Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị khối mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh ở hưng yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.66 KB, 86 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử cách mạng nước ta, trải qua bao thăng trầm, biến cố, song
các đoàn thể quần chúng và tổ chức xã hội ln đóng, giữ vai trị quan trọng.
Các tổ chức này đã động viên, tập hợp các tầng lớp nhân dân trong các cuộc
kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đấu tranh thống nhất nước nhà. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã có vai trị cực kỳ quan trọng
trong sự hình thành và củng cố Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Vai trò này
của các đoàn thể quần chúng đã được khẳng định rõ trong Điều 9 - Hiến pháp
năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí
về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi
hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại
biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước”.
Ngày nay, Mặt trận và các đoàn thể được coi là một trong những tổ
chức quần chúng của hệ thống chính trị quan trọng hàng đầu, khơng thể thiếu;
có vai trị tập hợp lực lượng trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để
xây dựng và phát triển đất nước. Việc phát triển mặt trận và các đoàn thể nói
chung, đội ngũ cán bộ của các đơn vị này nói riêng là một trong những cơng
tác quan trọng, then chốt của Đảng ta nhằm tạo ra một lực lượng có sức mạnh
và tài năng, đạo đức để phục vụ đất nước.
Trong những năm gần đây việc xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là
cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về
đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động
thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công



2
nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay là chủ trương và chính sách lớn trong nội
dung cơng tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta.
Cán bộ, công chức hành chính là nguồn nhân lực nịng cốt trong quản
lý và tổ chức thực hiện công việc của Đảng, Nhà nước. Hệ thống các cơ quan
nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hay không phụ thuộc vào năng lực,
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính. Do vậy, "xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ chun mơn và kỹ năng nghề
nghiệp cao, vừa giác ngộ về chính trị, vừa có tinh thần trách nhiệm, tận tụy
cơng tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thừa hành công vụ" [11, tr.132] là
nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hưng Yên là một tỉnh thuần nông của đồng bằng Bắc Bộ, trong những
năm gần đây Hưng Yên là một địa phương thu hút được rất nhiều các dự án
đầu tư trên các lĩnh vực phát triển Công nghiệp và Đô thị với những đặc thù
của nó. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, trong những năm qua, thực hiện công cuộc cải
cách hành chính, cơng tác cán bộ, Đảng bộ và chính quyền các cấp ở Hưng Yên
đã có những đổi mới, cải cách nhất định: ban hành và thực hiện nhiều chủ
trương, chính sách đào tạo, thu hút, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Tuy nhiên, việc xây dựng và phát triển một đội ngũ cán bộ, công chức
ở Hưng Yên một cách tồn diện, đồng đều vẫn cần phải có thời gian cũng như
sự phối hợp của các ban ngành, các cấp lãnh đạo và sự nỗ lực của chính đội
ngũ cán bộ, cơng chức Tỉnh. Q trình đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ,
cơng chức cịn diễn ra một cách chậm chạp và có nhiều bất cập. Vấn đề đặt
ra là phải xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức như thế nào, có những giải
pháp gì nhằm giúp cho đội ngũ cán bộ, công chức của nước ta ngày càng
phát triển toàn diện để phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
một cách hiệu quả nhất.



3
Trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
cơng chức hành chính có đủ phẩm chất, năng lực có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Vì vậy, đã có nhiều đề tài, nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Tuy
nhiên, việc xem xét cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ, công chức trong các
đơn vị khối mặt trận, đoàn thể là mảng đề tài còn thiếu và chưa được đề cập
nhiều. Đối với Hưng Yên, vấn đề này hầu như chưa được khai thác.
Từ những yêu cầu của lý luận và thực tiễn trên, hơn nữa, là người công
tác thực tiễn ở ngành đồn thể cấp huyện của tỉnh, bản thân tơi nhận thấy
cơng tác tổ chức cán bộ nói chung và cơ cấu cán bộ cơng chức khối mặt trận,
đồn thể nói riêng còn nhiều bất cập, cần được nghiên cứu để có những
khuyến nghị khoa học nhằm đổi mới căn bản về cơng tác tổ chức cán bộ. Vì
vậy, tơi chọn đề tài " Cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, cơng chức trong hệ thống
chính trị khối mặt trận, đồn thể cấp tỉnh ở Hưng n hiện nay” có tính cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn làm luận văn Thạc sỹ chuyên ngành xã hội học
để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều cơng trình, đề tài, bài viết nghiên
cứu của các nhà khoa học thuộc các ngành khoa học khác nhau nghiên cứu về
cơ cấu xã hội, trong đó phải kể đến một số cơng trình, bài viết sau:
“Phân tích cơ cấu xã hội từ giác độ xã hội học”, Tạp chí Xã hội học số
4/1992; “Bàn luận về giai tầng xã hội - cơ cấu giai tầng xã hội”, tạp chí
KHXH số 9/2007; “Biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi
mới”, Thông tin Khoa học xã hội, số 3/2010; “Cơ cấu xã hội và phân tầng xã
hội, một chặng đường 20 năm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng”, tạp chí
XHH 3/2010... của tác giả Nguyễn Đình Tấn. Đây là những bài bài viết đã
sớm khẳng định vai trò của lý thuyết cơ cấu xã hội trong nghiên cứu xã hội
học nói riêng và trong các chuyên ngành của khoa học xã hội nói chung ở Việt



