãnh đạo cấp
trên càng hiểu chính mình và càng rút ra được những điều bổ ích để bổ sung
cho chủ trương, chính sách đã được đề ra.


22
Tóm lại, phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh đã tạo nên một
niềm tin vững chắc trong lịng đơng đảo quần chúng, nhờ đó đã tạo nên một
sự tập hợp, đoàn kết, hướng tất cả lực lượng trong xã hội cùng hướng về một
mục đích chung là giành độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
1.2.2. Phong cách làm việc tập thể - dân chủ
Xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân, đồng thời xuất phát từ bản tính tốt đẹp vốn có của mình, Hồ
Chí Minh thường xun có một phong cách làm việc rất tập thể và dân chủ.
Gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, phát huy sức mạnh của tập thể - tinh
thần ấy thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của Người.
Hồ Chí Minh coi dân chủ là một giá trị của cuộc sống và thực hành
dân chủ chính là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề. Người
khẳng định: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau.
Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến... Và trong khi
tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng
tự sửa chữa được nhiều” [48, tr.284].
Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải gắn mình trong tập
thể, tơn trọng tập thể, đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý kiến và phát huy sức
mạnh của tập thể, đồng thời, nêu cao trách nhiệm cá nhân và hoàn thành tốt
nhiệm vụ mà tập thể giao cho. Tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân

chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Hồ Chí Minh cho rằng, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách có mối
quan hệ khăng khít với nhau. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách là hai vế
làm thành một chỉnh thể thống nhất trong nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Tập thể
lãnh đạo là để phát huy trí tuệ của nhiều người. Người nói: “Vì một người dù
khơn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy,
chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy
và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề” [48, tr.619].


23
Từ đó, chúng ta có thể hiểu rằng, cái thơng minh của người phụ trách,
sức mạnh của lãnh đạo không phải chỉ là những điều mình tự nghĩ ra, hay tự
mình làm lấy, mà quan trọng hơn chính là ở chỗ biết phát huy và tổng hợp
được cái thông minh và sức mạnh của nhiều người, của tập thể. Sự tổng hợp
đó được nâng cao, được biến đổi về chất bởi cái thông minh của người phụ
trách, người lãnh đạo, để thăng hoa, tạo thành cấp số nhân - đó là điều khơng
thể có được ở bất cứ một người riêng lẻ nào.
Với phong cách tập thể - dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú ý
đến việc thực hiện và phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng cũng như đối với
quần chúng, phát huy tinh thần dân chủ tập thể của mọi người. Khi bàn về
cách làm và xuất bản loại sách Người tốt, việc tốt với một số cán bộ, trong lúc
bàn bạc, thảo luận, Người nói: “Bác muốn bàn luận dân chủ, các chú có ý
kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt được. Khơng nên:
Bác nói gì, các chú cũng cứ ghi vào sổ mà trong bụng thì chưa thật rõ, rồi các
chú khơng làm, hay làm một cách qua loa” [58, tr.661].
Sau này, trong nhiều lần nói chuyện, trao đổi, Người yêu cầu cán bộ,
đảng viên phải lắng nghe ý kiến của nhân dân để nắm vững tình hình, từ đó
mới có cách lãnh đạo đúng đắn. Muốn vậy, người lãnh đạo cần đề cao mở
rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội, thường xuyên đi xuống cơ sở để

lắng nghe ý kiến của cấp dưới và nhân dân chứ không phải để huấn thị. Người
yêu cầu phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên và nhân dân được
bày tỏ ý kiến của mình.
Phong cách làm việc tập thể - dân chủ của Hồ Chí Minh ln tạo ra
bầu khơng khí hoạt bát, phấn khởi, hăng hái và đầy sáng tạo. Nhiều lần,
Người đã phê bình cách lãnh đạo của một số cán bộ khơng dân chủ, do đó mà
người có ý kiến khơng dám nói, người muốn phê bình khơng dám phê bình,
làm cho cấp trên, cấp dưới tách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau,
khơng cịn sáng kiến, khơng cịn hăng hái trong khi làm việc, Người chỉ rõ:


