Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.65 KB, 101 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước ta là "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân". Tính ưu việt của Nhà nước ta không chỉ được xác
định bởi bản chất tiền phong, cách mạng và khoa học của giai cấp cơng nhân
Việt Nam mà cịn phụ thuộc vào phương thức quản lý khoa học và hiện đại,
được coi là biện pháp đảm bảo vững chắc, lâu dài cho Nhà nước trong quá
trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do
Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước trên cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện.
Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhà nước được tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật,
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ". Như vậy, khi thực hiện quản lý bất
kỳ lĩnh vực xã hội cụ thể nào, Nhà nước đều phải dùng pháp luật như một công
cụ phổ biến và hữu hiệu nhất. Trong quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý cũng như
việc thực hiện và "thụ hưởng" dịch vụ pháp lý miễn phí này lại càng phải tuân
thủ theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa do Hiến pháp quy định.
Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng
xã hội, thực hiện ngun tắc Hiến định, mọi cơng dân đều bình đẳng trước
pháp luật, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về kinh
tế, văn hóa, xã hội nhằm khắc phục những tiêu cực vốn có của nền kinh tế thị
trường. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quan tâm chỉ đạo: “… Cần phải mở
rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thơng, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng
của các tầng lớp nhân dân nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng
xử pháp luật của công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày…; cần nghiên


2


cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân
dân sống và làm việc theo pháp luật”, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tiếp tục khẳng định: Cần “tổ chức hình
thức tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho
người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí…”.
Dưới góc độ quản lý, xét về mặt bản chất, hoạt động trợ giúp pháp lý là
chức năng xã hội của Nhà nước, thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm đưa pháp luật vào
cuộc sống của mọi tầng lớp dân cư, qua đó Nhà nước thực hiện quản lý mọi
mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật.
Tổ chức trợ giúp pháp lý khơng chỉ góp phần đưa chủ trương, chính
sách xóa đói, giảm nghèo về mặt pháp luật, đền ơn đáp nghĩa, đảm bảo công
bằng xã hội của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống mà còn tạo ra cơ chế bảo
đảm cho mọi công dân dù giàu hay nghèo đều bình đẳng trước pháp luật, đều
được tiếp cận với dịch vụ pháp lý như nhau trong điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trợ giúp pháp lý ra đời đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý của nhân dân,
góp phần nâng cao trình độ dân trí pháp lý và ý thức pháp luật để nhân dân tự
mình biết cách ứng xử phù hợp với các quy định của pháp luật, thực hiện
pháp luật, tự mình sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Trên cơ sở đó góp phần làm lành mạnh quan hệ xã hội, xây dựng nếp
sống văn minh “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý mà phát hiện được sự chồng
chéo, thiếu đồng bộ và không phù hợp của hệ thống pháp luật và sự bất cập
trong hoạt động của cơ quan Nhà nước, của hoạt động cơng vụ. Từ đó
thơng qua hoạt động trợ giúp pháp lý sẽ có những kiến nghị cần thiết góp
phần hồn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thiện bộ máy nhà nước và nâng
cao trách nhiệm hoạt động công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên



3
chức nhà nước, đồng thời góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước và của cơng dân.
Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách là một
chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta để thực hiện nguyên tắc mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật được quy định tại Hiến pháp và góp phần
bảo đảm cơng bằng xã hội. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 734/TTg ngày 06 tháng 9 năm 1997 thành lập hệ thống tổ chức
trợ giúp pháp lý của Nhà nước, bao gồm Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư
pháp và 63 Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thuộc Sở Tư pháp. Qua hơn
16 năm hoạt động, hệ thống trợ giúp pháp lý đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, góp phần thiết thực tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật cũng như
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho hàng triệu người, góp phần tích cực vào
q trình tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm quyền con người, tăng cường
dân trí pháp lý, thực hiện dân chủ, tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo đảm ổn
định đời sống, xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế trong
điều kiện đổi mới của đất nước.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng trong quá trình
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, khi sự phân hóa giàu nghèo diễn ra một cách sâu sắc, các đối tượng thuộc
diện được trợ giúp pháp lý ngày càng khó tiếp cận với các dịch vụ pháp lý thì
hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Vĩnh Phúc cũng như hoạt động trợ giúp
pháp lý của cả nước vẫn chưa đạt được mục đích đã đề ra. Nguyên nhân xuất
phát từ hệ thống pháp luật về trợ giúp pháp lý vẫn còn nhiều bất cập đặc biệt
là việc quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, việc khẳng định
vị trí, vai trị của Trợ giúp viên pháp lý trong hoạt động tố tụng, điều đó đã
gây những khó khăn, cản trở khơng nhỏ tới việc phát triển mạnh mẽ hệ thống
trợ giúp pháp lý trên phạm vi cả nước, ảnh hưởng đến quá trình tác nghiệp



4
của đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
các đối tượng trợ giúp pháp lý. Ngồi ra, cịn những ngun nhân khác như:
Nhận thức về trợ giúp pháp lý còn chưa đầy đủ của người dân thậm chí của cả
cán bộ, công chức, của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội; đội ngũ người thực
hiện trợ giúp pháp lý còn yếu về chất lượng, thiếu về số lượng; cơ sở, trang thiết
bị phục vụ công tác trợ giúp pháp lý, kinh phí hoạt động cịn thiếu,…
Nhà nước với vai trò là nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện
trợ giúp pháp lý, cần phải có các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý,
khắc phục những khó khăn, bất cập tồn tại trên. Do vậy, trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, vấn đề cấp
thiết là phải bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ
giúp pháp lý.
Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng, nghiên cứu vấn đề “Quản ly
Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp ly ở tỉnh Vĩnh
Phúc” là cần thiết trong quá trình Vĩnh Phúc nói riêng, cả nước nói chung
đang phát triển mạnh mẽ về mọi mặt.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trợ giúp pháp lý và vấn đề quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động trợ giúp pháp lý là một vấn đề cấp thiết trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay, đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu về vấn đề trợ giúp pháp lý, có thể kể tên một số cơng
trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
2.1. Về đề tài khoa học
Đến nay, có 02 cơng trình nghiên cứu về trợ giúp pháp lý cấp Bộ đã
cơng bố, đó là:
- Mơ hình, tổ chức trợ giúp pháp lý và phương hướng hoàn thiện trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam do Viện Nghiên cứu
Khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện năm 1999. Nội dung đề tài đã



