Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Năng lực tranh tụng của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố tại phiên toà hình sự ở tỉnh kiên giang (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.83 KB, 110 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh tụng khơng phải là vấn đề mới trong khoa học pháp lý. Tư tưởng
về tranh tụng xuất hiện từ thời cổ đại và được coi là một trong những nguyên
tắc cơ bản của tố tụng hình sự (TTHS). Cùng với thời gian, tư tưởng tranh
tụng đã được bổ sung hoàn thiện và trở thành một trong những nguyên tắc cơ
bản trong tố tụng của nhiều nước trên thế giới. Ngày nay, ở nhiều nước, tranh
tụng được coi là một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ dân chủ, tiến
bộ trong hoạt động tư pháp của mỗi quốc gia.
Ở nước ta hiện nay, cịn có nhiều nhận thức khác nhau về tranh tụng, có
ý kiến khơng thừa nhận tranh tụng là một nguyên tắc trong TTHS. Nhìn
chung, các quan điểm này hoặc là có sự nhầm lẫn giữa nguyên tắc tranh tụng
và mơ hình tranh tụng hoặc khơng thừa nhận tính quy luật, tính khách quan
của nguyên tắc tranh tụng để đi đến lập luận cho rằng tranh tụng không phù
hợp với điều kiện nước ta hiện nay.
Qua thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật có thể nói rằng Bộ luật Tố
tụng hình sự (BLTTHS) hiện nay đã có những sửa đổi bổ sung quan trọng về
nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tồ. Đây có thể coi là một bước đột
phá quan trọng trong hoạt động cải cách tư pháp ở nước ta.
Cải cách tư pháp được coi là một bộ phận, một nội dung cơ bản của
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tại
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới” của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 08NQ/TW) đã chỉ rõ:
…Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo
đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác…Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ,


2


toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa,
bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi
ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức
thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định… [2].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 “Về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 49-NQ/TW) tiếp tục
xác định một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp ở nước ta là “Đổi mới
việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo
tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại
các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…”.
Trước khi có Nghị quyết số 08/NQ-TW, hoạt động thực hành quyền
cơng tố của Kiểm sát viên tại phiên tồ hình sự chủ yếu tập trung vào việc đọc
cáo trạng, trình bày lời luận tội mà chưa chú trọng đến việc tranh luận cũng
như đối đáp với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác. Nhằm khắc phục tình trạng này và kịp thời thể chế hóa chủ trương của
Đảng về cải cách tư pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã dành Chương
XXI (từ Điều 217 - 221) quy định cụ thể và đầy đủ hơn về trình tự, thủ tục
tranh luận tại phiên tồ hình sự. Vì vậy, hoạt động tranh luận, đối đáp tại
phiên tồ nói chung và của Kiểm sát viên nói riêng với bị cáo, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác đã có những chuyển biến tích cực, rõ
nét. Hoạt động tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên để bác bỏ các quan điểm
không có căn cứ của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác khơng chỉ góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan về các tình tiết của
vụ án mà còn phần nào khắc phục được tình trạng xét xử theo kiểu “án bỏ túi”
tồn tại trước đây mà dư luận xã hội đã từng phê phán gay gắt.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các vụ án hình sự những năm gần đây cho
thấy nhìn chung việc tổ chức phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp chưa



3
được hồn thiện, khâu tranh tụng vẫn mang nặng tính truyền thống, Kiểm sát
viên không tham gia tranh tụng với Luật sư, Hội đồng xét xử dường như làm
thay chức năng của Viện Kiểm sát, thời gian Hội đồng xét xử dành cho việc
hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng nhiều hơn là lắng nghe các bên
tranh tụng…Những hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân, làm chậm tiến trình cải cách tư pháp, làm giảm
sút lịng tin của nhân dân đối với cơ quan tư pháp nói chung và của ngành
Kiểm sát nói riêng và điều quan trọng là nó khơng phản ánh hết được giá trị
đích thực của Nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang hướng tới.
Liên quan đến vấn đề năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên
tồ hình sự đã có một số cơng trình khoa học quan tâm nghiên cứu ở phạm vi
và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, các cơng trình này mới chỉ đề cập đến một
số khía cạnh nhất định của vấn đề tranh tụng như: về kỹ năng và văn hóa khi
tranh tụng; địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tranh tụng; thủ tục tranh
tụng tại phiên tồ hình sự sơ thẩm hoặc tại phiên tồ hình sự phúc thẩm,…mà
chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ cả
về lý luận và thực tiễn về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại các phiên
toà hình sự. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và đầy đủ
hơn về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên Tồ hình sự là rất cần
thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ đòi hỏi của thực tế đồng thời đáp ứng yêu cầu thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp thì vấn đề về năng lực tranh tụng của Kiểm sát
viên tại phiên toà hình sự là một trong những nội dung cần được quan tâm
nghiên cứu nhiều hơn nữa. Do vậy, để góp phần làm phong phú hơn, cụ thể
hơn, xác định rõ hơn những nhiệm vụ mà yêu cầu tranh tụng tại phiên Tồ
hình sự đặt ra đối với Kiểm sát viên, tác giả luận văn chọn đề tài “Năng lực
tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân trong thực hành
quyền cơng tố tại phiên tồ hình sự ở tỉnh Kiên Giang” làm đề tài luận văn
thạc sĩ Luật học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.



