Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Nâng cao trình độ lý luận mác lênin cho học viên trường chính trị ở nước ta hiện nay (qua thực tế trường chính trị tô hiệu, hải phòng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.79 KB, 105 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, học tập được xem là nhu cầu tồn tại và phát triển của xã
hội. Một xã hội vận động và phát triển là “một xã hội học tập”. Học là quá trình
thu nhận kiến thức để nhận thức và hiểu biết về thế giới xung quanh ta. Học là
nhu cầu, là quyền lợi của mỗi cá nhân; học cũng có thể được xem là phương
tiện, là hành trang chắp cánh cho con người thực hiện và làm chủ mơ ước của
mình; học khơng giới hạn ở tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị …Chúng ta đang sải
những bước đi đầu tiên của thế kỷ XXI. Đây là thời cơ nhưng đồng thời cũng là
thách thức đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Theo dự báo của các nhà khoa
học, thế kỷ XXI sẽ diễn ra cuộc cạnh tranh trí tuệ toàn cầu. Người chiến thắng
trong cuộc cạnh tranh ấy sẽ là người làm chủ được tri thức, làm chủ được khoa
học công nghệ. Đứng trước thời cơ và thách thức trong giai đoạn cách mạng hiện
nay, trong Văn kiện đại hội VIII, Đảng ta đã xác định việc củng cố xây dựng
đảng ngang tầm đòi hỏi của thời đại là nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và
năng lực cán bộ, đảng viên. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam liên tiếp giành được
những thắng lợi vĩ đại, đưa nước ta từ một nước nơ lệ trở thành một nước tự do,
hịa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, nhất là giải quyết tốt
việc xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm và thực hiện tốt cơng bằng xã hội. Từ đó,
tạo điều kiện vững chắc cho quá trình phát triển đất nước trong những năm tiếp
theo và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Xác định được tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp cách
mạng, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm
tới việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin cho đội ngũ



2
cán bộ. Trong thời kỳ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trình độ lý
luận Mác - Lênin còn là một đòi hỏi của cán bộ lãnh đạo ở các cấp từ Trung
ương đến cấp cơ sở; chứ khơng phải chỉ riêng có ở cán bộ nghiên cứu hay người
làm công tác lý luận như trước đây thường quan niệm. Mặt khác, với những biến
động lớn về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới và khu vực cùng với
sự non kém của nền kinh tế nước ta đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề mới
phức tạp. Xu thế tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, nhiều yêu
cầu mới trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội đang đặt ra. Có những
vấn đề đơn giản nhận thức được bằng trực giác, nhưng có những vấn đề địi hỏi
phải có sự khái qt, phân tích bằng tư duy lý luận thì mới có thể nhận thức và
giải quyết được. Vì vậy, nâng cao trình độ tồn diện, nhất là trình độ lý luận Mác
- Lênin cho học viên trường chính trị ở nước ta hiện nay, đây là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo đương chức hoặc dự nguồn cán bộ lãnh đạo ở cơ sở thực sự có bản lĩnh
chính trị, có hiểu biết lý luận Mác - Lênin, nắm được quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và vận dụng sáng tạo những lý
luận này vào thực tiễn. là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Trình độ lý luận Mác - Lênin của học viên ở các trường chính trị thuộc
các tỉnh, thành trong cả nước là một trong những tiêu chuẩn cơ bản để bổ
nhiệm là cán bộ lãnh đạo quản lý, có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã
hội, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương, thúc đẩy sự phát
triển chung của tỉnh, thành, vùng và cả nước. Xác định rõ tầm quan trọng của
vấn đề này, trong nhiều năm qua, bám sát sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của
Thành ủy, ủy ban nhân dân thành phố Hải Phịng, Trường Chính trị Tơ Hiệu
đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cho thành phố; luôn chú trọng đến việc đổi mới mọi mặt nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của trường góp phần khơng nhỏ vào sự phát
triển chung của thành phố. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
(tháng 4-2011) là: “Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận



3
chính trị, giáo dục cơng dân trong hệ thống các trường chính trị, các trường
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”. Công tác đào tạo, bồi dưỡng của thành
phố Hải Phịng nói chung, của trường Chính trị Tơ Hiệu nói riêng được tiến
hành đổi mới bằng nhiều giải pháp mang tính đột phá, dựa theo chức danh và
trên cơ sở năng lực, nhất là theo trình độ cụ thể của từng đối tượng học viên
từ đó nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực nâng cao trình độ lý
luận Mác - Lênin, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn cho học viên để
thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa của thành phố và
đặc biệt là xây dựng Hải Phòng trở thành thành phố công nghiệp và dịch vụ
cảng theo hướng văn minh, hiện đại; có kinh tế phát triển nhanh, bền vững;
năng lực lãnh đạo, bản lĩnh chính trị, sức chiến đấu của toàn Đảng bộ và hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị tiếp tục được nâng cao; bảo
đảm tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội; tiếp tục cải thiện và nâng cao chất
lượng đời sống của nhân dân thì học viên trường chính trị Tơ Hiệu, Hải Phịng
phải khơng ngừng rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt, trước hết là trình độ lý
luận Mác - Lênin. Trước tình hình đó, là một người làm công tác, giảng dạy lý luận
Mác - Lênin tại Trường Chính trị Tơ Hiệu, Thành phố Hải Phịng, tơi mạnh dạn
chọn đề tài “Nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin cho học viên trường chính
trị ở nước ta hiện nay (Qua thực tế Trường Chính trị Tơ Hiệu, Hải Phịng)”làm
đề tài luận văn Thạc sĩ Triết học, với mong muốn góp một phần nhỏ vào sự nghiệp
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin cho học viên ở trường
Chính trị Tơ Hiệu, Thành phố Hải Phịng hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện; trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng luôn coi trọng vấn đề
giáo dục, rèn luyện, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin cho cán bộ,
đảng viên. Trong những năm gần đây, đặc biệt là kể từ khi Đảng ta thực
hiện đổi mới đất nước, Đại hội VI tháng 12 năm 1986 và Văn kiện đại hội