4
Nam để lý giải các vấn đề xã hội về mặt cơ cấu. Cùng tác giả cịn có sách “Cơ
cấu xã hội và phân tầng xã hội”, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội,
2005. Đây là một cơng trình nghiên cứu cơng phu, đã trình bày những khái
niệm cơ bản và cách tiếp cận chủ yếu của xã hội học về cơ cấu xã hội và phân
tầng xã hội; đồng thời, tác giả cũng làm rõ việc vận dụng cách tiếp cận lý luận
xã hội học vào việc nhận thức và lý giải những vấn đề đang đặt ra trong quá
trình đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Ngồi ra, tác giả khái qt một bước của quá trình ứng dụng
lý thuyết cơ cấu xã hội vào nghiên cứu các phân hệ cơ cấu trong thời gian
qua, đưa ra giải pháp đồng bộ hơn trong xây dựng cũng như đổi mới những
mơ hình cơ cấu xã hội theo hướng tối ưu, năng động và hiệu quả hơn khi
nghiên cứu cơ cấu.
Cơng trình “Thực trạng và xu thế phát triển cơ cấu xã hội nước ta
trong giai đoạn hiện nay” của Đỗ Nguyên Phương (chủ nhiệm), đề tài cấp nhà
nước KX-07-05, Hà Nội 1995, đã cung cấp một số nội dung lý luận về thực
trạng và xu thế biến động cơ cấu xã hội giai cấp, lao động, nghề nghiệp, dân
cư, dân tộc ở nước ta. Tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ của con người Việt
Nam trong điều kiện đổi mới. Đề tài đã dự báo những biến động về mặt xã hội
của con người thông qua những biến đổi về cơ cấu xã hội giai cấp, dân số, lao
động và nghề nghiệp khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường.
Cơng trình “Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam” do Tạ Ngọc
Tấn (chủ nhiệm), đề tài khoa học cấp nhà nước mã số KX.04.14/06-10, nêu
tổng thể về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, thể hiện
trên 5 lát cắt quan trọng nhất, đó là cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội - dân tộc và cơ cấu xã hội tơn giáo. Trên cơ sở phân tích các nhân tố cơ bản tác động đến sự biến đổi cơ
cấu xã hội ở Việt Nam trong 25 năm đổi mới, đề tài đã làm nổi bật sự biến đổi


5
mạnh mẽ của cơ cấu xã hội Việt Nam trong 25 năm đổi mới. Những biến đổi

đó đã tác động cả tích cực và tiêu cực đến q trình phát triển đất nước, cụ thể
trên các mặt: kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội. Đề tài đã đưa ra những dự
báo xu hướng biến đổi cơ cấu ở xã hội Việt Nam. Đây là cơ sở rất quan trọng
cho việc định hướng các chính sách cho q trình phát triển trong giai đoạn
tiếp theo. Đó là việc chủ động tổ chức, quản lý quá trình vận động, biến đổi,
hướng tới hình thành một cơ cấu xã hội tối ưu, trên cơ sở chủ động quản lý
quá trình biến đổi các thành tố, các mối quan hệ của cơ cấu xã hội một cách
hợp lý, đến việc hạn chế thấp nhất những khả năng ảnh hưởng tiêu cực, phát
huy cao độ vai trị tích cực của các thành tố, các mối quan hệ của cơ cấu xã
hội đó trong đời sống xã hội. Cũng cùng mục tiêu với công trình này, tác giả
Nguyễn Đình Tấn “Biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”,kỷ
yếu hội thảo quốc tế “Biến đổi xã hội Việt Nam Ba Lan”, Hà Nội tháng
12/2011cũng làm sáng tỏ sự biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam sau 25 năm đổi
mới theo nhiều chiều cạnh khác nhau.
Trong cơng trình “Một số vấn đề cơ bản về biến đổi cơ cấu xã hội ở
Việt Nam giai đoạn 2011-2020” Đỗ Thiên Kính (Chủ biên), thực trạng biến
đổi của cơ cấu xã hội nước ta được phân tích theo một số chiều cạnh: sự biến
đổi của cơ cấu nghề nghiệp, di động xã hội và phân hố xã hội. Phân tích mối
quan hệ và các yếu tố tác động đến sự biến đổi của các giai cấp và tầng lớp,
xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội, thái độ của các nhóm xã hội khác nhau
về mục tiêu và định hướng phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở
nước ta trong giai đoạn 2011-2020.
Trong Luận án Phó tiến sĩ (Hà Nội,1996) “Cơ cấu xã hội của đội ngũ sĩ
quan trung, sơ cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam - thực trạng và xu
hướng biến đổi” và bài viết “Suy nghĩ về thực trạng cơ cấu xã hội - giai cấp
và phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay”, tạp chí Quốc phịng tồn dân số