4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề tranh tụng tại phiên tồ hình sự đã
được nhiều nhà khoa học pháp lý và cán bộ thực tiễn quan tâm nghiên cứu ở
nhiều góc độ và phạm vi khác nhau như: Luận văn thạc sĩ Luật học “Vấn đề
tranh tụng trong Tố tụng hình sự” của Nguyễn Đức Mai (1996); “Tranh luận
tại phiên tòa sơ thẩm” (2007) và “Tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm” (2008)
của TS. Dương Thanh Biểu; Luận văn thạc sĩ Luật học “Thủ tục xét hỏi, tranh
luận tại PTHS sơ thẩm” của Nguyễn Hải Ninh (2003); Luận văn thạc sĩ Luật
học “Tranh tụng tại phiên tòa theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của
Bùi Thị Hà (2010); Luận văn thạc sĩ Luật học “Chức năng, nhiệm vụ của
Kiểm sát viên trong tranh tụng tại PTHS sơ thẩm” của Hà Minh Hải (2007);
“Hoàn thiện các quy định củaBộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 liên quan
đến tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm - cơ sở lý luận và thực tiễn” Đề tài khoa
học cấp cơ sở TANDTC (2011), Chủ nhiệm - TS. Nguyễn Đức Mai;…
Ngoài ra, cịn có một số bài viết đăng trên các tạp chí chun ngành về
các vấn đề có liên quan đến tranh luận tại PTHS như: “Đặc điểm mơ hình tố
tụng tranh tụng và phương hướng hồn thiện mơ hình Tố tụng hình sự ở Việt
Nam” của TS. Nguyễn Đức Mai (2009),Tạp chí TAND,(23-24); “Hồn thiện
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về phạm vi tranh luận và
chủ thể tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự” của ThS. Hồ Đức Anh
(2007), Tạp chí Kiểm sát; “Cần nhận thức đúng đắn về tranh tụng và tranh
luận để nâng cao kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên tại các PTHS” của
ThS. Nguyễn Hữu Hậu (2006), Tạp chí Kiểm sát; “Một số giải pháp nâng cao
chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự” của
Th.s Phạm Quang Định (2009),Tạp chí Kiểm sát; “Kỹ năng và văn hóa tranh
luận tại phiên tịa” của LS Lê Đức Tiết (2005),Tạp chí Kiểm sát; “Một số vấn
đề về văn hóa ứng xử của Kiểm sát viên tại phiên tòa” của TS Đinh Xuân

Nam (2006), Tạp chí Kiểm sát;…


5
Qua nghiên cứu các cơng trình nêu trên thấy rằng nhìn chung các tác
giả mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh (nội dung) nhất định của vấn đề
nghiên cứu như: về tranh luận của Kiểm sát viên, của người bào chữa nói
chung hoặc về tranh luận tại một phiên Tồ hình sự (sơ thẩm hoặc phúc
thẩm) mà chưa đi sâu nghiên cứu một cách trực diện, hệ thống, toàn diện
và đầy đủ về năng lực, kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên tại các phiên
Tồ hình sự. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu có hệ thống, toàn diện, đầy đủ
hơn nhằm làm phong phú và sáng tỏ hơn một số vấn đề về năng lực tranh
tụng của Kiểm sát viên tại các phiên Tồ hình sự qua đó góp phần đề xuất
một số giải pháp nhằm góp phần đảm bảo năng lực tranh tụng của Kiểm sát
viên tại phiên Tồ hình sự là u cầu và nhiệm vụ hết sức bức thiết đáp ứng
một cách thiết thực có hiệu quả trước yêu cầu cải cách tư pháp trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận năng lực thực hành quyền
công tố của Kiểm sát viên tại PTHS. Trên cơ sở khảo sát thực trạng để xác
định quan điểm, phương hướng và đề xuất các giải pháp bảo đảm năng lực
tranh tụng trong thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên ở tỉnh Kiên
Giang hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nên trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
Làm rõ cơ sở lý luận về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố tại PTHS sơ thẩm, phúc thẩm.
Đánh giá thực trạng về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố tại PTHS sơ thẩm, phúc thẩm ở tỉnh Kiên Giang.

Đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp bảo đảm năng lực tranh
tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại PTHS ở tỉnh Kiên Giang.


6
4. Đối tượng và phạm vinghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến năng lực
tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và những yếu tố đảm
bảo năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại PTHS sơ thẩm, phúc thẩm và
thực tế thực hiện ở địa phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ thực tiễn thực hành quyền công tố của 02 cấp kiểm sát của Viện Kiểm
sát nhân dân tỉnh Kiên Giang, luận văn nghiên cứu vấn đề về năng lực tranh tụng
của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại PTHS sơ thẩm và phúc thẩm ở
địa phương. Luận văn không nghiên cứu vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên
Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc
thẩm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao.
Về thời gian nghiên cứu, luận văn chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề
có liên quan đến đề tài trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2013.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, nhất là
các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp. Luận văn có dựa trên
cơ sở lý luận của khoa học luật tố tụng hình sự, những nghiên cứu có liên quan
đến áp dụng pháp luật theo hệ tố tụng tranh tụng, hệ tố tụng thẩm vấn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực

tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích tổng hợp. Ngồi ra,
cịn sử dụng một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương
pháp so sánh, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế.


7
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Phân tích và góp phần làm rõ thêm các khái niệm có liên quan đến đề tài
như: khái niệm tranh tụng tại phiên tồ hình sự, khái niệm quyền cơng tố,
thực hành quyền công tố, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố tại PTHS; các yếu tố cấu thành năng lực tranh tụng của Kiểm
sát viên tại PTHS.
Đề xuất các giải pháp để đảm bảo chất lượng, năng lực tranh tụng của
Kiểm sát viên thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa xét xử án hình sự sơ
thẩm, phúc thẩm, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Qua kết quả nghiên cứu của luận văn, góp phần làm phong phú thêm cơ
sở tham khảo cho việc nghiên cứu, phục vụ yêu cầu thực tiễn về các tiêu chí
đánh giá năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền cơng tố tại
phiên tịa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm theo phân cấp quy định trong
Bộ Luật tố tụng hình sự.
Luận văn cũng có thể sử dụng để nghiên cứu, tham khảo “đổi mới việc
tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng ...” theo yêu cầu cải cách tư pháp
của Nghị quyết 49 Bộ Chính trị (Khóa IX).
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.



8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC TRANH TỤNG
CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ TẠI PHIÊN TỒ HÌNH SỰ

Để làm rõ cơ sở lý luận về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền cơng tố tại phiên Tồ hình sự, trước hết cần
làm sáng tỏ các khái niệm có liên quan đến vấn đề này như khái niệm “tranh
tụng tại phiên tồ hình sự”, “quyền cơng tố”, “quyền cơng tố trong tố tụng
hình sự”, “thực hành quyền cơng tố trong tố tụng hình sự”, “năng lực tranh
tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền cơng tố tại phiên tồ hình sự”.
1.1.1. Khái niệm về tranh tụng tại phiên tồ hình sự
Tư tưởng về tranh tụng xuất hiện từ thời cổ đại và được coi là một trong
những nguyên tắc cơ bản của TTHS. Tuy vậy, trong lịch sử TTHS Việt Nam,
khái niệm “tranh tụng” ít được đề cập. Trước đây, chúng ta quan niệm “tranh
tụng” là đặc trưng của TTHS phương Tây nên vấn đề này ít được đề cập trong
khoa học pháp lý nước nhà. Trong thời gian gần đây, nhất là khi có Nghị quyết
08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 02-62005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì vấn đề
“tranh tụng” đã được nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn đề cập trong
các diễn đàn khoa học pháp lý và các bài viết trên tạp chí chuyên ngành.
Về mặt thuật ngữ, thì “tranh tụng” có nghĩa là “sự kiện cáo nhau” giữa
hai người (bên nguyên và bên bị) có lập trường tương phản u cầu Tồ án
phân xử. Cịn theo nghĩa Hán - Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai
từ “tranh luận” và “tố tụng”, có nghĩa là tranh luận trong tố tụng.