5
phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn của việc thành lập các tổ chức trợ giúp pháp
lý ở Việt Nam, đưa ra khái niệm trợ giúp pháp lý theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp, phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, đề ra phương
hướng hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý, đề
tài kiến nghị sớm ban hành Pháp lệnh trợ giúp pháp lý.
- Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh trợ giúp pháp lý
do Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện năm 2004, trên cơ
sở nghiên cứu, các tác giả nêu ra nhiều kết luận quan trọng về cơ sở lý luận
khoa học và thực tiễn của hoạt động trợ giúp pháp lý như: Tiền đề về kinh
tế, chính trị, xã hội và những quan điểm chỉ đạo xây dựng Pháp lệnh trợ
giúp pháp lý, đối tượng, phương pháp, phạm vi trợ giúp pháp lý, thực tiễn
áp dụng và kiến nghị, thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý yêu
cầu đổi mới và những vấn đề cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về trợ giúp
pháp lý. Đề tài đưa ra phương hướng và giải pháp xây dựng Pháp lệnh trợ
giúp pháp lý.
Hai công trình nghiên cứu tuy ở hai thời điểm khác nhau nhưng tựu
chung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh trợ giúp pháp
lý phù hợp điều kiện, hồn cảnh ở Việt Nam. Ngồi ra, có thể kể đến báo cáo
tổng hợp "Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng hoàn
thiện" của nhóm nghiên cứu do TS. Ngơ Đức Mạnh làm trưởng nhóm thực
hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật của UNDP tài trợ cho Bộ Tư pháp trong khuôn khổ
Dự án VIE/02/015 (hỗ trợ thực thi Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010) của trung tâm thông tin thư viện và nghiên cứu khoa
học thuộc Văn phòng Quốc hội. Trên cơ sở kết quả khảo sát 11 tỉnh, thành
phố trong cả nước, nhóm nghiên cứu đã đưa ra báo cáo đánh giá thực trạng
hoạt động trợ giúp pháp lý, chỉ ra hạn chế, nguyên nhân của các hạn chế, đề ra
phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý ở

Việt Nam.


6
2.2. Về luận án, luận văn
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Văn Tùng bảo vệ tại Học
viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007, với đề tài:
"Quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt
Nam hiện nay". Luận án phân tích thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp
bảo đảm quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý nhằm nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý,
phù hợp với chủ trương phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo
và người được trợ giúp pháp lý khác của Đảng, từng bước xã hội hóa các
chính sách xã hội, xã hội hóa các hình thức dịch vụ cơng cộng, phát huy sự
tham gia của các nguồn lực xã hội vào quá trình trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và các đối tượng chính sách ở nước ta.
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Tạ Thị Minh Lý, bảo vệ tại trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2008, với đề tài: "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp
pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới". Luận án phân tích những vấn đề
lý luận cơ bản của điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý để xây dựng cơ sở
khoa học nhằm đánh giá thực tiễn điều chỉnh về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam,
ngoài ra còn làm rõ và sâu sắc hơn về nội dung các quan hệ pháp luật cần điều
chỉnh, mức độ điều chỉnh, phát triển các luận cứ khoa học và đưa ra các đề
xuất, kiến nghị phương hướng tiếp tục đổi mới điều chỉnh pháp luật về trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam. Đây là một cơng trình đầu tiên đề cập và giải quyết
một cách có hệ thống, tồn diện vấn đề trợ giúp pháp lý từ góc độ điều chỉnh
pháp luật.
- Luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước
và pháp luật của tác giả Đặng Thị Loan bảo vệ tại khoa Luật, Đại học Quốc

gia Hà Nội, năm 2009, với đề tài: "Phát triển trợ giúp pháp lý tại cơ sở". Luận
văn tiếp tục góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc


7
tổ chức thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực
trạng hoạt động trợ giúp pháp lý ở cơ sở, tác giả xác định quan điểm, giải
pháp bảo đảm tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở cơ sở ngày càng tốt hơn.
Luận văn thạc sĩ luật học của Vũ Việt Tiến- Trung tâm Trợ giúp pháp lý
Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2012,
với đề tài: “Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc”. Luận văn đã tập trung phân tích đánh giá về thực trạng thực hiện pháp
luật về trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách ở
tỉnh Vĩnh Phúc. Trên cơ sở đó, đưa ra quan điểm và giải pháp để bảo đảm
thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối
tượng chính sách ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và cả nước nói chung.
- Ngồi ra cịn có các cơng trình nghiên cứu có nội dung liên quan đến
quản lý nhà nước bằng pháp luật như: Luận án "Quản lý Nhà nước bằng pháp
luật đối với hoạt động du lịch ở Việt Nam", tác giả Trịnh Đăng Thanh, bảo vệ
năm 2004. Luận án phân tích thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với hoạt động du lịch, đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý
nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Việt Nam trên các khía
cạnh hồn thiện hệ thống pháp luật về du lịch, tăng cường hiệu quả công tác
tổ chức thực hiện pháp luật đối với hoạt động du lịch, tăng cường hoạt động
kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật đối với hoạt động du lịch.
Các cơng trình nghiên cứu trên đây mới chỉ đề cập về trợ giúp pháp lý nói
chung ở Việt Nam, hoặc đề cập đến vấn đề thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp
lý ở tỉnh hoặc có nghiên cứu nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật nhưng
chưa có cơng trình nào nghiên cứu về quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động trợ giúp pháp lý ở địa phương nói chung, cũng như ở tỉnh Vĩnh Phúc

nói riêng. Vì vậy việc lựa chọn vấn đề nghiên cứu của tác giả đảm bảo tính thời
sự và khơng trùng lặp. Mặc dù vậy, các cơng trình nghiên cứu trên vẫn là nguồn
tài liệu quý giá được tham khảo trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.


