Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học -Quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh đồng tháp”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.39 KB, 103 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Tài ngun khống sản là tài sản vô cùng quý giá của quốc gia, là nguồn
lực quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với phát triển kinh tế - xã hội. Việc
bảo vệ, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên khống sản vừa góp phần bảo
vệ mơi trường, vừa phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Xác định
được tầm quan trọng của tài nguyên khoáng sản, thời gian qua Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác
tài nguyên khoáng sản, phục vụ tốt phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đồng Tháp là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có hai
nhánh sơng Tiền Giang và Hậu Giang thuộc sơng Cửu Long chảy qua với
chiều dài khoảng 150 km, tổng trữ lượng cát sông trên địa bàn tỉnh hơn 190
triệu m3. Trong những năm qua, công tác quản lý, khai thác, kinh doanh cát
sông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đã được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở. Việc khai thác tài nguyên khoáng
sản cát trên địa bàn tỉnh diễn ra mạnh mẽ, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh và khu vực, đóng góp đáng kể trong cơ cấu ngành
cơng nghiệp của tỉnh. Các cơ quan chức năng đã giành nhiều thời gian cho
công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động khai thác, kinh doanh cát sông trên địa
bàn tỉnh. Công tác quản lý nhà nước về khai thác cát sông thu được những kết
quả tích cực. Tuy nhiên, tình hình hoạt động khai thác, kinh doanh cát trên các
tuyến sông diễn biến phức tạp, các tàu cuốc, sà lan cần cẩu, xáng guồng, xáng
cạp hoạt động khai thác trái phép vẫn thường xuyên xảy ra, chủ yếu vào ban
đêm, ngày nghỉ, ngày lễ,... vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy nội
địa. Công tác quản lý nhà nước về tài ngun khống sản một số địa phương
cịn bng lỏng, chưa có kế hoạch, biện pháp quản lý cụ thể; sự tham gia vào
cuộc của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở một số địa phương chưa


2


có sự phối hợp đồng bộ. Cá biệt, có tình trạng một số cán bộ lãnh đạo chủ
chốt ở cấp huyện tiếp tay cho các đối tượng khai thác cát trái phép, gây bức
xúc trong nhân dân.
Hoạt động khai thác, kinh doanh cát, sỏi lịng sơng khơng chỉ riêng tỉnh
Đồng Tháp, mà trở thành tình hình nổi cộm trên cả nước, nhất là đối với các
tỉnh có lưu vực sơng. Hậu quả của việc khai thác cát, sỏi lịng sơng trái phép
đã làm thay đổi dòng chảy, ảnh hưởng đến an tồn giao thơng đường thủy nội
địa, sạt lở bờ sông, làm thiệt hại tài sản và ngân sách nhà nước, đe dọa tính
mạng và tài sản của nhân dân sinh sống ở hai bên lưu vực sông, gây mất an
ninh, trật tự tại khu vực khai thác, ảnh hưởng xấu đến tài ngun đất, khống
sản và làm ơ nhiễm nguồn nước mặt. Từ tình hình trên cho thấy việc tăng
cường công tác quản lý khai thác, kinh doanh cát sông trên địa bàn tỉnh Đồng
Tháp là hết sức cần thiết, nhằm thực hiện có hiệu quả cơng tác quản lý nhà
nước bằng pháp luật về khai thác tài nguyên khống sản, đảm bảo phát triển
bền vững, giữ gìn an ninh, trật tự khu vực nông thôn, ổn định đời sống, sản
xuất của nhân dân. Chính vì những lý do đó, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà
nước bằng pháp luật về khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp”
làm luận văn thạc sĩ càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong những năm gần đây, có nhiều bài viết, đề tài, cơng trình khoa học,
nghiên cứu về quản lý nhà nước bằng pháp luật nói chung và quản lý nhà
nước bằng pháp luật về khai thác tài ngun khống sản nói riêng. Trong đó
có một số cơng trình tiêu biểu sau:
2.1. Nhóm các cơng trình liên quan đến quản lý nhà nước bằng pháp
luật trên các lĩnh vực cụ thể
- Lê Thế Tiệm (1996), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về
trật tự an toàn xã hội trong hoạt động của lực lượng cảnh sát nhân dân ở
nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.



3
- Tô Văn Châu (2003), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với đất đai ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
- Vũ Cơng Đồng (2004), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với Tòa
án nhân dân cấp huyện ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc
sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Trần Thu Hà (2005), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về
xuất bản ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
- Tống Thị Hạnh (2008), Quản lý nhà nước bằng pháp luật về đầu tư xây
dựng ở thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Ngơ Kiều Liên (2009), Quản lý nhà nước bằng pháp luật về ưu đãi xã
hội đối với người có cơng ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Trịnh Thị Thu Hương (2009), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ
Luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2011), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với hoạt động nghiên cứu khoa học ở hệ thống Học viện Chính trị - hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Lê Như Phong (2012), “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong liên kết
đào tạo đại học với nước ngoài ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, 3 (287), tr.15.
- Cù Đức Thuận (2012), Quản lý nhà nước bằng pháp luật về công
chứng ở tỉnh Nam Định hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.