9
Qua nghiên cứu các cơng trình, tài liệu chun ngành tố tụng hình sự đã
cơng bố cho thấy, khái niệm “tranh tụng” được hiểu theo nghĩa khác nhau:
Tranh tụng được hiểu theo nghĩa là một thủ tục hoặc một giai đoạn của
TTHS và trong một số trường hợp tranh tụng được đồng nhất với “tranh luận”
tại phiên toà. Một số tác giả cho rằng: “Nếu tranh tụng được xác định kể từ
khi mở phiên toà đến khi kết thúc phiên tồ thì cũng có nghĩa là tranh tụng và
tranh luận có khi là một” [24, tr.15. Trong khi đó, một số tác giả lại hiểu
“tranh tụng” có nghĩa là tranh luận trong q trình tố tụng tại phiên tồ, nhưng
lại hiểu tranh luận theo nghĩa rộng hơn - tranh luận là bàn cãi để tìm ra lẽ
phải. Do vậy tranh tụng được tính từ khi “khai mạc phiên tồ đến trước khi
Hội đồng xét xử vào nghị án” [24, tr.16.
Tranh tụng cũng được nhìn nhận như một hoạt động của TTHS. Theo từ
điển Luật học: Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên
tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với
nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích
của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập [24, tr.16.
Tranh tụng còn được nhìn nhận như một quy luật khách quan của tố tụng
nói chung, TTHS nói riêng. Ở góc độ này, tranh tụng được nhìn nhận như một
nguyên tắc cơ bản của TTHS,
Tranh tụng được nhìn nhận như một quá trình tồn tại, vận động, đấu
tranh nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng có định hướng
ngược chiều nhau, đối trọng nhau, có quyền ngang nhau trong việc
bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi ích và phản bác ý kiến, lập luận, lợi ích
của phía bên kia mà đỉnh điểm của q trình này diễn ra tại phiên
tồ sơ thẩm trước Tồ án có vai trị là trọng tài [24, tr.17.
Ở góc độ nghiên cứu khác, tranh tụng cịn được hiểu là mơ hình (kiểu,
hệ) tố tụng của các nước theo hệ thống án lệ (Anh - Mỹ). Theo một số học



10
giả Hoa Kỳ thì tố tụng tranh tụng là mơ hình tố tụng dựa trên quan điểm là
sự thật sẽ được xác lập thông qua sự tranh luận tự do và cởi mở giữa những
người có dữ kiện chính xác về vụ án [24, tr.17. Hay tranh tụng là một mơ
hình tố tụng trong đó có sự tranh luận bình đẳng giữa bên buộc tội và bên
bị buộc tội để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Trong quá trình tranh
luận bình đẳng này, bên buộc tội (điều tra, truy tố) có nghĩa vụ phải chứng
minh, cịn bên bị buộc tội (bị can, bị cáo và luật sư của mình) có quyền
(chứ khơng có nghĩa vụ phải) chứng minh những sự việc xảy ra liên quan
đến vụ án [24, tr.17.
Như vậy, khái niệm “tranh tụng” được hiểu theo nhiều khía cạnh khác
nhau: tranh tụng được hiểu là một giai đoạn, một thủ tục của TTHS (ở nghĩa
này, tranh tụng thường bị đồng nhất với tranh luận tại phiên toà); tranh tụng
được hiểu như một nguyên tắc của TTHS và tranh tụng cũng được hiểu như
một kiểu, mơ hình TTHS.
Mỗi cách hiểu nêu trên đều tiếp cận vấn đề “tranh tụng” ở những góc độ
khác nhau với mục đích nghiên cứu khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của
luận văn này, tác giả khơng có ý định đánh giá, phân tích tranh tụng dưới tất cả
các góc nhìn trên, tác giả chỉ đồng tình với quan điểm cho rằng q trình tranh
tụng bao gồm tồn bộ q trình xét xử vụ án tại PTHS bắt đầu từ thời điểm khai
mạc phiên tồ và kết thúc sau khi cơng bố phán quyết của Toà án.
Xác định hướng tiếp cận và qua phân tích như trên, có thể khẳng định
rằng “tranh tụng” và “tranh luận” tại PTHS là các khái niệm khơng đồng
nhất. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trong đó “tranh tụng tại
phiên tịa” là “cái chung” (tổng thể) và “tranh luận tại phiên tòa” là “cái
riêng” (bộ phận cấu thành). Vì vậy, khái niệm “tranh tụng tại phiên tịa” có
nội hàm rộng hơn bao gồm không chỉ phần tranh luận mà cả các phần khác
(thủ tục phiên toà, xét hỏi, nghị án và tuyên án) của quá trình xét xử vụ án



11
hình sự cịn “tranh luận tại phiên tồ” chỉ là một bộ phận cấu thành của tranh
tụng và là sự thể hiện một cách tập trung, rõ nét nhất của quá trình tranh tụng.
Sự khác nhau giữa hai khái niệm này được thể hiện ở ba tiêu chí: về phạm vi
(giới hạn), về chủ thể và về nội dung.
Về phạm vi:Tranh tụng tại PTHS được bắt đầu từ thời điểm khai mạc
phiên tịa và kết thúc sau khi HĐXX cơng bố phán quyết về vụ án. Còn tranh
luận tại PTHS được bắt đầu bằng lời luận tội hoặc phát biểu của KSV về quan
điểm giải quyết vụ án và kết thúc trước khi bị cáo nói lời sau cùng.
Về chủ thể: Chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng tại PTHS bao
gồm tất cả các chủ thể tham gia phiên toà: HĐXX; các chủ thể của bên buộc
tội (KSV, bị hại, nguyên đơn dân sự,…); bên bào chữa (bị cáo, người bào
chữa, bị đơn dân sự,…) và những người tham gia tố tụng khác (người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch); người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
So với các chủ thể tham gia tranh tụng, phạm vi các chủ thể tham gia
vào quá trình tranh luận tại PTHS hẹp hơn: chỉ bao gồm các chủ thể thuộc bên
buộc tội và bên bào chữa dưới sự điều khiển của Chủ toạ phiên toà. Hội thẩm
và những người tham gia tố tụng khác khơng tham gia vào q trình này.
Về nội dung:Nội dung tranh tụng tại PTHS bao gồm tất cả các vấn đề
khác nhau cần giải quyết trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án (từ khi khai mạc
cho đến khi kết thúc phiên toà) như: đưa ra chứng cứ mới bằng cách yêu cầu
triệu tập thêm người làm chứng, đưa ra vật chứng hoặc tài liệu mới, thay đổi
thành viên HĐXX, KSV, Thư ký TA, người giám định, người phiên dịch, xem
xét giải quyết việc hỗn phiên tịa,…(ở phần thủ tục phiên tòa); HĐXX và các
bên tham gia vào q trình điều tra cơng khai (xét hỏi) nhằm kiểm tra xác
minh các chứng cứ và các tình tiết về vụ án dưới sự điều khiển của Chủ tọa
phiên toà (ở phần xét hỏi); các bên đưa ra quan điểm, lập luận của mình về
các vấn đề cần giải quyết trong vụ án (về đánh giá chứng cứ, về tội danh, các