8
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu và làm rõ các vấn đề
lý luận và thực tiễn trong quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
trợ giúp pháp lý ở tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó nêu lên những vướng mắc, tồn đọng
và đề xuất các kiến nghị, giải pháp bảo đảm quản lý Nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn: Luận văn phân tích cơ sở lý luận về quản
lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, đồng thời,
phân tích, đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Vĩnh Phúc thời gian từ khi thành lập Trung tâm
Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc đến nay. Trên cơ sở phân tích,
đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm hiệu
quả quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh
Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh
Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khơng gian: Luận văn nghiên cứu q trình ban hành văn bản
pháp luật về quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý, công tác quản lý chất lượng
thực hiện trợ giúp pháp lý, quản lý tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp
lý cũng như tổ chức quản lý Nhà nước về trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh

Vĩnh Phúc.
- Phạm vi thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thời gian từ khi
thành lập Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc (năm 1998)
đến nay.


9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở ly luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng và hoàn
thiện nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của triết học Mác- xít, ngồi ra tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp
nghiên cứu hệ thống, so sánh, tổng hợp, phân tích,… Qua đó giải quyết từng
bước các nhiệm vụ nhằm đạt được mục đích của luận văn đã đề ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn nêu một cách có hệ thống về thực trạng quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Vĩnh Phúc, phân tích,
đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế tồn tại làm cơ sở để vận
dụng khi đề xuất các giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
Luận văn trên cơ sở bám sát tình hình địa phương, mà cụ thể là quản lý
nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Vĩnh Phúc,
đã luận chứng một cách khoa học và khả thi hoạt động quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách
của tỉnh, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Khẳng định vai trò nòng cốt của Nhà nước trong việc tổ chức

thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua công cụ chủ yếu là pháp luật, tiến tới giai
đoạn Nhà nước đóng vai trị thu hút, điều phối nguồn lực để mơ hình tổ chức
tham gia trợ giúp pháp lý của xã hội ngày càng phát triển; tăng cường vai trò
kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với việc thực hiện pháp luật về trợ giúp
pháp lý.


10
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn nêu lên thực trạng, những bất cập trong quản lý Nhà nước
bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó tìm
ra những nguyên nhân và giải pháp bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, góp
phần phát triển trợ giúp pháp lý phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, cải
cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế tổ chức
thực hiện pháp luật cũng như định hướng phát triển ngành Tư pháp giai đoạn
hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được chia làm 03 chương, 08 tiết.


11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

1.1.1. Quá trình ra đời và phát triển của trợ giúp pháp lý
So với nền tư pháp nhân dân của chế độ mới với một bề dày lịch sử,

gắn liền với sự ra đời, phát triển và trưởng thành của nhà nước kiểu mới- nhà
nước dân chủ nhân dân thì trợ giúp pháp lý ra đời có phần muộn hơn và cũng
còn là hoạt động tương đối mới mẻ ở Việt Nam. Hoạt động này mới chỉ ra đời
vào những năm cuối của thế kỷ XX (1997) trên nền tảng những thành tựu
phát triển vượt bậc của 10 năm đổi mới, sự kiểm nghiệm thành công của
những định hướng đúng đắn được vạch ra trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự phát triển của dịch vụ
pháp lý, đặc biệt là nghề luật sư ở Việt Nam. Có thể nói, quan điểm của Đảng
lấy con người làm trung tâm trong mọi định hướng phát triển của đất nước đã
tạo cơ hội cho sự hình thành và phát triển, dần đi đến hoàn thiện của dịch vụ
pháp lý ở Việt Nam. Cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và
vì dân và nhu cầu giúp đỡ pháp luật của nhân dân ngày một cao đã trở thành
động lực quan trọng mang tính quyết định thúc đẩy TGPL ra đời và phát triển.
Với sự ra đời của một loạt các Sắc lệnh qua các năm như: Sắc lệnh số
46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức đoàn thể luật sư; Sắc lệnh số 13/SL ngày
24/01/1946 về tổ chức các Toà án và các ngạch thẩm phán; Sắc lệnh số
163/SL ngày 23/3/1946 về tổ chức các Toà án binh và Sắc lệnh số 69/SL ngày
18/6/1949; Sắc lệnh số 113/SL ngày 28/6/1946, những hoạt động mang tính
chất trợ giúp pháp lý đã ra đời dưới hình thức “tư pháp bảo trợ”, gắn liền với
yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa của "bị can, bị cáo". Hoạt động này chủ yếu