4
VIII Đảng ta đã xác định việc củng cố xây dựng đảng ngang tầm đòi hỏi của
thời đại là nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng
viên; đó là mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, phải
có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin,
kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối
với mọi cán bộ, đảng viên và phải được qui định thành chế độ. Lười học tập,
lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những thông tin mới, những
hiểu biết mới, cũng là biểu hiện của sự thối hóa. Từ đó đến nay, Đảng ta đưa
ra nhiều chủ trương, chính sách và có những u cầu quy định về trình độ
lý luận Mác - Lênin đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp. Đây là
những định hướng quan trọng góp phần nâng cao trình độ lý luận Mác Lênin cho học viên ở các trường chính trị và những cơng trình đề cập đến
nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin tiêu biểu như sau:
* Các loại sách, báo, tạp chí:
- “Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung
chương trình các mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” của
Lương Gia Ban, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã khẳng định, trong
tình hình hiện nay để nâng cao chất lượng giảng dạy các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần xây dựng đội ngũ giảng viên, đổi
mới nội dung và phương pháp giảng dạy vì thế việc đổi mới nội dung chương
trình các mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao chất
lượng giảng dạy các bộ mơn này là một tất yếu.
- "Góp phần bàn thêm về khái niệm chính trị" của Hồ Tấn Sáng, Tạp
chí Sinh hoạt lý luận, số 5/1995. Tác giả đã trình bày và làm sáng tỏ khái
niệm chính trị đồng thời khẳng định với sức mạnh khoa học và cách mạng,
chủ nghĩa Mác - Lênin ln tìm thấy sức sống, sức sáng tạo của mình trong
đời sống thực tiễn cách mạng và không ngừng được bổ sung phát triển
ngày càng phong phú.



5
- "Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các trường chính trị
tỉnh" của Nguyễn Đình Trải, Tạp chí Triết học, số 1/1993. Bài viết đã khái
quát lại những nguyên tắc cơ bản để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
giảng viên Mác - Lênin, những đặc điểm cần chú ý, những kinh nghiệm,
những phương pháp khi tiến hành giảng dạy truyền đạt kiến thức về chủ nghĩa
Mác - Lênin, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước cho học viên.
- “ Triết học Mác - Lênin với việc xác định con đường và động lực đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thế Kiệt, Nxb Chính
tri quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã khẳng định những giá trị bền vững của
triết học Mác - Lênin và vai trị của nó trong việc xác định con đường và động
lực để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- "Quan hệ giữa lý luận và chính trị" của Nguyễn Thế Phấn, Tạp chí
Cộng sản, số 8 - 1992. Trên cơ sở phân tích khái niệm và mối quan hệ giữa lý
luận và chính trị, tác giả đã làm sáng tỏ bản chất, đặc trưng và vai trị của lý
luận, chính trị cũng như mối quan hệ lý luận chính trị từ đó rút ra những yếu
tố đạt được và thiếu sót của cơng tác giáo dục lý luận và tư tưởng chính trị.
- "Tư duy lý luận đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện" của Trần
Thành, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2001. Tác giả đã khẳng định trong quá
trình đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc và đúng đắn hơn chủ
nghĩa Mác - Lênin vận dụng sáng tạo vào việc hoạch định đường lối đổi mới,
trong lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện đường lối đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngồi ra cịn có những bài viết sau: "Mấy vấn đề trong công tác lý
luận" của Đỗ Nguyên Phương, Tạp chí tư tưởng văn hóa, số 7 - 1992. "Đổi
mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt" của Nguyễn Thái
Sơn, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2001. "Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính

trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong thời kỳ đổi mới" của Ngô Ngọc Thắng,


6
Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2004. "Góp phần tích cực vào việc nâng cao
chất lượng giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ đổi mới" của Trần Khắc
Việt, Tạp chí Lý luận Chính trị số 8 - 2006. "Về cơng tác giáo dục lý luận
chính trị" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội - 2007...
* Các luận văn thạc sĩ:
- Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995; "Nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong các doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay" của Trần Thị Yến Ninh. Luận văn đã có
sự đóng góp mới trong nghiên cứu thực trạng và đưa ra một số giải pháp trong
việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý sản
xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện mới đó là nền
kinh tế thị trường với sự hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới.
- Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2001, "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay" của Nông Văn
Tiềm. Luận văn đã làm rõ thực trạng vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng và đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2004, "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay" của Nguyễn Thị
Hồng Lê. Luận văn đã nghiên cứu vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Hưng Yên và đưa ra
một số giải pháp phù hợp với thực trạng trên.

- Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2006, "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,


7
quản lý chủ chốt cấp xã miền Tây Nam Bộ hiện nay (qua thực tế tỉnh Bạc
Liêu) của Tơ Hồng Hiệp. Luận văn đã có sự đóng góp mới trong nghiên cứu
thực trạng và đưa ra một số giải pháp trong việc nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã của tỉnh Bạc
Liêu.
- Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2008, "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ
chốt cấp xã người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay (qua thực tế tỉnh
Kon Tum) của Quách Thị Minh Thúy. Luận văn đã có sự đóng góp mới trong
nghiên cứu thực trạng và đưa ra một số giải pháp trong việc nâng cao trình độ
lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã của
người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
- Luận văn Thạc sĩ Triết học năm 2004; “Nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã tỉnh Hà Giang hiện nay” của
Cao Thị Hà. Luận văn đã có sự đóng góp mới trong việc đưa ra một số giải
pháp trong việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt cấp xã của tỉnh Hà Giang hiện nay.
- Luận văn Thạc sĩ Triết học năm 2009;“Vấn đề giáo dục lý luận Mác Lênin cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện
nay”, của Nguyễn Văn Ngà. Luận văn đã có sự đóng góp mới trong nghiên
cứu thực trạng và đưa ra một số giải pháp trong việc nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay.
- Luận văn Thạc sĩ Triết học năm 2010, "Nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp xã người dân tộc thiểu số của tỉnh Quảng
Nam hiện nay" của Kiều Duy Khánh. Luận văn đã nghiên cứu vấn đề nâng

cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã người dân tộc thiểu số trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam và đưa ra một số giải pháp phù hợp với thực trạng trên.


8
- Luận văn Thạc sỹ Triết học năm 2011 “Vấn đề bồi dưỡng lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp xã tỉnh Long An hiện nay” của Huỳnh Thị
Thu Năm. Luận văn đã có sự đóng góp mới trong nghiên cứu thực trạng và
đưa ra một số giải pháp trong việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ cấp xã ở Long An hiện nay đáp ứng kịp thời yêu cầu của giai đoạn
cách mạng mới.
Tất cả những luận văn trên đều khai thác nâng cao trình độ lý luận Mác
- Lênin cho các đối tượng cán bộ cụ thể khác nhau và mặc dù có nhiều cơng
trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến vấn đề lý luận Mác - Lênin và sự cần
thiết phải nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin, đồng thời phân tích vấn đề
nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin cho đội ngũ cán bộ dưới nhiều góc độ
khác nhau, đối tượng cán bộ khác nhau như: cán bộ lãnh đạo cấp huyện, cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, đội ngũ báo cáo viên... Nhưng vấn đề nâng
cao trình độ lý luận Mác - Lênin cho học viên trường chính trị ở nước ta hiện
nay (Qua thực tế trường chính trị Tơ Hiệu - Hải Phịng) vẫn chưa được nghiên
cứu. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc đối với Thành phố Hải Phịng trong việc nâng cao trình độ lý luận
Mác - Lênin cho học viên trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ vai trị, u cầu, thực trạng việc nâng cao trình độ lý
luận Mác - Lênin cho học viên trường chính trị ở nước ta hiện nay, qua khảo
sát ở trường chính trị Tơ Hiệu - Hải Phòng trong thời gian vừa qua, luận văn
đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin
cho đội ngũ này trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:


9
- Phân tích, làm rõ vai trị của lý luận Mác - Lênin đối với việc nâng cao
trình độ lý luận Mác - Lênin cho học viên trường chính trị ở nước ta hiện nay
- Phân tích rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra của việc giáo dục lý
luận Mác - Lênin cho học viên trường chính trị Tơ Hiệu - Hải Phịng hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm góp phần
nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin cho học viên trường chính trị Tơ Hiệu Hải Phịng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu những hoạt động của công tác giáo dục
lý luận Mác - Lênin cho học viên trường chính trị Tơ Hiệu - Hải Phịng hiện
nay. Họ là những cán bộ đương chức và thuộc diện quy hoạch các chức danh
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng và
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ nói chung, học viên trường
chính trị Tơ Hiệu - Hải Phịng nói riêng.
- Các chỉ thị, nghị quyết, quyết định, báo cáo, chương trình hành động, tổng
kết... của Trung ương, các cấp ủy Đảng và chính quyền thành phố Hải Phịng.
- Ngồi ra, luận văn vận dụng và kế thừa có chọn lọc những cơng trình
khoa học của các tác giả đi trước về vấn đề nâng cao trình độ lý luận Mác Lênin cho đội ngũ cán bộ nói chung.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Tác giả nghiên cứu đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa

duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp cùng các phương pháp
nghiên cứu khoa học như: Phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, lịch


10
sử và lơgíc, trừu tượng và cụ thể, điều tra xã hội học, phương pháp đối chiếu
so sánh để rút ra những kết luận cần thiết.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của lý luận đối với học viên
trường chính trị, với những nét đặc thù của việc phải nâng cao trình độ lý luận
Mác - Lênin cho học viên trường chính trị Tơ Hiệu - Hải Phịng hiện nay.
- Luận văn đánh giá một cách khách quan thực trạng nâng cao trình độ
lý luận Mác - Lênin cho học viên trường chính trị Tơ Hiệu - Hải Phịng và đề
xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin
cho học viên trường chính trị Tơ Hiệu - Hải Phịng trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của lý luận Mác - Lênin cho học
viên trường chính trị Tơ Hiệu - Hải Phịng và tính tất yếu phải nâng cao trình độ
lý luận Mác - Lênin cho đội ngũ này ở thành phố Hải Phòng hiện nay.
- Những kết luận được rút ra và giải pháp được trình bày trong luận văn
có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng học viên ở trường chính trị Tơ Hiệu - Hải Phòng và phục vụ cho việc
nghiên cứu giảng dạy ở trường chính trị của Thành phố, các Trung tâm Bồi
dưỡng chính trị Quận, Huyện, Thành phố trong công tác đào tạo, bồi dưỡng lý
luận Mác - Lênin cho cán bộ, đảng viên góp phần vào cơng tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Thành ủy, UBND thành phố Hải
Phịng nói riêng, của Đảng và Nhà nước ta nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.