12
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về áp dụng pháp luật, hình
phạt đối với bị cáo, về phần dân sự, về xử lý vật chứng,…) đề nghị HĐXX
chấp nhận hay bác bỏ khi ra phán quyết về vụ án (ở phần tranh luận); các
thành viên HĐXX thảo luận về từng vấn đề cần giải quyết trong vụ án, chấp
nhận hay bác bỏ đề nghị cụ thể của các bên và ra phán quyết về vụ án theo
quyết định đa số (ở phần nghị án).
So với tranh tụng, tranh luận tại PTHS có nội dung hẹp hơn rất nhiều và
chỉ bao gồm các vấn đề mà các bên tranh luận, đối đáp với nhau ở phần tranh
luận: quan điểm, lập luận về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án (về đánh
giá chứng cứ, về tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, về áp dụng pháp luật, hình phạt đối với bị cáo, về phần dân sự, về xử lý
vật chứng,…) mà các bên đưa ra đề nghị HĐXX chấp nhận hay bác bỏ khi ra
phán quyết về vụ án.
1.1.2. Khái niệm quyền công tố
Hiện nay, trong khoa học pháp lý ở nước ta tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau về quyền công tố.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Công tố là quyền chỉ thuộc Nhà nước,
không một cá nhân, một tổ chức nào được thực hiện nếu không được Nhà
nước cho phép. Từ đó đưa ra quan điểm về quyền công tố:
Là một quyền năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất
cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật bao gồm tố tụng hành chính, tố
tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hình sự [9, tr.87].
Quan điểm này đã coi quyền công tố là một quyền năng của Nhà nước
và được giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện việc cáo buộc đối tượng có hành
vi sai trái, vi phạm pháp luật. Đối tượng bị cáo buộc là con người cụ thể hoặc
một tổ chức, một cơ quan tùy theo vi phạm đối với quan hệ pháp luật nào.
Trong tố tụng hình sự, cả ba cơ quan tiến hành tố tụng là Cơ quan điều tra,
Viện Kiểm sát và Tịa án đều có quyền cơng tố.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền cơng tố có trong hai cơ quan tiến


13
hành tố tụng đó là cơ quan điều tra và cơ quan truy tố là Viện Kiểm sát và
được Nhà nước giao quyền khởi tố, điều tra, truy tố người phạm tội:
Quyền công tố là quyền của Nhà nước được giao cho các cơ quan nhất
định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và
thực hiện việc buộc tội trước phiên tịa [9, tr.240].
Quan điểm này giải thích quyền cơng tố thuộc phạm vi tố tụng hình sự,
nhưng chỉ có hai cơ quan được Nhà nước giao quyền theo tố tụng, thu hẹp
hơn so với quan điểm thứ nhất.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Khơng có quyền cơng tố chung chung mà
có tính cụ thể, quyền này xuất hiện một khi một tội phạm cụ thể đã được thực
hiện bởi người phạm tội. Thực chất của quyền công tố là quyền của Nhà
nước, ủy quyền hoặc phân công cho một cơ quan trong bộ máy Nhà nước
thực hiện chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Từ
đó đưa ra khái niệm: Quyền cơng tố là quyền của một cơ quan Nhà nước được
Nhà nước ủy quyền thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội nhằm đưa người đó ra xét xử trước Tòa án và đồng thời bảo vệ sự
buộc tội đó [8, tr.52].
Quan điểm này cũng xác định quyền cơng tố là quyền năng của Nhà
nước ủy quyền hoặc phân công cho một cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực
hiện chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực tố tụng hình sự là buộc tội đối với
người phạm tội hình sự.
Như vậy, giữa các quan điểm có khác nhau về việc xác định lĩnh vực
phát sinh quyền công tố; phạm vi; chủ thể thực hiện quyền năng công tố
của Nhà nước.
Quan điểm thứ tư cho rằng: Khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam
kế thừa luật tố tụng hình sự các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xơ

(cũ). Mơ hình tổ chức, hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân cũng được
xây dựng theo mơ hình tương tự. Do vậy, theo luật định giao cho Viện


14
Kiểm sát thực hành quyền công tố ngay trong giai đoạn xét xử. Từ đó,
thống nhất khái niệm:
Quyền cơng tố là quyền đưa vụ án ra tòa để xét xử và quyền cơng tố có
thể thực hiện từ khi kết thúc điều tra đến khi có bản luận tội của Viện Kiểm
sát trước phiên tòa [21, tr.21].
So với các quan điểm nên trên, quan điểm này xác định quyền công tố chỉ
phát sinh sau khi cơ quan điều tra đã hồn tất, có kết luận điều tra và chấm dứt
khi Kiểm sát viên thực hành công tố công bố việc luận tội tại phiên tịa sơ thẩm
hình sự. Nói cách khác, đây là quan điểm thu hẹp khái niệm quyền công tố, đồng
nhất quyền công tố với thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa xét xử án hình sự.
Nhìn chung, các quan điểm đã nêu trên đều dựa vào các quy định pháp
luật làm cơ sở và từ thực tiễn ở nước ta để nghiên cứu. Do cách tiếp cận khác
nhau nên vẫn cịn có những quan điểm chưa thống nhất về quyền cơng tố. Tuy
vậy, vẫn có được nhận thức chung là nó thuộc lĩnh vực hình sự tố tụng để
nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và quyền này được
luật quy định giao cho một cơ quan thực hiện nằm trong hệ thống tổ chức bộ
máy của Nhà nước. Mặt khác, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và định hướng cải cách tư pháp đến năm 2020 mà Đảng và
Nhà nước đang quan tâm, các quan điểm nghiên cứu mang tính khoa học
cũng đã gợi mở, kích thích việc tìm tịi nhận thức về tính xác thực của quyền
cơng tố. Để góp phần cho cơng việc nghiên cứu này, tôi cho rằng: Quyền
công tố là quyền riêng biệt của một trong những cơ quan nhà nước trong hệ
thống cơ quan tư pháp, được Nhà nước giao quyền truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm một hay nhiều tội danh được quy định trong Bộ luật
hình sự và bảo vệ việc buộc tội của người đó tại phiên tịa xét xử án hình sự.