4
- Nguyễn Thị Lan Hương (2013), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngồi tại Việt Nam hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
2.2. Nhóm các cơng trình liên quan đến quản lý nhà nước và quản lý
nhà nước bằng pháp luật về khai thác tài nguyên khoáng sản
- Hà Huy Thành (Chủ biên) (2001), Một số vấn đề xã hội và nhân văn
trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Chương trình cấp Bộ (2004), Quản lý nhà nước đối với tài ngun, mơi
trường từ góc độ khoa học xã hội và nhân văn: lý luận và thực tiễn, Kỷ yếu
Hội thảo lần thứ nhất, Hà Nội.
- Hồng Hữu Bình (Chủ biên) (2006), Những tác động của yếu tố văn
hóa - xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, mơi trường trong q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Nguyễn Thành Vinh (2010), Quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo
vệ mơi trường trong hoạt động khống sản than ở Quảng Ninh, Luận văn thạc
sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nhìn chung, các bài viết, đề tài và cơng trình khoa học nghiên cứu kể
trên đã đề cập khá sâu sắc từ những cách tiếp cận khác nhau và đã đưa ra
những luận cứ xác đáng, những bài học, cách làm hiệu quả từ thực tiễn đặt ra
về quản lý nhà nước bằng pháp luật nói chung và đối với khai thác tài ngun
khống sản nói riêng. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách có
hệ thống, tồn diện và cụ thể về quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác
cát sông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Đề tài luận văn là cơng trình khoa học
đầu tiên nghiên cứu quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông
trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Mặc dù vậy, các cơng trình khoa học đã cơng bố
là cơ sở quan trọng để tác giả tham khảo, tiếp thu kiến thức, phục vụ cho quá
trình nghiên cứu, hồn thiện luận văn của mình.



5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp
luật về khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp từ năm 2008 đến nay,
luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật về
khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác
cát sông cụ thể, phân tích và đưa ra quan niệm, chỉ ra các đặc điểm quản lý
nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông;
- Đánh giá đúng thực trạng ưu điểm, khuyết điểm; xác định nguyên nhân
của những hạn chế, khuyết điểm trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về
khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp từ năm 2008 đến nay;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp
luật về khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận văn có đối tượng
nghiên cứu là: những vấn đề lý luận quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác
khoáng sản nói chung, về khai thác cát sơng nói riêng và thực tiễn quản lý nhà
nước bằng pháp luật về khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được giới hạn trên phạm vi nghiên cứu quản lý nhà nước bằng
pháp luật về khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp từ năm 2008 đến
nay và phương hướng, giải pháp đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận

- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng


6
Cộng sản Việt Nam và hệ thống pháp luật Việt Nam về hoạt động quản lý,
khai thác tài nguyên khoáng sản.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời sử dụng một số phương pháp cụ thể như: logic - lịch sử, phân tích - tổng
hợp, đối chiếu - so sánh, thống kê, khảo sát và đặc biệt coi trọng phương pháp
tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
6.1. Về mặt lý luận: Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên
quan đến quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông và đưa ra
quan niệm về quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông trên địa
bàn tỉnh Đồng Tháp.
6.2. Về mặt thực tiễn: Luận văn đánh giá đúng thực trạng việc quản lý
nhà nước về khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp hiện nay; đồng
thời đưa ra một số giải pháp có tính khả thi nhằm bảo đảm quản lý nhà nước
bằng pháp luật về khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về quản lý nhà nước bằng
pháp luật nói chung và quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sơng
nói riêng. Đồng thời, luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
bồi dưỡng, tập huấn công tác quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.



7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
VỀ KHAI THÁC CÁT SÔNG
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ KHAI THÁC CÁT SÔNG

1.1.1. Khái niệm về khai thác cát sông
Theo Từ điển Tài nguyên môi trường, cát là:
1) Đất rời, gồm chủ yếu là các hạt có kích thước từ 2 mm đến 0,05
mm, có chỉ số dẻo nhỏ hơn 0,01. Phân biệt, cát sỏi - lượng chứa các
hạt lớn hơn 2 mm chiếm 25%, cát to - các hạt lớn hơn 2 mm chiếm
trên 50%, cát nhỏ - các hạt lớn hơn 0,25 mm chiếm trên 75% và cát
bụi - các hạt lớn hơn 0,1 mm chiếm dưới 75%. 2) Trầm tích, tự
nhiên của đất khơng kết dính, hoặc do kết quả phân rã của đất đá có
cỡ hạt từ 0,14-5,0 mm. Cát được dùng làm cốt liệu trong vữa, bê
tơng và gạch silicat [12, tr.46].
Có tài liệu lại cho rằng, cát là vật liệu dạng hạt, có nguồn gốc tự nhiên bao
gồm các hạt đá và khoáng vật nhỏ và mịn. Khi được dùng như là một thuật ngữ
trong lĩnh vực địa chất học, kích thước hạt cát theo đường kính trung bình nằm
trong khoảng từ 0,0625 mm tới 2 mm (thang Wentworth sử dụng tại Hoa Kỳ)
hay từ 0,05 mm tới 1 mm (thang Kachinskii sử dụng tại Nga và Việt Nam hiện
nay) [68].
Cát là một dạng khống sản cụ thể, có trong lịng sơng, bãi biển. Cát
sông thông thường dùng để làm vật liệu xây dựng, san lấp mặt bằng.
Dưới góc độ pháp luật, Luật khống sản năm 2010 có quy định:
“Khống sản là khống vật, khống chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể
rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong lịng đất, trên mặt bao gồm cả khống vật,
khống chất ở bãi thải của mỏ” [43]. Như vậy, khoáng sản là khoáng vật,