11
Chương 1
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN MÁC - LÊNIN
CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. LÝ LUẬN MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN MÁC - LÊNIN
ĐỐI VỚI HỌC VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1.1. Bản chất, đặc trưng của lý luận Mác - Lênin
Lý luận có vai trị hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Mỗi bước
tiến của xã hội luôn có sự đóng góp của lý luận. Đó là những nguyên lý được
đúc kết từ những kinh nghiệm thực tiễn, có ý nghĩa phổ biến, có tác dụng giúp
con người không chỉ xác định phương hướng cho hoạt động thực tiễn mà còn
vạch đường đi cho tương lai. Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của
thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Thực tiễn đã chứng minh rằng: khi xã hội
phân chia thành giai cấp thì bất kỳ một giai cấp, một chính đảng nào muốn
giữ được địa vị thống trị xã hội thì trước hết phải nâng cao trình độ trí tuệ,
trình độ lý luận cho giai cấp mình. Do vậy nâng cao trình độ lý luận Mác Lênin có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành thế giới quan và phương pháp
luận khoa học giúp cho học viên trường chính trị nắm vững những nội dung
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng, nắm
vững được quy luật khách quan của quá trình cách mạng để xây dựng và bảo
vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin đã chỉ rõ: khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong
trào cách mạng, chỉ có chính đảng nào có được lý luận tiên phong dẫn đường
thì đảng đó mới hồn thành vai trị cách mạng tiền phong. Do đó, khi nói đến
Đảng chính trị là đồng thời nói đến hệ thống lý luận - nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng ấy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến những luận điểm cơ bản liên quan
đến khái niệm lý luận trong nhiều bài nói, bài viết. Người nêu: “Lý luận là



12
đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem
xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng
minh trong thực tế. Đó là lý luận chân chính” [47, tr.233].
Trong từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản Đà Nẵng
xuất bản năm 1977), cho rằng: “Lý luận là hệ thống tư tưởng được khái quát
từ những kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là
những kiến thức được khái quát và hệ thống hóa trong một lĩnh vực nào đó”
[59, tr.544-545]. Theo Từ điển triết học: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức
về tự nhiên và xã hội tích lũy được trong q trình lịch sử”, là “Hệ thống tư
tưởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức” [64, tr.341-342].
Trong Sổ tay thuật ngữ các môn khoa học Mác - Lênin do Trần Văn
Phòng chủ biên, Nhà xuất bản Lý luận chính trị năm 2007, cho rằng:
Lý luận (khoa học) là hệ thống những tri thức được khái quát từ
kinh nghiệm thực tiễn phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất
nhiên, mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới và
được biểu đạt bằng hệ thống các nguyên lý, khái niệm, phạm trù,
quy luật [61, tr.51].
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về lý luận nhưng tất cả các định
nghĩa trên đều có điểm thống nhất ở chỗ về bản chất: lý luận là sự khái quát
những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã
hội được tích luỹ trong q trình hoạt động lịch sử của con người; phản ánh
mối liên hệ bản chất, mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong một lĩnh
vực nào đó của hiện thực khách quan và có vai trò hướng dẫn hoạt động thực
tiễn. Trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn thì thực tiễn chính là yếu tố
cơ sở, nền tảng, quyết định sự hình thành lý luận. Mỗi bước phát triển của
hoạt động thực tiễn lại làm nảy sinh yêu cầu mới đòi hỏi phải được nghiên
cứu, khái quát và do đó được bổ sung vào lý luận những nhận thức mới. Nhờ

đó mà lý luận hoàn thiện và phát triển hơn. Ngược lại, trong mỗi hoạt động


13
thực tiễn, lý luận hướng dẫn, mở đường cho thực tiễn phát triển bằng những
tổng thể tri thức nhất định. Khơng có hoạt động thực tiễn nào đơn thuần là
kinh nghiệm cụ thể, cũng như khơng có hệ thống tri thức lý luận nào không
xuất phát từ sự tổng kết thực tiễn.
Q trình nhận thức của con người có thể khái quát lại dưới hai cấp độ:
tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận. Tri thức kinh nghiệm là những tri
thức do con người tiếp nhận trực tiếp từ việc quan sát sự vật, hiện tượng cụ
thể, khách quan; những tri thức này cịn mang tính rời rạc, bề ngồi, riêng lẻ,
ngẫu nhiên chưa mang tính chặt chẽ, sâu sắc, chưa đi sâu vào bản chất của sự
vật hiện tượng. Do đó, phạm vi áp dụng cũng như tính hướng dẫn, chỉ đạo của
tri thức kinh nghiệm thường bị hạn chế trong phạm vi hẹp. Khẳng định điều
đó, Ph.Ăng ghen viết “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó khơng bao giờ
có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” [41, tr.718]; cho nên, biện chứng
của quá trình nhận thức tất yếu vươn tới một tri thức sâu sắc hơn, bản chất
hơn, đó là tri thức lý luận.
Tri thức lý luận ở trình độ cao hơn so với tri thức kinh nghiệm. Bởi vì,
tri thức lý luận có được là dựa trên cơ sở khái quát từ những tri thức kinh
nghiệm và được nâng nên ở trình độ cao hơn, sâu sắc hơn về bản chất và quy
luật của sự vật. Chính vì vậy, phạm vi áp dụng cũng như tính hướng dẫn, cải
tạo của tri thức lý luận rộng hơn so với tri thức kinh nghiệm. Tri thức lý luận
làm cho hoạt động của con người trở lên chủ động, tự giác hơn, tránh được
tình trạng mị mẫm, tự phát trong q trình nhận thức, cũng như cải tạo tự
nhiên, cải tạo xã hội.
Do tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận có khác nhau về trình độ
nhưng giữa chúng lại có điểm chung là đều phản ánh hiện thực khách quan và
có quan hệ chặt chẽ với nhau. Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò quan trọng đối

với lý luận, là cơ sở để tổng kết khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm còn là
căn cứ để con người xem xét, bổ sung, sửa đổi và không ngừng phát triển lý