6
2/2001, tác giả Phạm Xuân Hảo đã làm rõ thực trạng, nguyên nhân, xu hưóng

biến đổi cơ cấu xã hội của đội ngũ sĩ quan và trình bày khái quát kết cấu giai
cấp, thực trạng phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo ở nước ta; từ đó đưa ra
kiến nghị với công tác quản lý xã hội một cách hài hòa hơn nhằm thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Bài viết “Về quá trình vận động và biến đổi cơ cấu xã hội tầng lớp trí
thức Việt Nam” của Nguyễn Duy Q, tạp chí XHH số 3/1989 khẳng định vai
trị to lớn của tầng lớp trí thức trong q trình giữ nước và dựng nước; tác giả
cũng đã chỉ ra những mặt hạn chế của tầng lớp này, chưa đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
Trong bài viết “Nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam từ hướng tiếp
cận cơ cấu xã hội - một số vấn đề đáng quan tâm” Tạp chí XHH số 1/1992,
tác giả Nguyễn Hữu Minh đã vận dụng cách tiếp cận cơ cấu xã hội của XHH
trong nghiên cứu giai cấp công nhân nước ta; phác hoạ bức tranh xã hội của
giai cấp công nhân với những đặc trưng về số lượng và chất lượng; đồng thời
phân tích các nhóm xã hội bên trong giai cấp công nhân và mối quan hệ giữa
các nhóm, để chỉ ra tính cơ động xã hội của giai cấp cơng nhân.
Cơng trình “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt
trong đổi mới hệ thống chính trị” của tác giả Trần Xuân Sầm (chủ nhiệm) đề
tài KX.05-11 (Tổng luận nghiên cứu) Hà Nội 1994, đã đưa ra những luận cứ
khoa học về thực trạng cơ cấu và chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị, chỉ ra nguyên nhân và bài học kinh
nghiệm trong cơng tác cán bộ. Đồng thời, cơng trình dự báo sự biến động cơ
cấu, tiêu chuẩn, số lượng, chất lượng và đề xuất một số phương hướng, giải
pháp cơ bản có tính hệ thống để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo đáp ứng
yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
"Về thực trạng và xu hướng chuyển đổi cơ cấu xã hội nông thôn đồng


7
bằng Bắc Bộ hiện nay" của tác giả Tô Duy Hợp, Tạp chí Xã hội học số

4/1990 là bài viết tóm tắt những đặc điểm và xu hướng chủ yếu chuyển đổi từ
cơ cấu xã hội nông thôn kiểu cũ sang cơ cấu xã hội nông thôn kiểu mới qua
kết quả điều tra xã hội học ở đồng bằng Bắc Bộ trong 10 năm (1980 - 1990),
nhất là từ sau Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1/1981). Qua bài
viết, tác giả đưa ra ba trình độ chuyển đổi cơ cấu xã hội ở nông thôn, như:
vượt trội, chủ động; trung bình và nghèo khổ, thụ động (theo phân tích, tổng
hợp thơng tin từ làng xã và hộ gia đình). Đồng thời, tác giả khẳng định: cơ
cấu xã hội nông thôn trong bối cảnh chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa bị phân tán và dần hình thành tháp
phân tầng xã hội vượt trội - yếu kém, giàu có - nghèo khổ.
Cơng trình “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức” tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn Thị Minh Phương, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 2005, đã xác định hệ thống các yêu cầu, tiêu chuẩn của cán
bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của một Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân và vì dân.
Lê Ngọc Hùng “Biến đổi xã hội ở Việt Nam qua một số kết quả điều tra
mức sống hộ gia đình”, kỷ yếu hội thảo quốc tế “Biến đổi xã hội Việt Nam Ba
Lan”, Hà nội 12/2011. Với cách tiếp cận cơ cấu xã hội, tác giả đã cho thấy rõ
một số chiều cạnh biến đổi xã hội thể hiện ở các nhóm hộ gia đình phân theo
thu nhập. Bài viết chỉ ra rằng những biến đổi xã hội như là biến đổi trong cách
chi tiêu cho giáo dục - đào tạo, biến đổi cơ hội giáo dục - đào tạo đang có tác
động tích cực tới biến đổi kinh tế.
Nghiên cứu về cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ của Bình Phước có luận
văn “Cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ, cơng chức các Ban Đảng cấp tỉnh ở Bình
Phước - thực trạng và xu hướng biến đổi” của tác giả Dương Thanh Huân, năm
2011. Luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận và phân tích thực trạng cơ cấu đội
ngũ cán bộ, công chức các Ban Đảng dưới cách tiếp cận của xã hội học, đưa ra


8

những luận cứ khoa học dự báo xu hướng biến đổi trong thời gian tới.
Trong các bài viết và công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến chủ đề
cơ cấu xã hội dưới góc độ xã hội học. Tuy nhiên, việc nghiên cứu cơ cấu xã
hội của đội ngũ cán bộ, cơng chức trong hệ thống chính trị, cụ thể khối mặt
trận, đoàn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên chưa có tác giả nào nghiên cứu. Do đó, tác
giả chọn nghiên cứu vấn đề nêu trên là không trùng lặp với các cơng trình đã
kể trên. Song trong luận văn, tác giả có kế thừa, tiếp nhận những thơng tin,
kết quả khoa học đã có và hy vọng bổ sung thơng tin, góp phần làm phong
phú thêm “bức tranh” về cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ, cơng chức trong
hệ thống chính trị của tỉnh Hưng n; đề xuất được một số giải pháp xây
dựng đội ngũ cán bộ cơng chức tỉnh Hưng n có cơ cấu xã hội hợp lý, đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu một số vấn đề lý luận về cơ cấu xã hội, phân tích
thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, cơng
chức khối mặt trận, đồn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên hiện nay, đề tài khuyến
nghị một số giải pháp xây dựng cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, cơng chức khối
mặt trận, đồn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng
và phát triển ở tỉnh Hưng Yên thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, công chức
khối mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh.
Đánh giá thực trạng cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, công chức trong khối
mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên.
Phân tích những vấn đề đặt ra về cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, công
chức trong khối mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên hiện nay.