8
khống chất có ích được tích tụ tự nhiên hàng ngàn năm ở thể rắn, thể lỏng,
thể khí tồn tại trong lịng, trên mặt đất. Khống sản là tài ngun hầu hết
không tái tạo được, là tài sản quan trọng của quốc gia. Giá trị to lớn của
khoáng sản cũng như tính phức tạp của các quan hệ xã hội phát sinh trong q
trình khảo sát, thăm dị, khai thác, chế biến khoáng sản tất yếu dẫn tới Nhà
nước quản lý khoáng sản bằng pháp luật.
Theo “Đại điển Tiếng Việt”, khai thác được hiểu là:
1. Hoạt động để thu lấy những sản vật có sẵn trong tự nhiên: khai
thác tài nguyên, khai thác lâm thổ sản; 2. Tận dụng hết khả năng
tiềm tàng, đang ẩn giấu: khai thác khả năng của đồng bằng sơng
Cửu Long; 3. Tra xét, dị hỏi để biết thêm điều bí mật: khai thác tù
binh [64, tr.787].
Hoạt động khai thác khống sản có từ khá lâu đời. Lúc đầu, hoạt động
khai thác khoáng sản ở Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới chỉ
là khai thác đá, sắt, đồng,… để làm công cụ phục vụ cho chăn ni, trồng trọt,
luyện vũ khí để chống giặc ngoại xâm. Nhưng phải đến thời Pháp thuộc, khai
thác khống sản mới định hình như một nghề. Khi thực dân Pháp đô hộ nước
ta, chúng đã cho thành lập Sở địa chất Đông Dương. Nơi đây tập trung nhiều
nhà bác học địa chất nổi tiếng của nước Pháp và cả thế giới lúc bấy giờ. Rất
nhiều mỏ khoáng sản của Việt Nam đã được người Pháp phát hiện ra. Thực
dân Pháp khai thác khoáng sản để làm nguyên liệu, đáp ứng nhu cầu của
chúng. Tồn quyền Đơng Dương đã bán nhiều mỏ khống sản của ta cho các
cơng ty khai khoáng của Pháp. Khi đất nước thống nhất, thời gian đầu chúng
ta tập trung củng cố và khôi phục nền kinh tế sau khi kết thúc chiến tranh,
chưa chú trọng đến hoạt động khai thác khoáng sản. Chỉ đến những năm gần
đây, đất nước ta mới chú trọng đến hoạt động khoáng sản, mới nhận thấy tầm
quan trọng của hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản trong sự phát triển



9
kinh tế - xã hội.
Về phương diện kinh tế, khi nói đến vai trị của khống sản, ta khơng thể
khơng kể đến tầm quan trọng của nó đối với các ngành cơng nghiệp. Khống
sản là nguồn ngun liệu chính cho nhiều ngành công nghiệp then chốt. Tuy
nhiên, công nghiệp chế biến của Việt Nam cịn chưa phát triển, các loại
khống sản khai thác được vẫn chủ yếu dùng để xuất khẩu thơ.
Tài ngun khống sản đã có những đóng góp nhất định vào sự thịnh
vượng của quốc gia và góp phần thực hiện các mục tiêu tổng thể về kinh tế và
xóa đói giảm nghèo. Khi tiến hành các hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản,
doanh nghiệp phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước. Trong
đó đáng kể nhất là thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu, thuế giá trị gia tăng và
thuế thu nhập doanh nghiệp.
Về phương diện chính trị, tài ngun khống sản giúp các quốc gia giữ
ổn định về an ninh, trật tự. Công nghiệp khai khoáng đã tạo ra việc làm cho
người lao động. Hơn nữa, khống sản cịn tạo cho các quốc gia có một vị trí
quan trọng trong giao lưu quốc tế. Tài ngun khống sản góp phần khơng
nhỏ vào việc làm tăng tính độc lập, tự chủ của mỗi quốc gia. Thậm chí
trong một số trường hợp, tài ngun khống sản cịn làm tăng các ảnh
hưởng về mặt chính trị của quốc gia này đối với quốc gia khác. Các quốc
gia khơng có tài ngun khống sản thường phụ thuộc rất nhiều về kinh tế
cũng như chính trị đối với các quốc gia có ưu thế trong vấn đề này. Tuy
nhiên, việc khai thác khống sản cũng tác động khơng nhỏ đến môi trường,
đến cuộc sống của con người.
Từ những vấn đề trên có thể hiểu, khai thác cát sơng là một trong những
hoạt động khai thác khoáng sản nhằm thu lấy một lượng cát sông dùng làm
vật liệu phục vụ trong xây dựng và vào các mục đích khác, góp phần phát


10

triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Đặc điểm về khai thác cát sông
Thứ nhất, việc khai thác cát sông phải do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy phép khai thác.
Cát sông là nguồn tài nguyên của quốc gia, được Nhà nước phân cấp
quản lý, do vậy việc khai thác cát sơng phải do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy phép khai thác.
Việc khai thác cát sông phải tuân thủ đúng trình tự, quy trình do Nhà
nước quy định.
Thứ hai, việc khai thác cát sơng khơng địi hỏi phải sử dụng các phương
tiện, thiết bị hiện đại, có cơng nghệ cao.
Cát sơng nằm ở lịng sơng, nên muốn sử dụng nó con người phải khai
thác. Khai thác cát sông là hoạt động sử dụng các thiết bị, phương tiện như:
tàu cuốc, sà lan cần cẩu, xáng guồng, xáng cạp,… lấy trực tiếp cát từ lịng
sơng lên phương tiện chuyên chở đi tiêu thụ, không qua giai đoạn chế biến.
Các phương tiện khai thác cát có thể nói thô sơ, không nhất thiết phải dùng
các phương tiện hiện đại.
Thứ ba, hoạt động khai thác cát sông không giống như những hoạt động
khai thác khống sản khác, nó thường diễn ra nhanh, không kể về thời gian
ngày hay đêm, chi phí thấp.
Các mỏ cát sơng được phân bố trên bề mặt địa hình, điều kiện khai thác
lộ thiên và cơng nghệ khơng địi hỏi phức tạp. Chỉ cần dùng phương tiện bơm
hút cát trực tiếp từ đáy sông, nên hoạt động khai thác cát sơng thường diễn ra
nhanh, ít tốn kém về thời gian và chi phí, có thể khai thác bất kể ban ngày hay
ban đêm. Tùy theo công nghệ khai thác (công suất của phương tiện bơm hút
cát) và tải trọng của phương tiện chuyên chở mà thời gian khai thác cát diễn
ra khác nhau.
Từ các đặc điểm về khai thác cát sơng nói trên, nên việc khai thác cát tạo