14
luận; lý luận càng chính xác, khoa học hơn nếu được xây dựng trên nhiều
kinh nghiệm thực tiễn.
Tri thức lý luận được hình thành từ sự tổng kết, khái quát kinh nghiệm
nhưng lại phải thơng qua sự trừu tượng hố, khái qt hố của tư duy; cho nên
bản thân nó chứa đựng khả năng thiếu chính xác hoặc xa rời thực tế.
Để tri thức ấy trở thành khoa học thì nó ln ln phải được kiểm
nghiệm qua thực tiễn nhằm bổ sung và hoàn thiện phù hợp với thực tiễn. Mặc
dù lý luận có nguồn gốc từ thực tiễn, nhưng sau khi ra đời nó có tính độc lập
tương đối và tác động tích cực trở lại thực tiễn; chỉ đạo, dự báo tương lai phát
triển của sự vật, định hướng hoạt động thực tiễn của con người để đạt hiệu
quả cao nhất.
Như vậy, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai cấp độ khác
nhau trong quá trình nhận thức của con người, trong đó tri thức kinh nghiệm
là căn cứ, là cơ sở để hình thành và phát triển của tri thức lý luận. Do đó, nếu
tri thức kinh nghiệm càng được tích luỹ nhiều thì càng có cơ sở vững chắc, độ
tin cậy càng cao cho sự khái quát về lý luận và lý luận chỉ thực sự là lý luận
khoa học khi nó được khái quát từ những kinh nghiệm của thực tiễn.
Do vậy, lý luận được hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống những tri thức
được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản
chất, tất nhiên, tính quy luật của sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực.
Suy cho cùng, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực khoa học cụ thể, khác nhau đều
có lý luận riêng và mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể muốn phát triển
được đều phải bắt đầu bằng việc phát triển lý luận. Trong quá trình nghiên
cứu của đề tài, tác giả luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận Mác Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là tên gọi ngay từ đầu, thuật ngữ
“Chủ nghĩa Mác” xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ XIX [80,

tr.1508]. Sở dĩ lấy tên Mác vì chính Mác là người đặt nền móng đầu tiên xây
dựng lên. Ph. Ăngghen đã viết: “Nếu khơng có Mác thì lý luận thật khó mà


15
được như ngày nay. Vì vậy, lý luận đó mang tên Mác là điều chính đáng” [45,
tr.248]. Tháng 2 năm 1848, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do
C.Mác và Ph.Ăngghen viết được xuất bản lần đầu tiên tại Ln Đơn đã đánh
dấu sự chín muồi ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác.
Giữa những năm 20 của thế kỷ XX, thuật ngữ “chủ nghĩa Mác- Lê nin”
xuất hiện ở Nga, nhấn mạnh sự kế tục xuất sắc chủ nghĩa Mác và đánh dấu
một giai đoạn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác của V.I. Lê nin trong giai
đoạn cách mạng mới. I.V.Xtalin đã nhận xét và viết: “Chủ nghĩa Lênin là chủ
nghĩa Mác trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản” là “sự phát
triển chủ nghĩa Mác trong những điều kiện mới” [84, tr.6], là hình thức cao
của chủ nghĩa Mác. Từ đó, thuật ngữ chủ nghĩa Mác - Lênin được các Đảng
cộng sản và công nhân quốc tế thừa nhận. Ở Việt Nam, vào năm 1924 người
đầu tiên và sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa Mác chính là Nguyễn Ái Quốc. Khi
vận dụng chủ nghĩa Mác vào cách mạng Việt Nam. Người đã từng nhấn
mạnh: “Dù sao cũng không thể cấm bổ sung, cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác
bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình khơng thể có
được” [52, tr.465]. Cịn thuật ngữ chủ nghĩa Mác - Lê nin thì được Người
dùng khi viết cuốn sách gối đầu giường cho những người cách mạng Việt Nam
là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin [53, tr.280]. Như vậy từ năm 1924
với sự cố gắng không mệt mỏi của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lênin đã
được truyền bá sâu rộng vào Việt Nam cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
thành nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp vô sản với tư
cách là một giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất trong lịch

sử, tất yếu phải có hệ tư tưởng, phải trang bị cho mình vũ khí lý luận trong
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giai phóng nhân loại. Lênin nói, “Chỉ
Đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm


16
tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [29, tr.32]. Hệ tư tưởng của giai cấp vơ sản
chính là chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin với ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế
chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học là một học thuyết có hệ thống lý
luận và phương pháp luận logic chặt chẽ. Những phát kiến của các nhà sáng
lập ra chủ nghĩa Mác - Lê nin về quan điểm duy vật lịch sử, lý luận về giá trị
thặng dư, vai trị sứ mệnh của giai cấp vơ sản là những phát kiến có ý nghĩa
vạch thời đại mở ra con đường đi lên của các quốc gia dân tộc và của cả nhân
loại. Những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng vô sản, của con
đường xây dựng xã hội chủ nghĩa được các ông đưa ra là những định hướng
quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước khác nhau
trên thế giới. Lý luận Mác - Lênin là cẩm nang cho các Đảng cộng sản và
những người cách mạng trong q trình suy nghĩ và tìm tịi giải pháp để giải
quyết các vấn đề lịch sử mà cuộc đấu tranh cách mạng của mỗi nước và của
thời đại đặt ra.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa những giá trị tư tưởng và văn hóa
của nhân loại đã có trước đó, là sự khái quát, đúc kết những kinh nghiệm và
tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Lý luận Mác - Lênin luôn luôn
gắn liền với thực tiễn phong trào cách mạng, thực tiễn vận động của lịch sử,
sự phát triển khoa học kỹ thuật, cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận chống lại các
học thuyết tư sản, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, cải lương. Sức mạnh
của lý luận Mác - Lênin chính là ở chỗ nó gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội,
được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Có thể thấy rằng,
C.Mác và Ph.Ăngghen khơng xây dựng học thuyết của mình theo kiểu

Hêghen, Ađam Smit hay Ricácđô, và đã đạt tới một hệ thống lý luận khoa học
về triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Hệ thống lý
luận đó khơng chỉ là quan điểm, lập trường của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin mà nó chính là thế giới quan, nhân sinh quan, quan điểm, lập trường


17
của giai cấp vơ sản trên tồn thế giới. Hệ thống lý luận ấy được mang tên Mác
- Lênin.
Do vậy chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận Mác - Lênin có nội dung
tương đồng với nhau, mặc dù khơng đồng nhất với nhau nhưng đều là học
thuyết về cách mạng vơ sản và con đường giải phóng giai cấp vô sản và quần
chúng nhân dân lao động, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa, đồng thời
khẳng định vai trò kế tục xuất sắc, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác trong
những điều kiện, hoàn cảnh cách mạng mới của Lênin. Nhiệm vụ của các
Đảng cộng sản hiện nay, ngoài việc bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, quan trọng
hơn là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh từng nước cụ
thể, đồng thời bổ sung, hoàn thiện và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, đây
cũng chính là nhiệm vụ của các bộ môn khoa học lý luận Mác - Lênin.
Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Điều
đó đã được Đảng ta khẳng định rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thơng qua tại Đại hội Đại biểu tồn
quốc lần thứ VII, năm 1991: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [11, tr.21].
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết về những quy luật chung nhất của
sự phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người, là lý luận cách mạng
của quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình ra khỏi ách áp
bức bóc lột, là khoa học về xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc

về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc
những tinh hoa của nhân loại, là tiêu biểu của sự kết hợp giữa giải phóng dân
tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người, là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội…


18
Thực tế trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta ln ln kiên trì
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hành động, đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đang đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; kinh tế tăng trưởng khá nhanh,
bước đầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đời
sống nhân dân được cải thiện đáng kể; khối đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng
lãnh đạo được củng cố và tăng cường; sức mạnh tổng hợp của đất nước được
tăng lên nhiều; vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao… Những thành tựu to lớn đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, là sáng tạo, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù
hợp với thực tiễn Việt Nam. Hiện nay, trong và ngoài nước đã và đang xuất
hiện tư tưởng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư
tưởng dao động, hồi nghi, địi xem xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta gây ra sự lo lắng, xáo trộn về mặt tư
tưởng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; Thấm nhuần sâu sắc
bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình
đổi mới, Đảng kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, làm cơ sở lý luận và phương pháp luận trong q trình
phân tích tình hình, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, lấy đó làm

cơ sở xuất phát để hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Đảng ln
khẳng định vai trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong toàn bộ sự nghiệp của cách mạng Việt Nam đó là: “Ở những bước ngoặt
của cách mạng, trước những diễn biến phức tạp của tình hình, Đảng ta kịp
thời có định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn nhận thức lệch lạc,
chống những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng trong
toàn Đảng và trong nhân dân [12, tr.136].


19
Đây cũng là những định hướng chính trị quan trọng đảm bảo cho sự ổn
định và phát triển đất nước, là điều kiện tiên quyết để chúng ta giành được
những thắng lợi to lớn trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới và cũng
là tiền đề quan trọng để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Đảng và
nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh [16, tr.83].
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X một lần nữa tiếp tục khẳng định:
Trước những khó khăn, thử thách lớn ở trong nước, những biến
động bất lợi trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trước
sự chống phá của các thế lực thù địch. Đảng ta giữ vững bản chất
cách mạng của giai cấp công nhân, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới; tiếp tục nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng [17, tr.260].
Xuất phát từ những quan điểm đó, Đảng ta ln nhấn mạnh việc học
tập, nghiên cứu, rèn luyện và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa vơ cùng quan trọng nhằm giải
quyết những vấn đề bức xúc do thực tiễn đất nước và thời đại đặt ra. Tại Đại
hội IX, Đảng đã quy định: “Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [16, tr.139]. Đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục

khẳng định việc học tập, nắm vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” [17, tr.282].
Như vậy, do việc nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, cho nên từ tiến hành cơng cuộc đổi mới đất nước đến
nay, Đảng ta nghiên cứu, khảo nghiệm và xây dựng nên bước đầu đã hình