12
do các luật sư, cán bộ, công chức nhà nước và các công dân khác không phải
là luật sư thực hiện dưới sự trợ giúp, bảo đảm kinh phí từ phía nhà nước.
Dựa trên nền tảng là bản Hiến pháp năm 1946, đến các bản Hiến pháp
tiếp theo (năm 1959, 1980, 1992) vấn đề "tư pháp bảo trợ" được tiếp tục thể
hiện qua nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Năm 1982,
Việt Nam tham gia 2 Cơng ước lớn đó là: Cơng ước về các quyền kinh tế, xã

hội và văn hố; Cơng ước về các quyền dân sự và chính trị. Theo Điều 14,
điểm 3 phần d Công ước về các quyền dân sự và chính trị, q trình xét xử
một tội hình sự, mỗi người đều có quyền địi hỏi một cách hồn tồn bình
đẳng những bảo đảm tối thiểu là “được có mặt trong khi xét xử và được tự
bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ về pháp lý do mình chọn; nếu chưa có sự giúp
đỡ về pháp lý thì phải được thông báo về quyền này; trong trường hợp do lợi
ích của cơng lý địi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự giúp đỡ pháp lý mà
người đó khơng phải trả tiền nếu khơng có đủ điều kiện trả”. Việc tham gia
các Cơng ước này địi hỏi Nhà nước ta phải đổi mới tư duy về quyền được
tiếp cận luật sư, người có kiến thức pháp luật của mọi công dân không phân
biệt giàu nghèo, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định tư
pháp bảo trợ với nội dung và phương thức mới, không chỉ dừng lại ở bảo đảm
quyền bào chữa mà còn gắn với quyền được tiếp cận và sử dụng pháp luật của
cơng dân, nhất là những người có hồn cảnh đặc biệt (khơng có đủ điều kiện
trả tiền) nhằm bảo đảm công bằng xã hội.
Năm 1987 với sự ra đời của Pháp lệnh tổ chức luật sư, đã tạo cơ sở cho
việc hình thành và phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam. Theo đó, luật sư thực
hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác có giảm phí hoặc miễn thù
lao cho một số cơng dân và tổ chức trong một số trường hợp cụ thể.
Trước bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, việc mở rộng quan hệ đầu tư, hợp tác với nước ngồi ngày càng địi
hỏi phải phát triển thị trường dịch vụ pháp lý của luật sư. Yêu cầu đó đặt ra


13
vấn đề cần tạo môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của các
tổ chức luật sư nước ngồi vào hành nghề tại Việt Nam nhằm góp phần thúc
đẩy đầu tư và phát triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Ngày
18/5/1995, tại phiên họp Ban Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Tổng Bí thư
Đỗ Mười khẳng định: “Chúng ta cần chú ý đến các biện pháp để tăng cường

hoạt động pháp lý mang tính kinh doanh, dịch vụ phục vụ đầu tư nhưng cũng
cần chú trọng công tác tư vấn, hướng dẫn pháp luật cho nhân dân, mà đặc biệt
là người nghèo, đồng bào dân tộc ít người. Cơng tác này chưa được quan tâm
đúng mức. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu và làm ngay trong thời
gian tới”.
Đến ngày 31/5/1995, Văn phịng Trung ương Đảng đã có Cơng văn số
485/CV-VPTW thơng báo ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư gửi Ban cán sự Đảng
Chính phủ, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đề nghị “xác định phạm vi thích
hợp hoạt động tư vấn pháp luật của tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội và cá
nhân, trước hết chú trọng tổ chức tư vấn pháp luật của nhà nước…; cần
nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn
nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”.
Trên cơ sở những kết quả bước đầu, cùng với kinh nghiệm tổ chức và
hoạt động trợ giúp pháp lý của các nước phát triển và xu hướng vận động,
phát triển của trợ giúp pháp lý trên thế giới, Bộ Tư pháp đã hoàn thiện Đề án
về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý và báo cáo xin ý kiến Trung ương,
Chính phủ. Ngày 17/3/1997, tại buổi làm việc với Bộ Tư pháp, đồng chí Võ
Văn Kiệt, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ đã
nhấn mạnh: “Chúng ta khơng sợ dân đi kiện, vấn đề là làm sao để dân kiện
đúng, kiện đúng người, đúng việc, đúng chỗ nếu họ bị oan sai, giúp Nhà nước
phát hiện những vi phạm công vụ, những “con sâu bỏ dầu nồi canh”, khắc
phục bất cập của Nhà nước đối với những vướng mắc của người dân. Các tổ
chức trợ giúp pháp lý ra đời sẽ giúp dân và Nhà nước giải quyết vấn đề này”.


14
Tại kỳ họp lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, lần
đầu tiên Trung ương Đảng ghi nhận trong Nghị quyết định hướng chỉ đạo
triển khai công tác trợ giúp pháp lý: “Tổ chức hình thức tư vấn pháp luật cho
các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng

dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí”. Đây là cơ sở chính trị- pháp lý quan trọng,
khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp
cận với pháp luật của người nghèo, phù hợp với truyền thống, đạo lý của dân tộc
Việt Nam “lá lành đùm lá rách”, “đền ơn đáp nghĩa”; thể hiện bản chất tốt đẹp
của chế độ ta trong việc thực hiện dân chủ, hướng về cơ sở, gần dân, sát dân, tạo
thuận lợi cho nhân dân trong tiếp cận pháp luật. Không chỉ vậy, việc ghi nhận
trong Nghị quyết thể hiện sự nhất quán trong quan điểm quản lý xã hội bằng
pháp luật, bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân theo pháp
luật và phù hợp với xu thế phát triển của cộng đồng quốc tế.
Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
734/TTg thành lập hệ thống tổ chức TGPL cho người nghèo, đối tượng chính
sách tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời hệ thống tổ chức TGPL của Nhà nước.
Theo đó, ở Trung ương, Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư pháp được thành
lập, ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Trung tâm TGPL của Nhà
nước trực thuộc Sở Tư pháp được thành lập. Cục TGPL vừa có chức năng
giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp QLNN về TGPL, vừa trực tiếp thực hiện TGPL
trong trường hợp cần thiết; thực hiện việc hợp tác quốc tế về TGPL và quản lý
Quỹ TGPL; tổ chức bồi dưỡng, đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng
TGPL cho đội ngũ cán bộ TGPL và CTV; tham gia phổ biến và giáo dục pháp
luật cho người nghèo và đối tượng chính sách. Trung tâm TGPLNN có chức
năng thực hiện TGPL miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách.
Cục TGPL và Trung tâm TGPL của Nhà nước được sử dụng CTV.
Ngày 14/01/1998, liên bộ Tư pháp - Tài chính - Tổ chức Cán bộ Chính
phủ - Lao động, Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư liên tịch số