11
khó khăn cho việc quản lý của cơ quan nhà nước.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG
PHÁP LUẬT VỀ KHAI THÁC CÁT SÔNG

1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về
khai thác cát sông
1.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước
Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông liên
quan đến nhiều khái niệm khác như: quản lý, quản lý nhà nước, quản lý nhà
nước bằng pháp luật. Tuy nhiên, những khái niệm này đã được nhiều cơng
trình khoa học nghiên cứu, để có tính hệ thống, trong luận văn khái quát và
đồng tình với khái niệm: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng, có
mục đích của chủ thể quản lý vào đối tượng quản lý bằng hệ thống công cụ,
phương tiện, cơ chế khác nhau nhằm đạt được mục đích quản lý đã đặt ra, phù
hợp với quy luật vận động khách quan của xã hội.
Theo đó, quản lý nhà nước được hiểu là sự tác động có mục đích, chủ yếu
bằng pháp luật, của các tổ chức, cá nhân mang quyền lực nhà nước lên đối
tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước.
1.2.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật và quản lý nhà
nước bằng pháp luật về khai thác cát sông
Trong quản lý, Nhà nước sử dụng các công cụ để điều chỉnh các quan hệ
trong xã hội nhằm đạt đến một trật tự mà giai cấp thống trị mong muốn. Tùy
thuộc vào đặc điểm lịch sử, văn hóa, các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ mà các chủ thể quản lý nhà nước có sự
linh hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng, kết hợp các công cụ quản lý khác
nhau, nhằm đạt hiệu quả tối ưu nhất. Điều này lý giải tại sao trong cùng một
giai đoạn, có quốc gia dùng pháp luật làm công cụ cơ bản để quản lý nhà
nước, có quốc gia lại chủ yếu dùng đạo đức, phong tục tập quán, tiền lệ, các



12
tín điều tơn giáo,... Hay trong chính một quốc gia, tùy từng thời kỳ có thể
dùng pháp luật (pháp trị) hoặc đạo đức (đức trị), hoặc kết hợp cả hai cơng cụ
đó để quản lý nhà nước.
Trong rất nhiều cơng cụ nêu trên, pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng
trong quản lý nhà nước, khơng có pháp luật, Nhà nước khơng thể quản lý
được xã hội có hiệu quả. Quy định của Nhà nước không chỉ thể hiện dưới
hình thức của một chính sách hay thể hiện trong một bài phát biểu hoặc một
bài báo,... mà nó thể hiện dưới hình thức pháp luật khơng phải do ngẫu nhiên
mà có. Ở phần lớn các quốc gia và vào mọi thời điểm, nếu chính sách khơng
được thể hiện dưới hình thức văn bản pháp luật thì xã hội, kể cả cán bộ, công
chức sẽ không cảm thấy bắt buộc phải tn thủ. Trong q trình phát triển,
pháp luật đóng nhiều vai trò quan trọng như: pháp luật đảm bảo cho xã hội
tồn tại và phát triển ổn định, có trật tự; pháp luật ghi nhận và thể chế hóa
quyền con người, quyền công dân và bảo đảm về mặt pháp lý cho các quyền
đó thực hiện. Nhờ có pháp luật, các hành vi xâm hại trật tự xã hội được hạn
chế, phòng ngừa và từng bước bị loại bỏ khỏi đời sống xã hội. Pháp luật là
công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội. Nhà nước cũng dựa vào pháp
luật để phát huy quyền lực của mình và kiểm tra, kiểm sốt hoạt động các cơ
quan, tổ chức, cá nhân,... Do đó có thể nói, pháp luật là công cụ hữu hiệu để
bảo vệ và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong xã
hội, góp phần tạo ra mơi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ
ngoại giao với các quốc gia khác nhau trên thế giới.
Nói đến quản lý nhà nước bằng pháp luật chính là nói đến một phương thức
quản lý trong đó pháp luật được sử dụng như một công cụ quan trọng. Một Nhà
nước muốn quản lý có hiệu quả phải biết dựa vào pháp luật, biết sử dụng pháp
luật để quản lý xã hội. Quản lý nói chung, quản lý nhà nước bằng pháp luật nói
riêng là một khoa học, đồng thời còn là một nghệ thuật, đòi hỏi nhiều kiến thức