* Từ khái niệm này, có thể xác định được:
- Quyền cơng tố là quyền đặc thù được Nhà nước giao cho một trong
những cơ quan hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nằm trong bộ máy nhà nước,


15
ở nước ta hiện nay đó là Viện Kiểm sát nhân dân. Và quyền này được thực
hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
- Buộc tội đối với người phạm tội tại phiên tịa xét xử án hình sự là nội
dung của quyền công tố qua từng vụ án cụ thể. Để thực hiện việc đó là cả một
q trình xác định những căn cứ đối với những hành vi được xem là tội phạm
được quy định trong Bộ luật hình sự và đã được khởi tố, điều tra, cho đến lập
cáo trạng chuyển hồ sơ sang tòa án để truy tố, xét xử cho đến khi hiệu lực của
bản án được xác định.
Như vậy, trong giai đoạn khởi tố điều tra, truy tố, xét xử thì quyền cơng
tố ln được thể hiện.
1.1.3. Quyền cơng tố trong tố tụng hình sự
Quyền công tố trong TTHS là một trong những vấn đề được bàn luận sôi
nổi trong giới nghiên cứu lý luận và ngay cả trong những người làm công tác
thực tiễn. Để khái quát rõ hơn về quyền công tố trong TTHS, cần phải phân
định phạm vi quyền công tố trong TTHS, đối tượng, nội dung của quyền công
tố trong TTHS.
1.1.3.1. Phạm vi quyền cơng tố trong tố tụng hình sự
Khi đề cập đến quyền công tố trong TTHS, các nhà nghiên cứu và các
nhà làm luật cũng có nhiều ý kiến khác nhau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng, phạm vi quyền cơng tố bắt đầu từ khi có quyết
định truy tố và kết thúc khi Công tố viên buộc tội xong tại phiên Toà sơ thẩm.
Quan niệm như vậy về phạm vi quyền công tố là phù hợp với bản chất của
cơng tố là đại diện cho lợi ích cơng để đưa vụ án ra Tồ và buộc tội bị cáo. Họ
cho rằng, quyền cơng tố khơng có trong giai đoạn điều tra, vì giai đoạn điều

tra chỉ là giai đoạn thu thập tài liệu chứng cứ phục vụ cho việc đưa vụ án ra
Toà. Cơ sở lý luận cho quan điểm này là dựa vào quan điểm của V.I. Lênin,
rằng “quyền và bổn phận duy nhất của Công tố viên là đưa vụ án ra Toà”;
đồng thời dựa vào quy định của pháp luật nhiều nước trên thế giới quy định


16
chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố là truy tố và thực hiện việc buộc tội. Ở
một số nước, cơ quan cơng tố nằm ngay trong Tồ sơ thẩm, các Cơng tố viên
với tính cách là người đại diện cho quyền lực cơng đưa vụ án ra Tồ và đứng
ra phê phán tội lỗi của các bị cáo, yêu cầu Tồ án tun hình phạt đối với bị
cáo. Từ quan điểm trên cho thấy đã có sự nhầm lẫn giữa quyền công tố và
thực hành quyền công tố dẫn đến thu hẹp khơng chỉ nội dung mà cịn thu hẹp
cả phạm vi quyền công tố.
Ý kiến thứ hai cho rằng, quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và
kết thúc khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Quan điểm này tuy đã mở
rộng thời điểm bắt đầu nhưng lại giới hạn thời điểm kết thúc của quyền công
tố trong TTHS quá sớm nên gặp nhiều vướng mắc khó khắc phục. Đó là, tại
các phiên toà phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hình sự, sự có mặt của
Cơng tố viên (Kiểm sát viên) vẫn là người đại diện cho lợi ích cơng trình bày
quan điểm của mình về việc gỉai quyết vụ án. Như vậy, nếu quan niệm phạm
vi kết thúc của quyền công tố tại thời điểm bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật sẽ khơng lý giải được vấn đề vị trí, vai trị Cơng tố viên khi tham gia
phiên tồ phúc thẩm và giám đốc thẩm với tính cách là nhân vật đại diện cho
công quyền tiếp tục thực hiện việc buộc tội bị cáo.
Ý kiến thứ ba cho rằng, phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi có tội
phạm xảy ra và kết thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án. Những
người theo quan điểm này đã mở rộng phạm vi của quyền công tố trong
TTHS, coi quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đến cùng đối
với người phạm tội. Bản án kết tội có hiệu lực pháp luật cũng chỉ là căn cứ để

Nhà nước tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự, ở đây là hình phạt mà người
bị kết án có nghĩa vụ phải thi hành. Khi người phạm tội chưa thực hiện xong
nghĩa vụ này đối với Nhà nước thì điều đó cũng có nghĩa là họ chưa chấp
hành xong trách nhiệm hình sự, theo đó quyền công tố vẫn phải tiếp tục tác
động để đảm bảo hiệu quả của cả quá trình tố tụng, bảo đảm mục đích của