15
52/TTLT/TP-TC-TCCP-LĐTBXH hướng dẫn thi hành Quyết định số
734/TTg. Theo đó, người được TGPL bao gồm: Người nghèo và đối tượng
chính sách, cụ thể là người thuộc hộ đói, nghèo; người hoạt động cách mạng

trước tháng 8 năm 1945; Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân; Anh hùng lao động; Thương binh, người hưởng chính sách
như thương binh, bệnh binh mất sức lao động từ 61% trở lên; vợ (hoặc
chồng), cha mẹ đẻ, người có công nuôi liệt sĩ, con liệt sĩ dưới 18 tuổi; người
có cơng giúp đỡ cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số cư trú ở vùng cao,
vùng sâu, vùng xa, hẻo lánh, hải đảo và các đối tượng được miễn án phí. Cục
TGPL thực hiện TGPL đối với các vụ việc mà Trung tâm TGPL của Nhà nước
chuyển lên do có vướng mắc hoặc khơng thực hiện được và các vụ việc do
các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan ở Trung ương chuyển đến. Trung tâm
TGPL của Nhà nước có chức năng thực hiện TGPL miễn phí và tham gia
PBGDPL. Trung tâm có nhiệm vụ tư vấn, đại diện, bào chữa miễn phí cho
người được TGPL trong các vụ việc liên quan đến pháp luật về hình sự, tố
tụng hình sự; dân sự - hơn nhân gia đình và tố tụng; hành chính và khiếu nại,
tố cáo; lao động, việc làm; đất đai, nhà ở và các lĩnh vực pháp luật khác liên
quan đến quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của công dân không thuộc lĩnh
vực kinh doanh thương mại.
Ngày 01/03/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số
05/2000/CT-TTg về việc tăng cường công tác TGPL. Chỉ thị đã đánh giá:
Trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2000, các Bộ, ngành và Ủy ban nhân
dân các cấp đã nỗ lực, công tác TGPL đã được triển khai thực hiện khẩn
trương, nghiêm túc và có hiệu quả, tạo điều kiện cho nhiều người nghèo và
đối tượng chính sách hiểu biết pháp luật, giúp họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp... Chỉ thị xác định TGPL là một bộ phận trong tổng thể chính sách thực
hiện dân chủ ở cơ sở; thiết lập quan hệ phối hợp trong hoạt động TGPL, làm
rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc trả lời các kiến


16
nghị của tổ chức TGPL, thiết lập cơ chế để hướng dẫn các tổ chức chính trị xã hội tham gia công tác này.
Năm 2001 Pháp lệnh Luật sư được thông qua, Pháp lệnh đã thiết lập cơ

chế pháp lý khuyến khích, huy động đội ngũ luật sư tham gia TGPL miễn phí
cho người nghèo và đối tượng chính sách. Ngày 05/8/2002, Bộ trưởng Bộ Tư
pháp ban hành Quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề luật sư kèm theo Quyết
định số 356/2002/QĐ-BTP. Theo Quy chế việc thực hiện TGPL là nghĩa vụ
cao cả của các luật sư. Để khuyến khích những người có trình độ pháp luật
thực hiện tư vấn pháp luật cho nhân dân trong phạm vi và khả năng, ngày
11/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 65/2003/NĐ-CP về tổ chức
và hoạt động tư vấn pháp luật. Nghị định đã tạo cơ sở pháp lý cho việc phát
triển loại hình tư vấn pháp luật của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp cho phép các tổ chức này thực hiện tư vấn pháp luật có thu phí để
bù đắp ngân sách cho hoạt động giúp đỡ pháp lý miễn phí cho thành viên, hội
viên của tổ chức này và tham gia TGPL cho người nghèo, đối tượng chính sách.
Theo quy định tại Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ Tư pháp; Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ
quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh; Nghị định
số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và Thông tư liên tịch số
04/2005/TTLT-TP-NV ngày 05/5/2005 của liên bộ Tư pháp và Nội vụ hướng
dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan chuyên
môn giúp UBND thực hiện QLNN về công tác tư pháp ở địa phương, đã xác
định rõ Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phịng Tư pháp là cơ quan có chức năng
QLNN và trực tiếp thực hiện TGPL.
Kịp thời thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng
về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế đi đôi với bảo