13
xã hội, tự nhiên, kỹ thuật,... và phải biết sử dụng đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo các
công cụ, phương tiện quản lý. Vì thế, bên cạnh pháp luật, Nhà nước cần sử dụng
kết hợp các công cụ, phương tiện quản lý khác, như: đạo đức, truyền thống dân
tộc để tăng cường công tác quản lý nhà nước. Tại Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp
luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức” [22, tr.129].
Từ các quan niệm trên, có thể hiểu quản lý nhà nước bằng pháp luật là
phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức hoặc các cá
nhân có thẩm quyền dựa vào các quy định của pháp luật để tác động lên các
đối tượng quản lý, nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông là quản lý nhà
nước bằng pháp luật về một lĩnh vực cụ thể, là một nội dung của quản lý nhà
nước bằng pháp luật. Do đó, từ khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật,
có thể hiểu quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông là phương
thức hoạt động do các cơ quan nhà nước, các tổ chức hoặc cá nhân có thẩm
quyền tiến hành nhằm đảm bảo cho việc khai thác cát sông được thực hiện
đúng chủ trương, chính sách, pháp luật về hoạt động khai thác tài nguyên
khoáng sản, cũng như hướng các hoạt động khai thác cát sông phục vụ công
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo dân sinh,
gắn với bảo vệ mơi trường.
Theo đó, quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông trên địa
bàn tỉnh là phương thức hoạt động do các cơ quan nhà nước, các tổ chức
hoặc cá nhân có thẩm quyền ở địa phương tiến hành nhằm đảm bảo cho việc
khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh được thực hiện đúng chủ trương, chính
sách, pháp luật, các quy định về hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản
của Nhà nước, cũng như hướng các hoạt động khai thác cát sông phục vụ



14
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và
của tỉnh nói riêng, gắn với bảo vệ môi trường, ổn định đời sống của nhân dân
ở địa phương.
1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật về
khai thác cát sông
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông là một dạng cụ
thể của quản lý nhà nước về khai thác tài ngun khống sản, có những đặc điểm
của quản lý nhà nước bằng pháp luật nói chung, song cũng có những đặc điểm
riêng, do tính chất đặc thù của lĩnh vực khai thác tài nguyên khoáng sản. Quản lý
nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông có những đặc điểm sau đây:
1.2.2.1. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông dựa
trên cơ sở hệ thống quy phạm pháp luật về hoạt động khống sản
Pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng trong quản lý nhà nước, khơng có
pháp luật, Nhà nước khơng thể quản lý được xã hội có hiệu quả. Do vậy, quản
lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông phải dựa trên cơ sở hệ thống
quy phạm pháp luật về tài nguyên khoáng sản.
Pháp luật về khoáng sản là hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong lĩnh vực khoáng sản, do cơ quan nhà nước ban hành
và bảo đảm thực hiện, hướng tới mục đích bảo đảm ổn định, trật tự trong lĩnh
vực khoáng sản.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản bao gồm:
- Luật của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản, quan trọng về khoáng
sản như: hoạt động khoáng sản; quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân
tham gia hoạt động khoáng sản; quyền lợi của địa phương và người dân nơi
có khống sản được khai thác; quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước về khoáng sản,...
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được ban hành để thực hiện những



15
nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, luật quy định. Trong
lĩnh vực khoáng sản, Lệnh của Chủ tịch nước chủ yếu để cơng bố Luật
khống sản.
- Nghị định của Chính phủ được ban hành để quy định chi tiết thi hành
Luật, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước; các biện pháp cụ thể để thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ về hoạt động khống sản.
Nghị định của Chính phủ cịn để quy định những vấn đề về hoạt động
khoáng sản hết sức cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành Luật
hoặc Pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý
xã hội. Việc ban hành Nghị định này phải được sự đồng ý của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quyết định các
chủ trương, biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ; quyết
định các vấn đề về hoạt động khoáng sản thuộc thẩm quyền của Thủ tướng
Chính phủ đã được quy định trong các Luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp
lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Nghị quyết, Nghị định của
Chính phủ.
- Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ quy định các biện pháp chỉ đạo, phối
hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; đơn đốc và kiểm tra hoạt động
của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân
các cấp trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật về hoạt
động khống sản của Chính phủ.
- Quyết định của Bộ trưởng ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn khoáng sản;
quy định các biện pháp để thực hiện chức năng quản lý về hoạt động khoáng
sản và những vấn đề được Chính phủ giao.
- Chỉ thị của Bộ trưởng đưa ra các biện pháp để chỉ đạo, đôn đốc, phối
hợp và kiểm tra hoạt động của các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện văn



16
bản quy phạm pháp luật về hoạt động khoáng sản của cơ quan nhà nước cấp
trên và của mình.
- Thơng tư, Thông tư liên tịch của Bộ trưởng được ban hành để hướng
dẫn thực hiện những quy định được Luật và các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên giao thuộc phạm vi quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản.
Bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ở trung ương thì ở địa phương cũng ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật về hoạt động khoáng sản để quản lý hoạt động khoáng sản trên
phạm vi lãnh thổ địa phương mình, cụ thể:
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp được ban hành để quyết
định kế hoạch những chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội,... trong
đó có lĩnh vực hoạt động khống sản.
- Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp được ban hành để thi
hành Hiến pháp, Luật khoáng sản, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên,
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về hoạt động khoáng sản ở địa phương.
Trải qua các giai đoạn, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt
động khống sản ngày càng hồn thiện, bao gồm luật, các văn bản hướng dẫn
của Chính phủ, bộ, ngành, địa phương.
Phạm vi điều chỉnh của pháp luật về khoáng sản bao gồm: các quan hệ
xã hội phát sinh trong việc lập quy hoạch khoáng sản, điều tra cơ bản địa chất
về khống sản, thăm dị khống sản, khai thác khống sản, khai thác tận thu
khoáng sản và các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động khống sản.
1.2.2.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông phức
tạp, có sự phối hợp của nhiều chủ thể
Hoạt động khai thác cát sông liên quan đến nhiều lĩnh vực như: khống
sản, đất đai, mơi trường, giao thơng, trật tự xã hội,... Do vậy, quản lý nhà