17
quyền cơng tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đến cùng đối với người
phạm tội. Như vậy, ý kiến này đã đồng nhất việc truy cứu trách nhiệm hình sự
với việc thực hiện trách nhiệm hình sự của người đã thực hiện tội phạm. Ở
đây, phải khẳng định rằng, ở giai đoạn thi hành án khơng có hoạt động tiến hành
tố tụng, khơng có việc chứng minh và buộc tội nữa, giai đoạn này chỉ là việc thi
hành bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tồ án. Quyền cơng tố,
quyền bào chữa cũng như quyền tài phán của Toà đã chấm dứt. Do vậy, không
thể coi quyền công tố vẫn hiện diện ở giai đoạn thi hành án mà nó đã chấm dứt
khi bản án có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng nghị, kháng cáo.
Nhìn chung, các ý kiến trên đều có điểm chung xoay quanh vấn đề quyền
truy tố và buộc tội đối với người phạm tội. Tuy nhiên cần phải nhận thức một
cách đúng đắn phạm vi quyền công tố, xuất phát từ quan điểm sau:
- Quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Quyền này phát sinh ngay từ khi có hành vi phạm tội xảy ra
và kết thúc khi cơ quan tài phán nhân danh công lý tuyên phạt đối với người
đã thực hiện tội phạm ấy. Bởi lẽ, quyền công tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa
Nhà nước và người phạm tội do chính hành vi phạm tội làm phát sinh ra.
C.Mác đã viết: “Sự trừng phạt là quyền của Nhà nước không thể chuyển giao
cho tư nhân. Mọi quyền của Nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời
cũng là nghĩa vụ của người đó đối với Nhà nước”[13,tr.218-219.
- Không thể đồng nhất quyền công tố trong TTHS với việc thực hành
quyền cơng tố, bởi vì thực hành quyền công tố là việc sử dụng các biện pháp

do luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và thực
hiện sự buộc tội đối với người đó trước Tồ án. Trên thực tế dù có tội phạm
xảy ra, có nhu cầu thực hành quyền công tố nhưng cơ quan được giao thực
hiện quyền này có thực hiện được hay khơng lại là một vấn đề khác.
- Quyền công tố trong TTHS là quyền đòi trừng phạt người phạm tội một


18
cách cơng khai bằng con đường Tồ án, do đó khi bản án kết tội đã có hiệu
lực pháp luật, không bị kháng nghị, tức là quyền tài phán chấm dứt thì quyền
cơng tố cũng bị triệt tiêu.
Xuất phát từ những nội dung trên, có thể đi đến quan niệm rằng: “Phạm
vi quyền công tố trong TTHS bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi
bản án có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng nghị”.
1.1.3.2. Đối tượng và nội dung của quyền công tố trong tố tụng hình sự
Hiện nay, do cịn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quyền cơng tố,
theo đó cũng có nhiều quan niệm khác nhau về đối tượng và nội dung quyền
công tố. Tuy vậy, đối tượng của quyền công tố trong từng lĩnh vực tố tụng
không giống nhau. Hành vi phạm tội và các tranh chấp dân sự là khác nhau
nên hoạt động TTHS và tố tụng dân sự được thực hiện theo các nguyên tắc
khác nhau. Một trong những nguyên tắc đặc thù của TTHS là nguyên tắc cơng
tố (quyền truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc về Nhà nước) và nguyên tắc
nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tố tụng. Tuy nguyên tắc công tố
chưa được nhắc tới trong TTHS Việt Nam nhưng căn cứ vào pháp luật hiện
hành có thể nhận thấy nguyên tắc này có nội dung: Tồn bộ hoạt động TTHS
chủ yếu và trước hết vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của tồn xã hội.
Chính vì lợi ích này là động lực làm TTHS xuất hiện, phát triển từ giai đoạn
này sang giai đoạn khác và chấm dứt, không phụ thuộc vào ý chí của những
người tham gia TTHS (bị can, bị cáo, bị hại…). Bởi vì tội phạm là vi phạm
pháp luật nguy hiểm nhất, nó khơng chỉ xâm hại đến lợi ích của người bị hại

mà nghiêm trọng hơn nó cịn xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, đến an ninh
chung xã hội. Chính vì vậy, Nhà nước phải dùng đến hình phạt, một chế tài
nghiêm khắc nhất để trừng trị và thông qua các đại diện của mình là các cơ
quan tiến hành tố tụng để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối
tượng của quyền công tố cần được xác định là tội phạm và người phạm tội.
Trong tố tụng dân sự, đối tượng của nó là tranh chấp dân sự, chủ yếu đụng


19
chạm đến lợi ích của cá nhân, nên nguyên tắc đặc thù là nguyên tắc tự định
đoạt của đương sự. Ý chí và lợi ích của đương sự là động lực chủ yếu làm
xuất hiện tố tụng dân sự và quyết định sự vận động của loại hình tố tụng này
qua các giai đoạn khác nhau. Trong tố tụng dân sự nghĩa vụ chứng minh vì thế
cũng trước hết thuộc về đương sự. Vì vậy đối tượng của quyền cơng tố trong
tố tụng dân sự rất hẹp, đó chỉ là những hành vi dân sự xâm phạm đến lợi ích
chung, lợi ích cơng cộng. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn cịn có quan điểm chưa
đúng đắn về đối tượng của quyền công tố trong TTHS.
Xuất phát từ quan điểm coi quyền công tố là một quyền năng cụ thể để
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, một số người cho rằng
đối tượng của quyền công tố là sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Từ những luận cứ trên cho thấy bản chất của hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật là việc kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong
hành vi và quyết định của các chủ thể bị kiểm sát. Do đó, đối tượng của hoạt
động kiểm sát trong TTHS phải là hành vi xử sự của các cơ quan tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng. Ngược lại, bản chất của quyền cơng tố trong
TTHS là việc địi trừng phạt những hành vi phạm tội để bảo vệ lợi ích cơng
thì đối tượng của quyền này phải là tội phạm và người phạm tội. Quyền cơng
tố ln ln mang tính cụ thể, tức là xuất hiện trong trường hợp một tội phạm
cụ thể được thực hiện và đối với những người nhất định đã phạm tội đó.