20
thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam làm cơ sở khoa
học cho đường lối của Đảng, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Do vậy, Đảng ta luôn đưa ra
những quan điểm, chủ trương, đường lối phát triển đất nước một cách đúng
đắn, những chính sách hợp lịng dân, đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng khủng
hoảng về kinh tế - xã hội và đang từng bước đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.
Lý luận Mác - Lênin có những đặc trưng chủ yếu sau:
Một là, tính trừu tượng hố và tính khái qt hố cao
Đây là đặc trưng cơ bản của lý luận nói chung và lý luận Mác - Lênin
nói riêng. Khi đề cập đến lý luận là chúng ta liên tưởng ngay đến tính trừu
tượng và tình khái qt của nó. Tư duy là vấn đề cốt lõi của lý luận nhận thức,
nếu như khơng có quá trình tư duy thì nhận thức của con người sẽ mãi mãi chỉ
dừng lại ở nhận thức cảm tính, mặt bề ngồi của đối tượng, khơng thể hiểu
được bản chất, tính quy luật của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng nói chung. Trong q trình nhận thức, tư duy của con người luôn diễn
ra quá trình trừu tượng hố, khái qt hố những tri thức thu được về thế giới,
những quy luật vận động và phát triển của các lĩnh vực khác nhau trong đời
sống xã hội.
Trừu tượng hoá, khái quát hoá là hai quá trình có mối liên hệ chặt chẽ

với nhau khơng thể tách rời, chúng xâm nhập lẫn nhau, bổ sung cho nhau.
Nhờ đó mà con người có được những tri thức về các mối liên hệ bản chất, tính
quy luật trong sự vận động, phát triển sự vật.
Các hình thức thể hiện lý luận nói chung, lý luận Mác - Lênin nói riêng
như khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật… đều là kết quả của q trình
trừu tượng hố, khái quát hoá cao của tư duy con người trong quá trình nhận
thức thế giới và chúng được biểu đạt bằng những khía cạnh, những yếu tố


21
khác nhau nhưng chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung, hỗ trợ,
thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Nhờ đặc trưng của trừu tượng hoá, khái quát hoá cho nên lý luận nói
chung và lý luận Mác - Lênin nói riêng đã đem lại cho con người sự hiểu biết
sâu sắc về bản chất, tính quy luật, các mối liên hệ… trong sự vận động và
phát triển của sự vật hiện tượng, nó giúp con người khơng ngừng tìm tịi,
khám phá, sáng tạo ra những cái mới đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra.
Hai là, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận khoa học nói
chung và của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, lý luận thuộc về lĩnh vực hoạt động tinh thần, còn thực tiễn thuộc
về hoạt động vật chất. Trong quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất quyết
định ý thức, hoạt động vật chất quyết định đối với hoạt động tinh thần. V.I.Lênin
khẳng định: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) vì nó có ưu điểm khơng
những của tính phổ biến mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [37, tr.230].
Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động và phát
triển buộc lý luận phản ánh đời sống thực tiễn cũng phải không ngừng được
bổ sung, phát triển, đồng thời phải thường xuyên tổng kết thực tiễn nhằm làm
cho tri thức lý luận ngày càng phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn, phong
phú hơn đời sống thực tiễn. Tuy nhiên, lý luận cũng đóng vai trị tác động trở

lại tích cực đối với thực tiễn; đặc biệt là lý luận cách mạng trong cách mạng
chủ nghĩa xã hội: “Khơng có lý luận cách mạng thì khơng thể có phong trào
cách mạng” [29, tr.30]. Lý luận chính là kết quả nhận thức của con người, nó có
vai trị chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn. Do đó nếu khơng có nhận thức đúng thì
cũng khơng thể có hành động đúng. Nhờ có lý luận, hoạt động của con người trở
nên tự giác, tích cực, chủ động và tránh được tình trạng mị mẫm, tự phát.
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung
cho nhau, là điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau; diễn văn


22
khai mạc lớp học lý luận khoá I Trường Nguyễn Ái Quốc ngày 7/9/1957, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng; lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông” [50, tr.496]. Như vậy, lý luận cách mạng có vai trị to lớn trong việc
nâng cao trình độ tư tưởng, lý luận cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân,
thúc đẩy cách mạng tiến lên. Người cũng thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng
viên không ngừng học tập lý luận cách mạng và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh, nhờ nắm vững những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam, nên Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi
khó khăn thử thách, giành được nhiều thắng lợi. Vì thế, Đảng và Bác Hồ luôn
coi trọng việc bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị, coi đó là u cầu cơ bản,
không thể thiếu trong công tác xây dựng Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, việc
thường xuyên tổng kết thực tiễn ln là một địi hỏi tất yếu đồng thời là yêu
cầu quan trọng để tiếp tục nâng cao trình độ tư duy lý luận của của Đảng:
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng, thường xuyên tổng
kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do

cuộc sống đặt ra [17, tr.131].
Tổng kết thực tiễn sau 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng trong việc kiên định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và vận dụng
một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam đã đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng về kinh tế xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất kỹ
thuật được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng
được cải thiện.


23
Ba là, sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học.
Nói tới tính đảng là nói tới tính giai cấp, cịn tính khoa học là sự phản
ánh đúng thực tế khách quan, tôn trọng hiện thực, khách quan. Lý luận nói
chung và lý luận Mác - Lênin nói riêng là nhằm bảo vệ lợi ích của một giai
cấp trong một chế độ xã hội nhất định. Do đó, lý luận Mác - Lênin của giai
cấp cách mạng, giai cấp tiên tiến, giai cấp đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử
ln có khả năng đảm bảo sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống tư tưởng của giai cấp vô sản, giai cấp
đại biểu cho sự tiến bộ của thời đại, giai cấp mà lợi ích của nó phù hợp với lợi
ích của quần chúng nhân dân lao động, nó phản ánh khách quan nhu cầu và lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin đảm bảo sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học.
Trong lý luận Mác - Lênin, tính đảng và tính khoa học có mối quan hệ
biện chứng với nhau, vì thế tính đảng càng cao thì tính khoa học càng thêm
sâu sắc, tính đảng và tính khoa học là điều kiện, tiền đề tồn tại, phụ thuộc lẫn
nhau, không thể xem nhẹ, hoặc loại bỏ cái nào được. Ph.Ăngghen đã khẳng
định: “Khoa học càng được tiến hành một cách dũng cảm vơ tư thì nó càng
phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của giai cấp công nhân” [41, tr.451].
Lý luận Mác - Lênin khơng có mục đích nào khác ngồi mục đích thực

hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của một đảng cách mạng, cho nên nhiệm
vụ quan trọng của nó là định hướng cho con người nhận thức và hành động để
cải tạo thế giới. Khi đó tính khoa học là tiền đề, là cơ sở và tính đảng giữ vai
trò định hướng cách mạng để loại trừ cái cũ, cái lỗi thời lạc hậu, xây dựng cái
mới tiến bộ, hợp quy luật.
Lý luận Mác - Lênin của Đảng cộng sản Việt Nam được xây dựng trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với tổng kết
thực tiễn, có vai trị to lớn trong việc cung cấp những luận cứ khoa học nhằm
xây dựng, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới và thực hiện thắng lợi các
mục tiêu đề ra.


24
Tính đảng địi hỏi việc nghiên cứu lý luận Mác - Lênin phải xuất phát
từ tình hình cụ thể của đất nước, đưa ra những dự báo khoa học về sự phát
triển trên cơ sở đó đề ra được những giải pháp khoa học, đúng đắn để giải
quyết kịp thời, bổ sung những vấn đề mới làm cho chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước càng hồn thiện hơn, sát với thực tiễn cuộc sống. Muốn
vậy thì Đảng phải luôn luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng và đồng thời
khơng ngừng nâng cao trình độ trí tuệ, chun mơn, nghiệp vụ, trình độ lý
luận Mác - Lênin cho cán bộ đảng viên.
Như vậy, với ý nghĩa là lý luận tiên phong - lý luận Mác - Lênin giúp
cho Đảng cộng sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, nhất là trong giai
đoạn hiện nay, giai cấp cơng nhân cùng với đảng tiên phong của mình phải
kiên định giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Để làm trịn vai trị lãnh đạo
của mình, Đảng khơng ngừng bổ sung, phát triển lý luận Mác - Lênin để
không ngừng hồn thiện và đóng vai trị to lớn trong sự phát triển của xã hội.
1.1.2. Vai trò của lý luận Mác - Lênin đối với học viên trường chính
trị ở nước ta hiện nay
Học viên các trường chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm

chung là: Đều là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, có tinh thần yêu nước
sâu sắc, tận tuỵ phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối đổi mới của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư,
khơng tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý thức tổ
chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được
nhân dân tín nhiệm. Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hố,
chun mơn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ được giao.
Học viên các trường chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm
mang tính đặc thù. Họ là cán bộ đương chức hoặc thuộc diện quy hoạch cán


25
bộ nguồn được đào tạo để trở thành cán bộ chủ chốt ở cơ sở trong tương lai.
Các học viên hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nên họ có sự khác nhau về
trình độ chun mơn, kinh nghiệm, một số học viên có bằng tốt nghiệp trung
cấp, cao đẳng, cử nhân và thạc sĩ. Nhưng do điều kiện và tiêu chuẩn chung
phải là những cán bộ có phẩm chất cách mạng và bản lĩnh chính trị vững
vàng, có năng lực tổ chức thực tiễn, có lối sống giản dị, lành mạnh, có khả
năng tập hợp sự đồn kết, tập hợp quần chúng, nói đi đơi với làm, được nhân
dân tín nhiệm. Chấp hành kỷ luật của Đảng, biết vận dụng đúng đắn đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước vào thực tiễn địa phương, cơ sở, đơn vị
công tác của mình. Có năng lực tổ chức điều hành bộ máy của xã, phường, thị
trấn để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội; ổn định trật tự an ninh xã hội
và nâng cao đời sống của nhân dân. Biết tổ chức sử dụng bộ máy chuyên
môn giúp việc để tham mưu tốt và quyết định các vấn đề có tính chiến lược
cũng như xử lý cơng việc hàng ngày ở địa phương, đơn vị. Có mối quan hệ
mật thiết với quần chúng và có ý thức chăm lo đến lợi ích của nhân dân.

Gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, vận động gia đình, họ tộc cùng thực hiện. Khơng tham ơ,
tham nhũng, lãng phí của cơng. Đối với cán bộ cơ sở đồng bằng phải có
trình độ học vấn hết cấp III, cán bộ cơ sở miền núi, hải đảo ít nhất phải tốt
nghiệp cấp II. Về tuổi đời, các chức danh chủ chốt như Bí thư, Chủ tịch Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân có độ tuổi từ 35 - 40 trở lên, cấp phó và
các chức danh khác dưới 40 tuổi. Từ những tiêu chuẩn đã được cụ thể hoá
nêu trên, căn cứ vào tình hình cụ thể ở mỗi địa phương, mỗi đơn vị mà Ban
Tổ chức các quận, huyện đã tham mưu cho Ban Tổ chức Thành uỷ phối hợp
với trường Chính trị tổ chức chiêu sinh mở các lớp trung cấp chính trị - hành
chính tại các quận, huyện.
Mục đích của chương trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính là
để tạo cho học viên các trường chính trị nắm vững nội dung, tinh thần đường


×