17
nước bằng pháp luật về khai thác cát sông liên quan đến nhiều ngành, gồm
nhiều cơ quan tham gia quản lý như: cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên
môi trường, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thơng vận tải, an ninh
trật tự, tài chính, xây dựng,... Các cơ quan này có sự độc lập tương đối nên
khi giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực khai thác cát sơng có sự phối
hợp của các cơ quan này. Nếu thiếu sự phối hợp sẽ dẫn đến sự chồng chéo,
đùn đẩy trách nhiệm, phát sinh thủ tục, quản lý khai thác cát kém hiệu quả.
Để cho sự phối hợp giữa các cơ quan này có hiệu quả thì cần có sự chỉ đạo
thống nhất từ trung ương đến địa phương. Việc phối hợp này được điều tiết
bởi hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật từ luật, nghị định, thông tư,
văn bản của địa phương,... Ngồi ra, để phối hợp có hiệu quả, cần quy định
trách nhiệm chính trong từng lĩnh vực cho một cơ quan chịu trách nhiệm,
các cơ quan khác có trách nhiệm phối hợp giải quyết. Đồng thời cũng cần
quy định rõ phạm vi phối hợp, những cơ quan cần phối hợp đối với từng
công việc cụ thể.
1.2.2.3. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sơng có sự
giao thoa giữa quản lý nhà nước bằng pháp luật về kinh tế và quản lý nhà
nước bằng pháp luật về mơi trường
Hoạt động khai thác, chế biến khống sản nhằm mục đích sinh lời là một
hoạt động kinh tế, nên chịu sự tác động, điều chỉnh của pháp luật kinh tế.
Hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản cũng gây ảnh hưởng đặc biệt
nghiêm trọng đến môi trường nên cần sự kiểm sốt của pháp luật mơi trường.
Để cân bằng giữa hai yếu tố kinh tế và môi trường, pháp luật khoáng sản đã ra
đời. Trong hệ thống các quy định pháp lý về khống sản thì Luật khống sản
có vai trị cơ bản. Nó là nền tảng pháp lý cho việc thực hiện các giải pháp cân
đối giữa phát triển khai thác khoáng sản với tiềm năng khoáng sản, phù hợp
với vị trí, giá trị và nhu cầu của chúng trong nền kinh tế quốc dân, thực hiện



18
các giải pháp bảo vệ và tiết kiệm tài nguyên khoáng sản cũng như thực hiện
các giải pháp bảo vệ mơi trường. Vì vậy, quản lý nhà nước bằng pháp luật về
khai thác cát sơng có sự giao thoa giữa quản lý nhà nước bằng pháp luật về
kinh tế và quản lý nhà nước bằng pháp luật về môi trường.
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật về
khai thác cát sông
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động khai thác cát sơng
nói riêng và đối với hoạt động khống sản nói chung, theo Luật khống sản
năm 2010 gồm các nội dung: ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy
phạm pháp luật về khoáng sản; ban hành quy chuẩn kỹ thuật, định mức, đơn
giá trong điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, thăm dị khống sản; phê
duyệt chiến lược khống sản, quy hoạch khống sản; khoanh định và cơng bố
khu vực khống sản, khu vực cấm hoạt động khoáng sản, khu vực tạm thời
cấm hoạt động khống sản, khu vực khơng đấu giá quyền khai thác khoáng
sản; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản; đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực cho công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản và
hoạt động khoáng sản; cấp, gia hạn, thu hồi Giấy phép thăm dị khống sản,
Giấy phép khai thác khoáng sản, Giấy phép khai thác tận thu khống sản;
chấp thuận trả lại Giấy phép thăm dị khống sản, Giấy phép khai thác khoáng
sản, Giấy phép khai thác tận thu khoáng sản; tổ chức đấu giá quyền khai thác
khoáng sản; hướng dẫn, tổ chức thực hiện việc đăng ký hoạt động điều tra cơ
bản địa chất về khoáng sản; thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản; tổng hợp
kết quả điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, tình hình hoạt động khống
sản; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản.
Như vậy, nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông
bao gồm ba mặt cơ bản: xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
khai thác cát sông; tổ chức thực hiện pháp luật về khai thác cát sông; kiểm tra,



19
thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về khai thác cát sông, cụ thể như sau:
1.2.3.1. Hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
về khai thác cát sông
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
từng bước xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, làm cơ sở nền tảng cho việc quản lý nhà nước bằng pháp luật. Điều
này đã được khẳng định rõ trong Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” [41,
tr.17] và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thông qua
năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật” [42, tr.11].
Trên cơ sở đường lối, chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, từ luật, pháp lệnh đến các văn bản
dưới luật, nhằm thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng thành pháp luật,
từng bước hồn thiện hệ thống pháp luật. Cơng tác xây dựng pháp luật đã thu
được nhiều kết quả thiết thực. Sự phát triển của hệ thống pháp luật đã từng
bước tạo cơ sở cho việc Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần xây dựng và củng cố Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về khai thác
khống sản nói chung và khai thác cát sơng nói riêng là hoạt động cơ bản, đầu
tiên của chu trình quản lý nhà nước, tạo lập cơ sở pháp lý cho hoạt động quản
lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông. Nhà nước xây dựng các văn
bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định thẩm quyền của các cơ quan nhà
nước trong việc xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm



20
pháp luật về khoáng sản; quy định những nội dung quản lý nhà nước về khai
thác khoáng sản; quy định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân tham
gia hoạt động khống sản,...
Trong xây dựng và hồn thiện pháp luật về khai thác tài ngun
khống sản, cơng tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật về
khai thác khống sản có tầm quan trọng đặc biệt nhằm khắc phục kịp thời
những hạn chế, bất cập của pháp luật về khai thác tài nguyên khoáng sản,
nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật về khoáng sản và đặc biệt là
tạo điều kiện cho công tác quản lý văn bản, cho việc sử dụng, áp dụng văn
bản, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, công chức, các cá nhân, tổ chức tham gia
hoạt động khoáng sản.
Từ năm 2008 đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
liên quan đến hoạt động khoáng sản [phụ lục 1]. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội
khóa XIII đã thơng qua Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo đó, Điều 53 Hiến pháp khẳng định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên
khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” [42, tr.26] và
Điều 63 Hiếp pháp chỉ rõ: “Nhà nước có chính sách bảo vệ mơi trường; quản
lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn
thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phịng, chống thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu” [42, tr.30].
Như vậy có thể khẳng định rằng, trên phương diện pháp lý, Nhà nước ta
rất quan tâm và coi trọng việc xây dựng pháp luật về hoạt động khống sản,
hình thành hành lang pháp lý làm cơ sở để việc quản lý nhà nước về khai thác
khoáng sản ngày càng hiệu quả hơn.
1.2.3.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về khai thác cát sông



21
Pháp luật được ban hành tự thân nó khơng thể đi vào cuộc sống mà phải
thông qua việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn đời sống xã hội. Xây dựng
được một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ và phù hợp với yêu cầu của
đời sống xã hội là việc khó, nhưng việc đảm bảo để pháp luật được thực thi
nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội còn khó khăn, phức tạp hơn.
Pháp luật chỉ thực sự trở thành công cụ chủ yếu trong quản lý nhà nước
khi nó được các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân thực hiện nghiêm
minh. Do vậy, việc tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật là một trong
những yếu tố quyết định đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Tổ chức thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm
cho các quy định của pháp luật trở thành hành vi xử sự của chủ thể quản lý và
đối tượng quản lý. Tổ chức thực hiện pháp luật về khai thác cát sông nhằm
đưa các quy phạm pháp luật vào điều chỉnh các quan hệ quản lý nhà nước về
khai thác cát sông, được tiến hành chủ yếu dựa trên việc triển khai thực hiện
và áp dụng pháp luật.
Trong triển khai thực hiện pháp luật, thì cơng tác tun truyền phổ biến
và giáo dục pháp luật là rất quan trọng, là khâu đầu tiên trong q trình triển
khai thực hiện pháp luật, góp phần khơng nhỏ vào việc nâng cao hiểu biết,
triển khai có hiệu quả việc thực hiện pháp luật về khoáng sản. Việc thực thi và
chấp hành pháp luật phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có
yếu tố ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý của nhân dân. Trong thực tế, không
phải lúc nào việc chấp hành pháp luật cũng trở thành ý thức tự nguyện. Do
vậy, trong điều kiện hiện nay, cần phải hình thành ý thức pháp luật, mỗi người
nhận ra được tính cơng bằng của pháp luật, chấp hành pháp luật trên cơ sở tự
nguyện, xuất phát từ nhu cầu của bản thân, mà không phải do sự sợ hãi trước
sự trừng phạt.
Trong khâu tổ chức thực hiện pháp luật về hoạt động khống sản nói



22
chung và hoạt động khai thác cát sơng nói riêng cần quan tâm đến việc phân
công, phân cấp rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức để
tránh tình trạng chồng chéo hoặc đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau. Nâng cao
trình độ, năng lực chun mơn, nhất là sự am hiểu pháp luật của đội ngũ cán
bộ làm công tác quản lý nhà nước về khai thác cát sông.
Nội dung cụ thể thực hiện pháp luật về khai thác cát sơng, bao gồm: quy
hoạch, thăm dị cát sông; khoanh định và công bố khu vực cát sông, khu vực
cấm hoạt động khai thác cát sông, khu vực tạm thời cấm hoạt động cát sông,
khu vực không đấu giá quyền khai thác cát sông; cấp, gia hạn, thu hồi Giấy
phép thăm dị cát sơng, Giấy phép khai thác cát sông, Giấy phép khai thác tận
thu cát sông; tổ chức đấu giá quyền khai thác cát sông; hoạt động khai thác
cát sông,...
1.2.3.3. Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật
về khai thác cát sông
Hiệu quả quản lý nhà nước về khai thác cát sông phụ thuộc rất nhiều
vào công tác kiểm tra, thanh tra việc tổ chức thực hiện các chính sách và pháp
luật về khai thác cát sông. Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về khai
thác cát là những hành vi pháp lý của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm
quyền nhằm theo dõi việc thực hiện pháp luật về khai thác cát sông, phát hiện
những vi phạm pháp luật để trên cơ sở đó kiến nghị những biện pháp ngăn
chặn phù hợp.
Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về khai thác cát sông là hành vi của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hoạt động kiểm tra là hoạt động mang
tính thường xuyên, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền. Khi tiến hành hoạt động kiểm tra việc thực hiện pháp luật về
khai thác cát sông, cơ quan tiến hành kiểm tra không đặt mục tiêu là điều tra
sự việc mà chỉ xác định hiện trạng của sự việc cần kiểm tra.