Khi nghiên cứu về nội dung quyền cơng tố, có ý kiến cho rằng nội dung
quyền công tố phải được hiểu theo nghĩa rộng:
Một là, nhân danh quyền lực nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trước phiên toà, tham gia nghiên cứu chứng cứ, kết luận những
vấn đề phát sinh khi xét xử, trình bày các quan điểm của mình về vụ án.
Hai là, với tính chất của quyền cơng tố thì nội dung của nó khơng chỉ
là sự buộc tội, vì trong hoạt động tố tụng có những vụ việc trong hình sự có


20
dân sự, kinh tế, hành chính, lao động và ngược lại. Các yếu tố có liên quan
giữa tính chất của các loại án giao thoa với nhau, đo đó, nếu chỉ quan tâm
đến việc nghiên cứu chứng cứ, buộc tội trong hình sự thì chưa đủ. Mặt
khác, bản thân các hoạt động tố tụng theo đúng nghĩa của nó cũng là hoạt
động bảo vệ pháp luật trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội chứ
không chỉ trong lĩnh vực hình sự. Vấn đề này cũng khơng mới lạ khi chúng
ta xem xét việc tổ chức thực hành quyền công tố ở nước ta, tại Điều 26 và
Điều 30 Sắc lệnh 51/SL ngày 17/4/1946, trong đó có quy định thẩm quyền
của ông Biện lý cả ở lĩnh vực “hình” và “bộ”.
Ba là, trong một số trường hợp, quyền cơng tố cịn có thể được thực
hiện để bảo vệ quyền của cơ quan lập pháp (ở một số nước có Tồ án Hiến
pháp - khi một đạo luật của Quốc hội bị Toà án Hiến pháp xem xét phải có
cơ quan đưa ra), hoặc đối với việc bảo vệ quyền của cơ quan hành pháp
(nếu quan niệm quyền công tố nằm trong quyền hành pháp). Chẳng hạn, ở
một số nước có Tồ hành chính (chun xét xử việc dân kiện quan).
Rousseau đã có luận điểm rằng:
Cơ quan tư pháp khơng được có chút quyền lập pháp hay hành
pháp nào cả. Nhưng chính do đó mà cơ quan tư pháp có quyền
cao hơn cả, vì nó khơng làm gì cả nhưng có thể ngăn ngừa tất cả
và nếu được điều hồ một cách thơng minh sẽ là chỗ dựa vững

chắc cho một thể chế tốt [9, tr.35.
Từ sự phân tích trên cho thấy, quan niệm về nội dung của quyền công tố
theo ý kiến vừa nêu không chỉ là sự buộc tội đối với người phạm tội mà còn
cả việc yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự, việc bảo vệ
quyền và lợi ích của cơ quan lập pháp, hành pháp. Theo đó, quan niệm về nội
dung quyền cơng tố q rộng, bởi lẽ nhóm ý kiến này cho rằng phạm vi quyền
cơng tố có trong tất cả các lĩnh vực tố tụng tư pháp. Trong lĩnh vực TTHS, nội


21
dung quyền công tố không thể bao gồm việc yêu cầu bồi thường thiệt hại, vì
vấn đề này chỉ là hậu quả pháp lý phát sinh từ kết quả của sự buộc tội.
Có nhóm ý kiến cịn nhầm lẫn giữa nội dung quyền công tố và nội dung
thực hành quyền công tố như: nội dung quyền công tố được hiểu là tổng hợp
các quyền năng pháp lý do luật định nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều
phải được phát hiện và xử lý theo pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không
làm oan người vô tội [9, tr.36. Qua nghiên cứu thấy rằng nội dung của quyền
công tố là sự buộc tội, còn việc tiến hành những biện pháp do luật định và cơ
quan Nhà nước được giao nhiệm vụ thực hiện các biện pháp pháp lý ấy để
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là thực hành quyền công
tố. Xuất phát từ bản chất của quyền công tố và đối tượng tác động của quyền
cơng tố, có thể khẳngđịnh rằng: “Nội dung quyền cơng tố chính là sự buộc tội
đối với người đã thực hiện tội phạm”
Như vậy, quyền công tố trong TTHS tuy còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau về phạm vi, đối tượng và nội dung, nhưng tất cả các quan niệm đều
có điểm chung cốt lõi cho rằng quyền cơng tố là quyền đưa vụ án hình sự ra
Toà và thực hiện sự buộc tội đối với bị cáo.
Quyền công tố được thể hiện rõ nét nhất trong TTHS của Việt Nam và cơ
quan duy nhất thực hiện quyền này đó là Viện kiểm sát. Tại Điều 23 Bộ luật
TTHS quy định: “Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật

trong TTHS, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất”. Thực hành quyền công tố được xác định là chức
năng của Viện kiểm sát trong các giai đoạn tố tụng. Điều đó khẳng định trong
pháp luật Việt Nam và các Luật tổ chức VKSND năm 1960, 1981, 1992 và
2002 về công tác thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong TTHS. Những
quy định của pháp luật hiện hành cũng cho thấy quyền công tố trong TTHS
phát sinh từ khi có tội phạm xảy ra đến khi bản án có hiệu lực pháp luật


22
không bị kháng nghị.
Xuất phát từ những luận cứ vừa phân tích trên, có thể quan niệm rằng:
“Quyền cơng tố trong TTHS là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực
hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, thực hiện sự buộc tội đối với người đó trước Tồ án”.
1.1.4. Khái niệm thực hành quyền cơng tố trong tố tụng hình sự
Trong khoa học Luật TTHS, việc xác định quyền cơng tố có ý nghĩa
quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn giải quyết được rõ ràng, rành mạch
những vấn đề trên giúp cho việc xác định chính xác vai trị, vị trí cũng như
trách nhiệm của Viện Kiểm sát trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thời gian qua, mặc dù vẫn còn có ý kiến khác nhau, nhưng vấn đề về
quyền cơng tố được quan tâm nghiên cứu trên cả phương diện lý thuyết và
thực tiễn. Tuy nhiên, vấn đề thực hành quyền công tố, phạm vi và nội dung
của, mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố và thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS cịn ít được đề cập và
chưa rõ ràng. Trong các tài liệu pháp lý ở nước ta mới chỉ đề cập chủ yếu đến
quyền công tố và cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Một số chuyên
đề về nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức nghiên cứu cũng chỉ đưa ra
một số biện pháp pháp lý, kiến nghị để nâng cao hiệu quả các công tác thực

hiện chức năng kiểm sát như: kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự. Trong nội dung nghiên cứu của các hội thảo chuyên đề này vẫn chưa phân
biệt rành mạch hành vi tố tụng nào là thực hành quyền công tố, hành vi tố
tụng nào là thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHS. Cho đến nay, nhận thức của không ít người làm công tác nghiên cứu
và thực tiễn của các cơ quan tư pháp còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và thực
hành quyền công tố, giữa thẩm quyền của Viện kiểm sát và các quyền năng
pháp lý để thực hiện các quyền đó. Vì vậy, nhiều người đã gặp vướng mắc