9

Một số giải pháp xây dựng cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, cơng chức
trong khối mặt trận, đồn thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Hưng Yên thời gian tới.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ, cơng chức
các cơ quan khối mặt trận, đồn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên.
- Khách thể nghiên cứu: Cán bộ, cơng chức các cơ quan khối mặt trận,
đồn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên.
- Phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ của đề tài này, tác giả chỉ hướng vào nghiên cứu cơ
cấu xã hội của đội ngũ cán bộ, cơng chức khối mặt trận, đồn thể cấp tỉnh ở
Hưng Yên.
Cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan Khối Mặt trận
đoàn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên được xác định cụ thể là: Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động, Đồn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ,
Hội Nơng dân, Hội Cựu chiến binh.
+ Về không gian nghiên cứu: tại tỉnh Hưng Yên.
+ Về thời gian nghiên cứu: thực hiện trong năm 2013.
Đề tài tập trung trả lời những câu hỏi nghiên cứu sau:
- Thực trạng cơ cấu xã hội của cán bộ, cơng chức khối mặt trận, đồn
thể cấp tỉnh ở Hưng Yên hiện nay như thế nào?
- Cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, công chức cấp tỉnh ở Hưng n hiện
nay có gì bất cập khơng, đã đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của mặt
trận, đoàn thể cấp tỉnh chưa?
- Cần thực hiện những giải pháp nào để xây dựng cơ cấu đội ngũ cán
bộ, cơng chức khối mặt trận, đồn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên một cách hợp lý
và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay?


10

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng
Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
cán bộ; các lý thuyết và phương pháp luận nghiên cứu Xã hội học về cơ cấu
xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể (3 phương pháp)
1. Phương pháp phân tích tài liệu, số liệu thống kê về đội ngũ cán bộ,
công chức khối Mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên.
2. Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân: phỏng vấn sâu 21 trường hợp,
6 cán bộ lãnh đạo, quản lý khối Mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên; 10
cán bộ, cơng chức cơ quan Mặt trận, đồn thể; 5 cán bộ, công chức khối cơ
quan khác.
3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, trưng cầu ý kiến: với tổng số
162 cán bộ, cơng chức khối Mặt trận, đồn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên (100%
cán bộ công chức khối mặt trận, đoàn thể).
6. Giả thuyết nghiên cứu, các biến số và khung phân tích
6.1. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, cơng chức khối mặt
trận, đồn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên hiện nay chưa thật hợp lý, còn những
bất cập về độ tuổi, nguồn cán bộ kế cận, giới tính, trình độ học vấn và
trình độ lý luận chính trị.
Giả thuyết 2: Cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, cơng chức khối mặt trận,
đồn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên hiện nay chưa đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ
chính trị của cơ quan Mặt trận, đồn thể cấp tỉnh.
- Giả thuyết 3: Sự phân hóa về mặt mức sống Trong đội ngũ cán bộ,
công chức khối mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên chưa thật sự rõ nét.


11

6.2. Các biến số
* Biến độc lập:
- Đặc trưng nhân khẩu - xã hội thuộc của cá nhân và gia đình.
- Cơng tác quy hoạch đào tạo cán bộ, cơng chức ở khối Mặt trận, đoàn
thể cấp tỉnh ở Hưng Yên.
- Yêu cầu về đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan Mặt trận, đoàn
thể cấp tỉnh ở Hưng Yên.
* Biến phụ thuộc:
- Cơ cấu giới tính.
- Cơ cấu vị trí (lĩnh vực - cấp bậc)cơng tác.
- Cơ cấu trình độ(chun mơn - chính trị)
- Cơ cấu về mức sống, thu nhập
* Bối cảnh kinh tế - xã hội:
- Quan điểm, chính sách về cán bộ, cơng chức của Đảng, Nhà nước và
của tỉnh Hưng Yên.
- Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên.


12
6.3. Khung phân tích
Quan điểm, chính sách về cán bộ, công
chức của Đảng, Nhà nước và của tỉnh
Hưng Yên

Cơ cấu về giới
tính

Đặc trưng nhân khẩu xã hội thuộc về
cá nhân và gia đình
Cơ cấu

xã hội

Cơng tác quy hoạch,
đào tạo

của đội ngũ
cán bộ, cơng
chức khối
mặt trận
đồn thể

u cầu về đội ngũ
cán bộ, cơng chức của
các cơ quan MT, đồn
thể cấp tỉnh ở HY

Cơ cấu vị
trí(lĩnh vực - cấp
bậc) cơng tác

Cơ cấu trình độ
(Chun mơn Chính Trị)

Cơ cấu về mức
sống, thu nhập

Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh
Hưng Yên

Những vấn đề

đặt ra về cơ
cấu xã hội đội
ngũ cán bộ,
công chức
khối mặt trận,
đoàn thể cấp
tỉnh ở Hưng
Yên