17
đảm công bằng xã hội, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tiếp
tục xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật, giúp đỡ pháp luật cho nhân
dân theo tinh thần, nội dung nêu tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ IX, lần thứ X và các Nghị quyết của Bộ Chính trị, trong đó có Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, khuyến khích phát triển nghề luật sư trong bối cảnh hội nhập quốc tế,
ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Luật sư và Luật Trợ giúp pháp
lý. Sự ra đời của hai đạo luật này đã thể hiện nhất quán chính sách của Đảng
và Nhà nước ta trong việc giúp đỡ pháp luật, hỗ trợ về mặt pháp lý để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho nhân dân đặc biệt là người nghèo và đối tượng
chính sách, đánh dấu bước chuyển biến về chất và đưa công tác TGPL lên một
tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn đất nước.
1.1.2. Khái niệm hoạt động trợ giúp pháp lý
Hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam có nhiều cách hiểu khác nhau về
TGPL. Hầu hết pháp luật của các nước trên thế giới dựa trên lý luận về nhân
quyền và bảo đảm nhân quyền, coi TGPL như là một biện pháp bảo đảm tư pháp
dành cho người khơng có điều kiện kinh tế để tiếp cận sử dụng pháp luật.
Ở nước ta, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý” được đề cập trong các văn kiện
của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước từ năm 1995, mà trước hết trong
Thông báo số 485/CV-VPTW về ý kiến chỉ đạo Ban Bí thư TW Đảng ngày
31.5.1995 của Văn phòng TW Đảng “…cần nghiên cứu lập hệ thống không
lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật” [50, tr.58].
Tuy thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” khơng chính thức dùng trong văn bản này
nhưng bản chất, nội dung của thông báo trên đã diễn tả đặc trưng cơ bản của
hoạt động TGPL là “khơng lấy tiền”. Sau đó, thuật ngữ này bắt đầu xuất hiện
trên các tài liệu nghiên cứu, sách, báo. Đến năm 1996, thuật ngữ ‘trợ giúp


18
pháp lý” được sử dụng trong tiêu đề của Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ
mã số 96-98-034/ĐT Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp về “Mơ hình tổ chức

và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện
nay”. Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” chính thức sử dụng trong Quyết định số
734/TTg ngày 06.9.1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức
TGPL cho người nghèo và chế độ chính sách. Tiếp sau đó, thuật ngữ “trợ giúp
pháp lý” được đề cập trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật và hiện nay, nó
xuất hiện ngày càng nhiều trong các văn bản pháp luật, trên sách báo và trở
nên quen thuộc với các nhà quản lý, nhà nghiên cứu, và nhân dân. Mặt khác,
đa số giới khoa học pháp lý đều cho rằng khởi nguồn của việc thực hiện pháp
luật về TGPL miễn phí là từ việc cung cấp các dịch vụ pháp lý từ thiện một
cách đơn lẻ của các luật sư.
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” là một cụm từ ghép “trợ giúp” và “pháp
lý”; cụm từ “trợ giúp” hiện có nhiều cách giải thích khác nhau, theo Đại Từ
điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, Nxb Văn hoá -Thơng tin, 1999 thì "trợ giúp”
được hiểu là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem cho ai cái gì
đang lúc khó khăn, đang cần đến”. Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nxb.TP Hồ
Chí Minh thì “trợ giúp” là “góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một
việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công”. Từ điển tiếng Việt của Nxb.
Khoa học xã hội, 1994 thì "TrỢ giúp” có nghĩa là “giúp đỡ”. Thuật ngữ "pháp
lý” được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, nói một cách khái quát: Pháp lý là
lý luận, luận điểm cơ bản đối với pháp luật của một chế độ. Như vậy, “giúp đỡ,
bảo trợ, hỗ trợ” là những cách gọi khác nhau, nhưng về nội dung ngữ nghĩa là
dùng để chỉ sự "trợ giúp” nói chung. Trợ giúp ở đây cần được hiểu theo nghĩa
tích cực là việc giúp để làm giảm bớt khó khăn, nghĩa là hỗ trợ làm cho ai một
việc gì đó hoặc cho ai cái gì đó mà người ấy đang cần, cái đang cần ở đây là
“pháp lý”. Cũng cách hiểu nội hàm của thuật ngữ này, một số tài liệu khác còn
gọi là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc "hỗ trợ tư pháp”.


19
Do thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” mới xuất hiện ở nước ta vào những

năm cuối thế kỷ XX, nên trong quá trình xây dựng “Luật trợ giúp pháp lý”,
những nhà nghiên cứu về hoạt động TGPL đã tham khảo các khái niệm TGPL
của một số nước trên thế giới nói chung và các quan niệm về TGPL ở Việt
Nam nói riêng để đưa ra một số khái niệm TGPL. Theo đó, TGPL được hiểu
theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, TGPL được hiểu là việc thực hiện các dịch vụ pháp lý
miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, người được hưởng chính
sách ưu đãi và một số đối tượng khác do pháp luật quy định thông qua hoạt
động tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết vụ việc và
tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi cơng
dân bình đẳng trong tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện cơng bằng xã
hội.
Theo nghĩa hẹp, TGPL được hiểu là việc thực hiện các dịch vụ pháp lý
miễn phí của các tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước cho người nghèo và
người được hưởng chính sách ưu đãi thơng qua hình thức tư vấn pháp luật,
đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết các vụ việc và tham gia thực hiện
phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi cơng dân bình đẳng
trong tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện cơng bằng xã hội.
Ngồi ra, cũng có quan niệm cho rằng: TGPL là việc Nhà nước, các tổ
chức xã hội và các cá nhân thực hiện việc cung ứng các dịch vụ pháp lý miễn
phí hoặc có thu phí nhưng thấp hơn giá trị của dịch vụ bao gồm đại diện, bào
chữa, tư vấn pháp luật và các loại hình giúp đỡ pháp luật khác cho những đối
tượng nhất định.
Như vậy, trước khi Luật trợ giúp pháp lý ra đời, các nhà nghiên cứu
pháp lý đưa ra khái niệm TGPL chủ yếu dựa vào đối tượng được hưởng trợ
giúp pháp lý hay nhấn mạnh chủ thể thực hiện TGPL, hoặc tính chất của hoạt
động TGPL. Cho dù nhìn nhận ở khía cạnh nào, nhưng mục đích ra đời của