23
trong nhận thức về việc có phát sinh quyền cơng tố của các cơ quan như cơ
quan điều tra, Toà án khi khởi tố vụ án hay khơng?
Qua phân tích và cơ sở lý luận nêu trên có thể quan niệm rằng quyền
công tố là quyền của Nhà nước, gắn liền với bản chất của từng kiểu Nhà
nước, là quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người có hành vi xâm
phạm trật tự pháp luật. Trong TTHS, phạm vi của quyền cơng tố bắt đầu từ
khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, khơng
bị kháng nghị. Để đảm bảo thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh
phòng chống tội phạm, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật quy định
các quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm quyền được áp dụng để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Cơ quan được giao thẩm quyền
đưa vụ án ra Toà được gọi là cơ quan thực hành quyền công tố và điều này
được thể hiện ở mỗi nước là khác nhau, tuỳ thuộc vào bản chất chế độ chính
trị, điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia.
Ở Việt Nam, cơ quan duy nhất được Nhà nước giao quyền thực hành
quyền cơng tố là Viện kiểm sát, cịn việc phát động quyền cơng tố khơng chỉ
có Viện kiểm sát mà cịn có Tồ án và cơ quan điều tra. Tuy nhiên, các quyết
định khởi tố của cơ quan điều tra chỉ có yếu tố phát động quyền cơng tố sau
khi được Viện kiểm sát xem xét phê chuẩn hoặc huỷ bỏ nếu quyết định đó

khơng có căn cứ. Tồ án có quyền khởi tố vụ án hình sự, nếu qua xét xử phát
hiện có tội phạm bị bỏ lọt, sau khi khởi tố vụ án Toà án phải gửi cho Viện
kiểm sát cùng cấp xem xét để làm căn cứ quyết định việc kháng nghị hay
không. Như vậy, theo quy định của pháp luật, chỉ có duy nhất Viện kiểm sát là
cơ quan có quyền độc lập phát động quyền công tố mà không chịu sự chi phối
hay can thiệp của bất cứ cơ quan Nhà nước nào khác.
Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị việc áp
dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, còn việc quyết định là
do Viện kiểm sát; cơ quan điều tra có quyền độc lập trong việc thu thập chứng


24
cứ, nhưng Viện Kiểm sát phải chịu trách nhiệm trong việc đảm bảo các chứng
cứ ấy có đủ cơ sở để truy tố bị can hay không. Trong trường hợp khơng đủ
căn cứ để buộc tội, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu điều tra bổ sung hoặc đình
chỉ vụ án; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý người có hành vi vi phạm
pháp luật bằng các biện pháp hành chính khác. Khi có đủ tài liệu, chứng cứ
chứng minh hành vi phạm tội, hội đủ các yếu tố để xử lý người phạm tội ra
trước Toà án thì Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra Toà. Tại Điều 23
Bộ luật TTHS nước ta quy định thẩm quyền công tố của Viện kiểm sát “được
áp dụng các biện pháp do Bộ luật TTHS để xác định tội phạm và xử lý người
phạm tội”. Như vậy, chức năng thực hành quyền công tố là chức năng đặc biệt
mà khơng có bất kỳ cơ quan Nhà nước nào làm thay Viện kiểm sát. Vấn đề
này đã được đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch UBTV Quốc hội kết luận tại
Hội nghị thảo luận báo cáo của VKSNDTC tháng 7 năm 1967: “Khơng có cơ
quan Nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử dụng quyền công tố.
Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội hay khơng, có
đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước hay khơng, điều đó chính
là Viện kiểm sát phải trơng nom đảm bảo làm tốt”.
Qua những nội dung trên, có thể đưa ra khái niệm rằng: “Thực hành

quyền công tố là việc Viện Kiểm sát sử dụng các biện pháp do luật định để
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra
trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó”.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH NĂNG LỰC CỦA KIỂM
SÁT VIÊN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG CỐ TẠI PHIÊN TỒ HÌNH SỰ

1.2.1. Khái niệm năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân trong thực hành quyền công tố tại phiên tịa hình sự
Nghiên cứu chất lượng, hiệu quả đạt được của tổ chức, cơ quan qua thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao thì vấn đề cơ bản là phải xem xét vai trò,
năng lực của các cá nhân là thành viên trong tổ chức, cơ quan đó. “Năng lực


25
là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một
loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”[13, tr.661] của những cá nhân cụ
thể thông qua các mối quan hệ xã hội mà cá nhân đó tiếp nhận, thực hiện
nhiệm vụ trong mơi trường lĩnh vực công việc được xác định. Trong lĩnh vực
tố tụng hình sự, tại phiên tịa xét xử án hình sự đó là những chủ thể thể hiện
khả năng cụ thể của mình, thực hiện quyền và trách nhiệm trong khuôn khổ
do pháp luật quy định.
Tranh tụng tại phiên tòa, nếu xét về bản chất là một cuộc điều tra cơng
khai với đầy đủ sự tham gia của phía buộc tội, phía bào chữa và Hội đồng xét
xử. Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên được thể hiện từ thời điểm mở
phiên tòa và kết thúc sau khi Hội đồng xét xử cơng khai phán quyết. Do vậy,
nó không chỉ thể hiện riêng biệt ở một giai đoạn cụ thể nào qua điều hành của
Hội đồng xét xử mà là trong suốt quá trình xét xử vụ án tại PTHS như: giai
đoạn bắt đầu từ lúc khai mạc và kết thúc trước khi Kiểm sát viên công bố cáo
trạng; giai đoạn cáo trạng được công bố đến trước khi Kiểm sát viên trình bày
quan điểm vụ án; giai đoạn Kiểm sát viên trình bày quan điểm của Viện Kiểm

sát (như luận tội hoặc kết luận) và kết thúc trước khi Hội đồng xét xử nghị án,
đặc biệt là giai đoạn tranh luận của phía buộc tội và phía bào chữa, xem “Đây
là giai đoạn trung tâm, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng giữa các bên và
được thực hiện ở phần tranh luận tại phiên tòa” [14, tr.54]; giai đoạn sau khi
bị cáo nói lời sau cùng và kết thúc trước khi Hội đồng xét xử công bố phán
quyết của vụ án (xem như trùng với thời gian nghị án của Hội đồng xét xử),
còn gọi là giai đoạn thực hiện chức năng xét xử của tòa án; giai đoạn tuyên án
công khai của Hội đồng xét xử tại phiên tịa, đây là giai đoạn cơng bố kết quả
của quá trình tranh tụng. Là các giai đoạn khác nhau của q trình tranh tụng
nhưng giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ theo trình tự luật định và nội dung
của q trình này chính là hoạt động của các chủ thể thực hiện chức năng quy
định của luật tố tụng hình sự để đánh giá, kiểm tra chứng cứ tại phiên tòa và


×