13
7. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn
- Đề tài góp phần hồn thiện những quan điểm lý luận, các lý thuyết xã
hội học về cơ cấu xã hội.
- Cung cấp số liệu, chứng cứ khảo sát thực trạng của đội ngũ cán bộ các
cơ quan khối Mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh trong việc tham mưu cho cấp ủy chỉ
đạo kịp thời, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức cán bộ, góp phần xây dựng
đội ngũ cán bộ, cơng chức khối Mặt trận, đồn thể của tỉnh Hưng Yên chất
lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


14
Chương 1
CƠ CẤU XÃ HỘI CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CƠNG CHỨC
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP TỈNH (KHỐI MẶT TRẬN, ĐOÀN THỂ)
- TIẾP CẬN LÝ LUẬN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN


1.1.1. Cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội là khái niệm được nhiều ngành khoa học xã hội và nhân
văn nghiên cứu: Triết học, chính trị học, sử học, Dân tộc học, Xã hội học…
Tùy theo đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu mà mỗi
khoa học có quan niệm và cách tiếp cận khác nhau về cơ cấu xã hội.
Trong khoa học xã hội học, cơ cấu xã hội là khái niệm cơ bản, then
chốt; phân tích cơ cấu xã hội là phương pháp tiếp cận đặc thù trong nghiên
cứu về các hệ thống xã hội. Vì thế trong lý thuyết của mình các nhà xã hội
học đều bàn đến khái niệm cơ cấu xã hội.
Xuất phát từ luận điểm, xã hội là tổng hòa các đoàn thể xã hội, các
đoàn thể xã hội được sắp xếp theo một trật tự nhất định trong hệ thống xã hội
và giữa chúng có sự lệ thuộc vào nhau. J. H. Fischer, nhà xã hội học người
Mỹ đã cho rằng: “Cơ cấu của một xã hội liên hệ đến sự sắp đặt những thành
phần hoặc những đơn vị của xã hội đó. Nếu chúng ta nhìn xã hội toàn diện
như một hỗn hợp những đoàn thể chủ yếu, chúng ta sẽ nhận thấy những thành
phần chính đó đều được đặt trong một tương quan có thứ tự là lệ thuộc tương
hỗ với nhau” [19, tr.96]. Khi nghiên cứu cơ cấu xã hội phải xem xét cả “sắc
thái tĩnh” và “sắc thái động” của nó, hai sắc thái trên luôn liên kết với nhau.
“Ngay cả khi nghiên cứu về sắc thái gọi là “tĩnh” của những cơ cấu xã hội,
chúng ta phải hiểu rằng cơ cấu luôn luôn “chuyển động” đối với thời gian, với
chiều hướng và với những con người trong những cơ cấu ấy” [19, tr.96].


15
Giáo sư G.V. Oxipov, nhà xã hội học người Nga cho rằng:
Cơ cấu xã hội là toàn thể các mối liên hệ tương hỗ ổn định giữa các yếu
tố trong một hệ thống xã hội. Những cộng đồng xã hội (các giai cấp, dân tộc,
tập đồn chính trị, nghề nghiệp, tập đoàn dân cư, tập đoàn theo lãnh thổ, v.v.)
là những yếu tố của cơ cấu xã hội, còn các mối liên hệ là các quan hệ xã hội

quy định bởi địa vị và vai trò mỗi cộng đồng xã hội trong hệ thống của tất cả
các quan hê xã hội. Phương diện xã hội của bất cứ yếu tố cơ cấu nào đều tập
trung vào các mối liên hệ của nó với những quan hệ sản xuất và quan hệ giai
cấp trong xã hội [6, tr.507].
GS. TS Nguyễn Đình Tấn, Viện Xã hội học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm về cơ cấu xã hội như sau:
Cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ
thống xã hội nhất định - biểu hiện như là sự thống nhất tương đối bền vững
của các nhân tố, các mối liên hệ, các thành phần cơ bản nhất của hệ thống xã
hội, những thành phần này tạo ra bộ khung cho tất cả các xã hội loài người.
Những thành tố cơ bản nhất của cơ cấu xã hội là nhóm, vai trị, vị thế xã hội,
mạng lưới xã hội và các thiết chế [56, tr.117].
Quan niệm này đã chỉ ra rằng: Thứ nhất, cơ cấu xã hội là kết cấu và
hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội nhất định [56, tr.117]. Nó
cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa cơ cấu xã hội và hệ thống xã hội, giữa cái
bộ phận và cái tổng thể. Thứ hai, cơ cấu xã hội là sự thống nhất tương đối bền
vững của các nhân tố, các mối quan hệ, các thành phần cơ bản của một hệ
thống xã hội nhất định [56, tr.118].Quan niệm này khắc phục được cách nhìn
phiến diện khi quy cơ cấu xã hội vào các quan hệ xã hội, vừa khắc phục được
cách nhìn tách rời giữa cơ cấu xã hội và các quan hệ xã hội. Thứ ba, coi cơ
cấu xã hội là “bộ khung”, “bộ dàn” để xem xét xã hội [56, tr.119]. Việc đưa ra
quan niệm cơ cấu xã hội là cơ sở cho việc phân tích hệ thống xã hội dưới cái