20

hoạt động TGPL vừa hướng đến bảo đảm công bằng xã hội, vừa phù hợp với
khả năng thực tế về Ngân sách của Nhà nước ta trong việc chi trả cho hoạt
động này.
Luật TGPL được Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua
ngày 29 tháng 6 năm 2006 tại kỳ họp thứ 9, khoá XI, tại Điều 3 của Luật đã
đưa ra khái niệm về TGPL: Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý
miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý, giúp người được trợ giúp pháp lý
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức
tơn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp
luật, bảo vệ công lý, đảm bảo cơng bằng xã hội, phịng ngừa, hạn chế tranh
chấp và vi phạm pháp luật.
Qua các khái niệm được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của các
nước cũng như các khái niệm đang tồn tại ở nước ta, có thể thấy, TGPL được
hiểu là sự giúp đỡ về mặt pháp lý, bằng nhiều hình thức khác nhau, của Nhà
nước và của xã hội cho những người không có khả năng về kinh tế để chi trả
cho các chi phí pháp lý. Trong điều kiện hiện nay, pháp luật là hệ thống các
quy phạm do Nhà nước ban hành để quản lý xã hội, mọi người dân phải lấy
pháp luật làm chuẩn mực để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó,
theo hướng tiếp cận này, TGPL là sự giúp đỡ thực hiện một công việc nào đó
có liên quan đến thực hiện pháp luật hay nói cách khác là việc cung cấp một
dịch vụ pháp lý cho người đang cần sự giúp đỡ về pháp lý, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho họ theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý
TGPL là hoạt động không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được TGPL.
TGPL là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc
thực hiện, tổ chức thực hiện TGPL.
+ Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp ly


21

Chủ thể thực hiện TGPL là các tổ chức TGPL Nhà nước và các tổ chức
hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị xã hội,
các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Như vậy, hoạt động TGPL là một loại hoạt
động vừa có tính chất nhà nước, vừa mang tính chất xã hội.
Người thực hiện TGPL theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 là Trợ
giúp viên pháp lý, cộng tác viên của Trung tâm TGPLNN, luật sư, tư vấn viên
pháp luật của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật của các
tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp.
+ Đối tượng được trợ giúp pháp ly
Đối tượng được hưởng TGPL miễn phí là người thuộc hộ nghèo; người
có cơng với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số thường trú ở các vùng có
điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; người già cô đơn, người tàn tật,
người nhiễm HIV, nhiễm chất độc hóa học, trẻ em khơng nơi nương tựa.
+ Lĩnh vực trợ giúp pháp ly.
Tại Điều 5, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định về vụ việc TGPL
như sau:
“Vụ việc trợ giúp pháp lý phải liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người được trợ giúp pháp lý và không thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại.”
Như vậy, hoạt động TGPL được thực hiện đối với tất cả các vụ việc có
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong hầu hết
các lĩnh vực pháp luật, trừ các vụ việc có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh,
thương mại.
+ Hình thức trợ giúp pháp ly
Hình thức thực hiện TGPL theo Luật Trợ giúp pháp lý bao gồm:
- Tư vấn pháp luật: Là việc hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung
cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn bản pháp luật liên quan đến vụ
việc TGPL.


22

- Tham gia tố tụng: Là việc người thực hiện TGPL mà trước đây chủ
yếu là Luật sư- cộng tác viên của các Trung tâm TGPLNN, hiện nay với đội
ngũ Trợ giúp viên đông đảo, không chỉ Luật sư cộng tác viên mà cả Trợ giúp
viên pháp lý tham gia tố tụng để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL là người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong vụ án hoặc vụ việc dân sự.
- Đại diện ngoài tố tụng: Là việc Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư cộng
tác viên thực hiện đại diện ngoài tố tụng cho người được TGPL khi họ khơng
thể tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Việc thực hiện đại diện ngoài
tố tụng của Trợ giúp viên và Cộng tác viên là Luật sư được giới hạn trong
phạm vi yêu cầu của người được TGPL.
- Các hình thức TGPL khác: Là việc Trợ giúp viên, cộng tác viên là
Luật sư thực hiện các hình thức TGPL khác cho người được TGPL bằng việc
giúp đỡ họ hồ giải, thực hiện và hướng dẫn các cơng việc cho người được
TGPL liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo
quy định của pháp luật.
+ Tính phi lợi nhuận trong hoạt động trợ giúp pháp ly
Người được TGPL không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí hay thù lao
nào dưới bất kỳ hình thức nào. Kinh phí hoạt động TGPL do ngân sách Nhà
nước cấp và nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước.
Mục đích của hoạt động TGPL là nhằm giúp người được TGPL bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ cơng lý, bảo đảm cơng bằng xã
hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật góp phần bảo đảm
cho mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực hiện cơng bằng xã hội.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ



23
1.2.1. Pháp luật và các công cụ quản lý khác của Nhà nước
Để tiến hành các hoạt động kinh tế- xã hội, trong đó có các hoạt động
TGPL, Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý phải thường xuyên sử dụng
các công cụ quản lý- phương tiện hữu hình hoặc vơ hình, tác động lên đối
tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu của mình. Các cơng cụ quản lý của
Nhà nước bao gồm pháp luật, chính sách, kế hoạch…
- Công cụ pháp luật: Qua nghiên cứu, có nhiều cách tiếp cận khác nhau
về khái niệm cơng cụ pháp luật nhưng dù được tiếp cận dưới góc độ nào thì
pháp luật vẫn là phương tiện để xác định, thiết lập trật tự xã hội, có hiệu lực
bắt buộc và được kiểm soát, bảo đảm, bảo vệ bởi quyền lực nhà nước. Tiếp
cận dưới góc độ QLNN thì pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành
vi hay quy tắc xử sự) có tính bắt buộc chung và được thực hiện lâu dài, nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể
hiện ý chí của Nhà nước và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện
pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy Nhà nước.
Đối với bất cứ Nhà nước nào, để thực hiện tốt việc quản lý đất nước,
pháp luật với tư cách là cơng cụ QLNN đóng vai trị hết sức quan trọng trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nảy sinh liên quan đến chính trị, kinh tế, xã
hội, đạo đức và tư tưởng, trong đó có các hoạt động về TGPL.
- Cơng cụ chính sách của Nhà nước (hay cịn được gọi là chính sách
cơng): Có nhiều khái niệm khác nhau về cơng cụ chính sách cơng, nhưng
phạm trù chính sách cơng ln được xác định thống nhất về bản chất. Đặc
trưng quan trọng của chính sách cơng thể hiện ở việc Nhà nước là chủ thể ban
hành các quyết định có liên quan mang tính định hướng, kích thích phát triển,
hàm chứa các hành vi thực tiễn, tập trung giải quyết một vấn đề nhất định, tác
động đến các đối tượng của chính sách, phục vụ lợi ích chung của cộng đồng
hoặc quốc gia. Xét từ các đặc trưng trên của chính sách, khái niệm sau được
thừa nhận nhiều hơn: "Chính sách cơng là một chuỗi các quyết định hoạt động
của Nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề đặt ra trong đời sống kinh tế - xã



24
hội theo mục tiêu xác định" như chính sách cho người nghèo, chính sách về
bảo hiểm y tế, chính sách quốc gia về pháp luật, chính sách về TGPL cho
người nghèo và các đối tượng chính sách, ...
Như vậy, chính sách là sự thống nhất giữa chủ trương và hành động của
Nhà nước, chính sách giữ vai trị là cơng cụ QLNN mang tính định hướng của
Nhà nước đối với đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, trong đó có các hoạt
động TGPL.
Cơng cụ chính sách chịu sự tác động của cơng cụ pháp luật trong việc
định hình vấn đề, các giải pháp, phương pháp và phạm vi thực hiện các giải
pháp đó. Đồng thời, cơng cụ chính sách lại tạo ra những đối tượng điều chỉnh
mới cho hệ thống pháp luật. Pháp luật là dạng biểu hiện đặc thù của chính
sách nhà nước, nhưng pháp luật cũng là loại công cụ độc lập trong hệ thống
công cụ quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước. Pháp luật mang tính bền vững
hơn, cịn chính sách lại mang tính mềm dẻo hơn.
- Cơng cụ kế hoạch: Nhà nước sử dụng công cụ kế hoạch trong quản lý
kinh tế- xã hội nhằm mục đích định hướng, điều tiết hoạt động của các chủ
thể khác nhau trong phát triển kinh tế- xã hội. Quản lý bằng kế hoạch có tiền
đề khách quan từ bản thân nền kinh tế- xã hội. Trong quản lý nhà nước, kế
hoạch là các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và các biện pháp
cụ thể để đạt được mục tiêu trong từng thời kỳ nhất định do Nhà nước đặt ra.
Cơng cụ kế hoạch có vai trị quan trọng trong quản lý kinh tế- xã hội
nói chung và lĩnh vực y tế nói riêng, được thể hiện ở tính định hướng, điều
tiết và kích thích sự phát triển. Nhờ kế hoạch mà chủ thể và đối tượng quản lý
biết được hướng đi, lựa chọn con đường thích hợp để nhanh chóng đạt tới
mục tiêu, tránh rơi vào các cơng việc sự vụ hàng ngày, hạn chế các hoạt động
trùng lắp, lãng phí thời gian, cơng sức và tiền của do khơng có sự tính tốn,
sắp đặt từ trước. Tuy nhiên, khi nghiên cứu cơng cụ kế hoạch, có thể thấy kế

hoạch sau khi được phê duyệt sẽ trở thành chỉ tiêu pháp lệnh mà đối tượng
quản lý bắt buộc phải thực hiện.


25
Tóm lại, ngồi cơng cụ pháp luật, khi sử dụng các công cụ khác vào
quản lý nhà nước đều phải thực hiện thông qua các quy định của pháp luật
nhưng công cụ pháp luật vẫn là gốc chung của QLNN.
Để quản lý đất nước có hiệu lực, hiệu quả, Nhà nước phải sử dụng
thường xuyên và đồng bộ tất cả các công cụ trên nhưng QLNN bằng pháp luật
luôn được đặt lên hàng đầu. Điều 8 của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam năm 2013 đã khẳng định nguyên tắc cơ bản, nền tảng hoạt động của
Nhà nước là "Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp
luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ". Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta chỉ rõ "Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức,
mọi cơng dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật". Tiếp đó, văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ X khi đề cập đến xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa lại một lần nữa khẳng định "Thực hiện quản lý Nhà nước
bằng hệ thống pháp luật...".
Như vậy, có thể thấy pháp luật chính là cơng cụ quan trọng nhất không
thể thiếu trong việc Nhà nước quản lý xã hội nói chung và đối với các hoạt
động TGPL nói riêng.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về trợ giúp pháp lý
Ở các nước trên thế giới, pháp luật về TGPL được ghi nhận từ nhiều
năm nay. Riêng ở Việt Nam, pháp luật về TGPL mới ra đời trong những năm
gần đây, vì vậy nghiên cứu thực hiện pháp luật về TGPL cần làm rõ khái niệm
pháp luật về TGPL. Dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật,
pháp luật về TGPL bao gồm các quy phạm pháp luật có đặc điểm chung giống
nhau nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội tương ứng, đó là các quan hệ xã hội

phát sinh trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động TGPL, như quan hệ giữa người
được TGPL với nhau, quan hệ giữa người được TGPL với người thực hiện
TGPL, quan hệ giữa người thực hiện TGPL với nhau, quan hệ giữa người


×