24
“Vì khơng phải họ khơng có gì nói, nhưng vì họ khơng dám nói, họ sợ. Thế là
mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên
những cái máy, trong lòng uất ức, khơng dám nói ra, do uất ức mà hố ra ốn
ghét, chán nản” [48, tr.320].
Bản thân Hồ Chí Minh, trong cuộc sống thường ngày cũng như trong
công tác với cương vị là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, nhưng Người
không bao giờ thực hiện sự áp đặt, độc đốn hoặc gia trưởng, mà Người ln
dùng cách lãnh đạo tập thể - dân chủ để ra quyết định một cách chính xác, nên
khơng chỉ khai thác được trí thơng minh, sáng tạo của tập thể, mà còn tranh
thủ được sự đồng tình, ủng hộ, tạo ra sự thống nhất ý chí và hành động của
tập thể trong các giai đoạn cách mạng ở nước ta. Người là mẫu mực truyệt vời
về phong cách làm việc tập thể - dân chủ. Phong cách làm việc tập thể - dân
chủ hoàn toàn đối lập với sử dụng quyền hành, mệnh lệnh hành chính và quan
liêu. Đây là một điều khơng hề đơn giản với những người có chức, có quyền.
Vì thế, người đã nhiều lần nhắc nhở cán bộ rằng: “Cách lãnh đạo của ta không
được dân chủ, cách công tác của ta khơng được tích cực” [48, tr.283]; rằng
“nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột
vào cho quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”. Chân là quần

chúng. Giầy là cách tổ chức và làm việc của ta. Ai cũng đóng giầy theo chân.
Khơng ai đóng chân theo giầy” [48, tr.288].
Nhiều bài viết của Người đã được chuyển đến các đồng chí lãnh đạo
chủ chốt đọc và góp ý kiến trước khi cơng bố. Người cịn trao đổi với cả các
đồng chí phục vụ hàng ngày về những bài báo ngắn, để sửa chữa những chỗ
cịn khó hiểu trước khi đăng. Người trân trọng ý kiến của mọi người, không
phân biệt chức vụ, cấp bậc cao hay thấp. Đầu óc đẳng cấp là hồn tồn xa lạ
với Hồ Chí Minh.
Trong công tác lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln ý thức sử dụng sức mạnh tổng hợp của nhiều cơ quan, nhiều tổ chức.


25
Trước khi quyết định một công việc hệ trọng, Người đều hỏi lại cẩn thận, chu
đáo những người đã giúp mình. Tất cả những ai đã được Người giao việc đều
cảm nhận sâu sắc điều đó.
Gần dân, lắng nghe ý kiến của dân, thấu hiểu nguyện vọng của quần
chúng nhân dân, hịa mình với quần chúng thành một khối, tin nhân dân và
suốt đời phục vụ nhân dân là đặc trưng của tư tưởng và phong cách làm việc
Hồ Chí Minh.
1.2.3. Phong cách làm việc khoa học
Trong công tác cũng như trong lãnh đạo, Hồ Chí Minh ln u cầu
cán bộ, đảng viên phải xây dựng phong cách khoa học, “cách làm việc có
khoa học”. Người đã căn dặn: Gặp mỗi vấn đề… Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ
hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy. Hồ Chí Minh đặt ra
một nguyên tắc nhất quán cho mình và yêu cầu cán bộ, đảng viên cũng phải
thực hiện, đó là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì lợi ích
của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc. “Vơ luận lúc nào, vơ luận
việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá
nhân lại sau. Đó là ngun tắc cao nhất của Đảng” [48, tr.290-291] và Người

cho rằng đó chính là “tính Đảng”. Theo Người, đối với mỗi cán bộ, mỗi đảng
viên, cần phải có tính Đảng mới làm được việc, kém tính Đảng thì việc gì làm
cũng khơng nên. Nguyên tắc này phải được đặt lên hàng đầu trong mọi hoạt
động của người cán bộ; mọi hoạt động của người cán bộ phải đặt lợi ích của
Tổ quốc, của nhân dân lên trước hết. Để đạt được nguyên tắc trên, đòi hỏi
người cán bộ phải thường xuyên rèn luyện phong cách làm việc thật khoa học,
loại bỏ những thói hư tật xấu thường mắc phải.
Nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu đã để lại cho chúng ta một tác
phong thiếu khoa học, “làm việc theo lối thủ cơng nghiệp”. Đó là hàng loạt
những thói quen xấu như: tự do, tùy tiện, gặp chăng hay chớ, thiếu kế hoạch,
thiếu điều tra nghiên cứu, thiếu ngăn nắp trật tự, luộm thuộm, lề mề, chậm


×