16
nhìn xã hội học về cơ cấu xã hội. Thứ tư, xác định nhóm xã hội là thành tố cơ
bản, là đơn vị phân tích để hiểu được cơ cấu xã hội. Đây là nét riêng biệt và là
điểm khác biệt trong quan niệm xã hội học về cơ cấu xã hội so với các quan
niệm trước đó.
Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác của các nhà xã hội học thế giới

và Việt Nam về cơ cấu xã hội. Song tựu chung lại, khi bàn đến cơ cấu xã hội
với tính cách là một khái niệm cơ bản của xã hội học, các nhà xã hội học này
thường đề cập đến các nội dung sau đây: Một là, cơ cấu xã hội là kết cấu xã
hội (cấu trúc xã hội) của hệ thống xã hội. Hai là, cơ cấu xã hội là sự sắp đặt,
thang bậc của các yếu tố, các thành phần xã hội cấu thành hệ thống xã hội (về
nội dung này, các nhà xã hội học có những quan niệm khác nhau, hoặc là
thành phần xã hội, hoặc là yếu tố xã hội, hoặc là nhóm xã hội,…). Ba là, nói
đến CCXH là nói đến cơ chế của các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các
yếu tố, các thành phần của hệ thống xã hội; sự liên hệ ấy tạo nên tính quy luật
tích hợp của mỗi hệ thống xã hội. Bốn là, CCXH luôn trong trạng thái vận
động, biến đổi.
1.1.2. Khái niệm Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một trong những khái niệm phản ánh đặc trưng
của những quan hệ quyền lực chính trị; cũng như các bộ phận, các nhân tố
tham gia vào các q trình, quy trình chính trị trong thể chế chính trị dân chủ
hiện đại. Có thể hiểu hệ thống chính trị theo một số nội dung cơ bản sau: Hệ
thống chính trị là tổng thể các tổ chức chính trị của xã hội được chính thức
thừa nhận về mặt pháp lý nhằm thực hiện quyền lực chính trị của xã hội đó;
Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức mà thơng qua đó giai cấp thống trị
thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội; Hệ thống chính trị là một cơ cấu, tổ
chức bao gồm đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội tồn
tại và hoạt động trong khn khổ pháp luật hiện hành nhằm duy trì, bảo vệ, và
phát triển xã hội đó…


17
Từ các cách hiểu về hệ thống chính trị nêu trên, có thể xem hệ thống
chính trị là (tồn bộ các thiết chế chính trị như tổ chức Đảng, chính quyền,
các đoàn thể nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất
định và gắn bó hữu cơ với nhau nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự

quản lý của Nhà nước và phát huy quyền dân chủ của nhân dân) [59, tr.10].
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội nơng
dân, Tổng liên đồn lao động Việt nam, Hội Phụ nữ, Hội cựu chiến binh,
Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
1.1.3. Cán bộ, cơng chức khối mặt trận, đồn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên
1.1.3.1. Cán bộ, công chức
Khái niệm công chức được đề cập tại Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng
5/1950 của Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về Quy chế công chức.
Năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 169/NĐ-HĐBT quy
định về công chức nhưng chỉ nêu khái niệm, vì vậy trên thực tế Nghị định này
chưa được hướng dẫn thi hành. Năm 1998, ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công
chức. Cán bộ công chức được quy định tại Pháp lệnh là công dân Việt Nam,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Năm 2003 Pháp lệnh cán bộ công chức được sử đổi bổ sung, các Nghị
định hướng dẫn đã cụ thể hóa cán bộ, cơng chức thành tám loại đối tượng với
những dấu hiệu khác nhau, từ đó có thể phân biệt “ cán bộ” với “công chức”.
Hiện nay theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (có hiệu
lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010), Khái niệm cán bộ, công chức được xác
định như sau:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - cã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực


18
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), cấp huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Công chức là công dân Việt nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm và ngạch,

chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan, qn nhân chun nghiệp,
cơng nhân quốc phịng, trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Đối với công chức trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập thì lương được đảm bảo từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [48, tr.3].
Tiếp sau Luật Cán bộ, công chức 2008 thì Luật Viên chức đã được ban
hành năm 2010 để điều chỉnh đối tượng là viên chức trong đơn vị sự nghiệp
công lập. Như vậy, đội ngũ cán bộ, công chức do Luật Cán bộ, công chức
điều chỉnh so với đội ngũ viên chức sự nghiệp công lập ít hơn rất nhiều. Đây
là đối tượng của quản lý cán bộ , công chức của cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội các cấp.
1.1.3.2. Cán bộ, cơng chức khối mặt trận, đồn thể
cấp tỉnh ở Hưng Yên
Khối mặt trận, đoàn thể ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, bao gồm 6 cơ quan:
Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Mặt trận Tổ quốc, Hội cựu chiến
binh, Hội chữ thập đỏ, Hội nông dân. Các cơ quan, đơn vị này có chức năng,
nhiệm vụ riêng:
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống


19
chính trị của Nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện
ý chí, nguyện vọng tập hợp khối đại đồn kết toàn dân, nơi hiệp thương, phối
hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Nhiệm vụ của Ủy ban Mặt

trận Tổ quốc được quy định tại Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Tập
hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị
và tinh thần trong nhân dân. Tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy
quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
- Liên đoàn Lao động tỉnh, trực thuộc tổng liên đoàn Lao động Việt
Nam - một tổ chức chính trị, xã hội rộng lớn của giai cấp cơng nhân, đội
ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập
hợp, đồn kết lực lượng, xây dựng giai cấp cơng nhân cơng nhân Việt
Nam lớn mạnh về mọi mặt, có tính chất giai cấp của giai cấp cơng nhân
và tính chất quần chúng, có chức năng: Đại diện bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của cơng nhân, viên chức, người lao động.
Tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội, tham gia kiểm tra,
giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội, tham
gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế,
giáo dục, động viên công nhân, viên chức, người lao động phát huy quyền
làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ln ln trung thành với lợi ích
của giai cấp công nhân và của dân tộc, đồng thời phát huy truyền thống đoàn
kết quốc tế, tăng cường và mở rộng hợp tác với cơng đồn các nước, các tổ
chức quốc tế trên ngun tắc hữu nghị, đồn kết, bình đẳng, hợp tác cùng có
lợi, phấn đấu cho mục tiêu: Vì lợi ích người lao động, vì hịa bình, dân chủ,


20
độc lập dân tộc, phát triển và tiến bộ xã hội.
- Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội
của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đồn bao gồm những thanh niên tiên

tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Được xây dựng, rèn luyện và trưởng thành qua các thời kỳ đấu tranh
cách mạng, Đồn đã tập hợp đơng đảo thanh niên phát huy chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ mới,
Đoàn tiếp tục phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và bản chất
tốt đẹp của mình, kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ
cho Đảng; tổ chức động viên đoàn viên, thanh niên cả nước đi đầu trong sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
- Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp
rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam.
Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên
đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN (Hiệp
Hội các nước Đông Nam Á). Hội tham gia tích cực trong các hoạt động vì hồ
bình, đồn kết hữu nghị giữa các dân tộc và tiến bộ xã hội trên tồn thế giới.
Mục đích của Hội là hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ,
chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ.
Từ những tổ chức tiền thân cho đến Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Hội đoàn kết các
tầng lớp phụ nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung


21
hậu, đảm đang, tài năng, trí tuệ góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng,
văn minh.
Hội có chức năng đại diện, bảo vệ quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích

hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản
lý Nhà nước và đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, giáo dục, vận động, tổ chức
hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Hội Nông dân tỉnh: Là đơn vị trực thuộc Hội Nông dân Việt Nam. Hội
Nơng dân Việt Nam là đồn thể chính trị - xã hội của giai cấp nông dân do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội Nông dân
Việt Nam là trung tâm, nịng cốt cho phong trào nơng dân và cơng cuộc xây
dựng nơng thơn mới.
Mục đích của Hội là tập hợp đồn kết nơng dân, xây dựng giai cấp
nông dân vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng tin cậy trong khối
liên minh vững chắc cơng, nơng, trí, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn.
Hội Nông dân Việt Nam tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động, xây dựng Hội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành
động; nâng cao vai trò đại diện, phát huy quyền làm chủ, bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân.
- Hội Cựu chiến binh Việt Nam là một đồn thể chính trị - xã hội, thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là một cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp, pháp


22
luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội.
Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ
Cựu chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”,

tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng,
xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của Cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ
nhau trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.
Hội Cựu chiến binh Việt Nam có chức năng đại diện ý chí, nguyện
vọng và quyền lợi chính đáng, hợp pháp của Cựu chiến binh. Hội làm tham
mưu giúp cấp uỷ Đảng và làm nòng cốt tập hợp, đoàn kết, vận động Cựu
chiến binh thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của cách mạng, của Hội;
tham gia giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ
viên chức Nhà nước.
Như vậy, cán bộ, công chức khối mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh ở Hưng
Yên được hiểu là những người hiện đang công tác tại các cơ quan, đơn vị
trong khối mặt trận, đoàn thể; cán bộ gắn với tiêu chí được bầu
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm
kỳ, cịn cơng chức gắn với tiêu chí được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh theo chuyên môn, nghiệp vụ trong
các cơ quan, đơn vị thuộc khối mặt trận đoàn thể.
1.1.4. Cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ, công chức khối mặt trận,
đoàn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên
Các cơ quan khối mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh là các tổ chức chính trị xã hội có mối liên hệ mật thiết với cơ quan khối đảng. Dựa trên cơ cấu tổ
chức bộ máy, quyền hạn, các cơ quan khối mặt trận, đồn thể thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình. Quan hệ giữa các Ban Đảng với Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể, với thường trực hội đồng nhân dân và lãnh đạo uỷ ban nhân


23
dân tỉnh là quan hệ phối hợp. Khi triển khai thực hiện nhiệm vụ tham mưu có
gắn với cơng tác Mặt trận Tổ quốc và có liên quan tới cơng tác quản lý nhà
nước thì các cơ quan tham mưu giúp việc tỉnh uỷ phối hợp với thường trực hội
đồng nhân dân, lãnh đạo uỷ ban nhân dân; các cơ quan Đảng, Nhà nước phối

hợp, tạo điều kiện, hỗ trợ lẫn nhau để cùng hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Xem xét cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ, cơng chức khối mặt trận,
đồn thể cấp tỉnh bao gồm các nhóm cán bộ, cơng chức với vị trí, vai trò,
khác nhau trong trong các cơ quan, đơn vị trực thuộc khối mặt trận, đoàn thể
cấp tỉnh; xem xét cơ cấu xã hội đội ngũ cán bộ, công chức của từng cơ quan:
Mặt trận Tổ quốc, Liên đoàn Lao động, Đồn Thanh niên, Hội Nơng dân, Hội
Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh; xem xét mối liên hệ giữa các nhóm cán bộ, công
chức trong từng cơ quan và giữa các cơ quan với nhau.
Các nhóm cán bộ, cơng chức này được xác định theo các dấu hiệu
chung của nhóm xã hội, với những vị trí, vai trị khác nhau trong mỗi cơ quan.
Số lượng, trình độ của các thành viên trong các nhóm này được quy định bởi
yêu cầu nhiệm vụ của từng tổ chức, bộ máy cơ quan.
Do vậy, cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ, công chức khối mặt trận,
đoàn thể cấp tỉnh là kết cấu bên trong của hệ thống các cơ quan khối mặt
trận, đoàn thể, là yếu tố cấu thành “bộ khung”, là cấu trúc các thành tố hợp
thành của bộ máy các cơ quan mặt trận, đồn thể. Nó tạo nên hoạt động ăn
khớp giữa các bộ phận trong hệ thống cơ quan mặt trận, đồn thể cấp tỉnh.
Phân tích cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ, công chức này cần bám sát
các dấu hiệu như: cơ cấu giới tính, độ tuổi; thành phần xuất thân; trình độ đào
tạo (bao gồm cả trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị); cơ cấu về mức
sống (được xác định theo mức thu nhập chủ yếu).
Phân tích cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ, cơng chức khối mặt trận,
đồn thể cấp tỉnh ở Hưng Yên có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng tổ


24
chức, bộ máy các cơ quan mặt trận, đoàn thể vững mạnh, hoàn thành tốt chức
năng, nhiệm vụ theo quy định, Điều lệ của các cơ quan khối mặt trận, đồn
thể. Việc phân tích này cũng có một ý nghĩa nhất định vì nó liên quan đến
cơng tác tổ chức bộ máy, nhằm đảm bảo chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ

quan, cũng như việc quan hệ phối hợp công tác trong nội bộ cơ quan mặt trận,
đoàn thể. Điều này cũng đã được Nghị quyết số 42 của Bộ chính trị yêu cầu là
“đảm bảo sự đồng bộ về cơ cấu” trong tổ chức, bộ máy mỗi cơ quan nhằm
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ.
1.2. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VÀ MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG,
NHÀ NƯỚC TA VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ

1.2.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
công tác cán bộ
Tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh về cán
bộ, cơng tác cán bộ được khái quát trên những nội dung cơ bản sau:
Một là,cán bộ là gốc của cách mạng, cán bộ tốt thì cách mạng thành
cơng; người cán bộ phải vừa có đức, vừa có tài.
C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin xác định, những người cán bộ phải là
những người cộng sản, những lãnh tụ, những người đi đầu trong cuộc đấu
tranh vì nhân dân lao động.
Một mặt, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các
dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích khơng phụ
thuộc vào các dân tộc và chung cho tồn thể giai cấp vơ sản; mặt khác, trong
giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản, họ
luôn luôn đại biểu cho lợi ích của tồn bộ phong trào [38, tr.29].
Thường thường, trong phần nhiều các trường hợp, hay ít ra trong những
nước văn minh hiện nay thì các giai cấp đều do các chính đảng lãnh đạo; rằng


25
thơng thường thì các chính đảng đều nằm dưới quyền lãnh đạo của những
nhóm ít nhiều có tính chất ổn định, gồm những người có uy tín nhất, có ảnh
hưởng nhất, có kinh nghiệm nhất, được bầu ra giữ những trách nhiệm trọng

yếu nhất và người ta gọi là các lãnh tụ [7, tr.30].
Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống
trị nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ
chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào…[30, tr.473]. Theo Lênin, muốn lật đổ chế độ cũ, giành chính
quyền, giai cấp vơ sản cần phải xây dựng được cho mình một đội ngũ
những cán bộ "chuyên nghiệp", "tâm huyết" và phải “thơng thạo mọi việc”.
Vì lẽ, "Chính trị là một khoa học và một nghệ thuật không phải từ trên trời
rơi xuống, mà đòi hỏi một sự cố gắng, rằng giai cấp vô sản muốn thắng giai
cấp tư sản phải đào tạo lấy "những nhà chính trị giai cấp" thực sự của
mình, những nhà chính trị vơ sản và khơng thua kém các nhà chính trị của
giai cấp tư sản" [7, tr.80-81].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ là một
nội dung cốt lõi. Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trị của cán bộ cách mạng.
Người coi "cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [40, tr.269, 273]. Vì vậy, người cán bộ
cách mạng phải vừa có đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc. Hồ Chí Minh cho
rằng: có tài mà khơng đức thì có hại cho nước, có đức mà khơng có tài thì như
ơng bụt ngồi trong chùa khơng giúp ích gì cho đời. Người cán bộ phải trung
thành với Đảng, với Tổ quốc, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, vừa là
người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ trung thành của nhân dân”, là “cơng
bộc” của dân; có năng lực tổ chức thực hiện đường lối, biến nghị quyết, chủ
trương thành hiện thực trong cuộc sống; người cán bộ phải có phong cách tốt,
“nói đi đơi với làm”, sâu sát thực tế và phải luôn học hỏi (cả trong quần


×