23
Thanh tra là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền được tiến hành theo
một thủ tục chặt chẽ nhằm xác định các vi phạm pháp luật về khai thác cát
sông, nguyên nhân và hậu quả của những vi phạm đó để xử lý theo đúng quy
định của pháp luật. Thủ tục thanh tra được quy định chặt chẽ hơn so với hoạt
động kiểm tra vốn được thực hiện định kỳ, thường xuyên; hoạt động thanh tra
được tiến hành khi có những dấu hiệu cho thấy có sự vi phạm và sự cần thiết
phải xác định các vi phạm đó. Hoạt động thanh tra thường được tiến hành khi
có kiến nghị, đề xuất trong quá trình kiểm tra.
Kiểm tra, thanh tra là một công cụ sắc bén nhằm bảo đảm tính hiệu quả
của quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sơng. Mục đích của hoạt
động này nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về khai thác cát sông, góp phần quan trọng bảo đảm cho pháp luật
về tài nguyên khoáng sản đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả trên thực tế. Để
thực hiện tốt nội dung này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xây
dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra chặt chẽ, hợp lý và hợp pháp, ngăn ngừa
những biểu hiện nhũng nhiễu, gây phiền hà, cản trở hoạt động hợp pháp của
các đối tượng quản lý.
Vi phạm pháp luật về khai thác thác cát sông là một dạng cụ thể của vi
phạm pháp luật, và vì vậy chủ thể vi phạm phải chịu trách trách nhiệm pháp
lý. Vi phạm pháp luật về khai thác cát sông là hành vi trái pháp luật của tổ
chức, cá nhân có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, xâm hại đến
trật tự quản lý của Nhà nước về khai thác cát sông.
Vi phạm pháp luật về khai thác cát sơng có thể chia thành 2 dạng:
Thứ nhất, khai thác cát sơng khơng có giấy phép: đây là những trường
hợp khai thác cát một cách lén lút (bơm hút trộm cát), không thực hiện bất kỳ
một nghĩa vụ nào đối với Nhà nước.
Thứ hai, khai thác cát sơng có giấy phép nhưng thực hiện không đúng



24
các quy định đã cam kết: khai thác ngoài khu vực được cấp phép; không thả
phao giới hạn khu vực khai thác; khơng có giám đốc điều hành mỏ; khai thác
gần bờ, vượt quá độ sâu cho phép; sử dụng phương tiện khơng đăng ký, giao
khốn phương tiện hoặc hợp đồng không đúng quy định;…
Xử lý vi phạm pháp luật về khai thác cát sông là hoạt động nhằm ngăn
chặn, hạn chế, phòng ngừa bất kỳ hành vi nào vi phạm pháp luật về khai thác
cát sông, xử lý nghiêm minh, công bằng các hành vi vi phạm, bảo đảm hiệu
lực quản lý, bảo đảm trật tự, kỷ cương.
Xử lý vi phạm pháp luật về khai thác cát sông là hoạt động của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tiến hành bằng các biện pháp cưỡng chế đối với các
hành vi vi phạm pháp luật về khai thác cát sông. Tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm, người có hành vi vi phạm pháp luật về khai thác cát sông và pháp luật
có liên quan bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình
sự, trường hợp gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân thì
phải bồi thường thiệt hại.
Việc kiểm tra và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về khai thác cát sơng
khơng những có tác dụng răn đe đối với những người vi phạm mà cịn có tác
dụng ngăn chặn, giáo dục, phịng ngừa đối với những tổ chức, cá nhân khác.
Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về khai thác cát sơng cịn
nhằm phát hiện những sơ hở, yếu kém trong cơng tác khai thác tài ngun
khống sản, hồn thiện cơ chế chính sách, góp phần sử dụng có hiệu quả
nguồn tài nguyên thiên nhiên, đưa hoạt động khai thác khống sản đi vào nền
nếp, có trật tự, có kỷ cương, tuân thủ các quy định của pháp luật.
1.3. VAI TRÒ, CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG
PHÁP LUẬT VỀ KHAI THÁC CÁT SƠNG

1.3.1. Vai trị quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông
1.3.1.1. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông là sự



25
thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng về hoạt động khống sản
Đảng ta ln khẳng định nhất qn quan điểm bảo vệ và sử dụng có
hiệu quả tài ngun khống sản. Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ
XI đã khẳng định: “Quản lý, khai thác hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên, đảm bảo cân bằng sinh thái” [25, tr.221-222]. Đồng thời, Bộ Chính
trị đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TW, ngày 25-4-2011 về định hướng
chiến lược khống sản và cơng nghiệp khai khống đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030.
Đường lối, chủ trương của Đảng là định hướng chiến lược, song nếu
đường lối đó khơng được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật để làm cơng
cụ quản lý thì sẽ khơng phát huy đầy đủ tác dụng của nó. Lý luận chung về
nhà nước và pháp luật đã chứng minh rằng bất cứ chính sách nào của Nhà
nước chỉ có thể thực hiện và phát huy đầy đủ nhất, hiệu quả nhất khi nó được
xác lập dưới một hình thức văn bản pháp luật nhất định và được bảo đảm thực
hiện bởi một cơ chế quản lý nhất định. Sở dĩ như vậy, vì tính tổ chức và điều
chỉnh phổ biến của pháp luật khi nó được “thẩm thấu” vào cơ thể quản lý sẽ là
những bảo đảm hữu hiệu cho đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền được
thể hiện trên phạm vi tồn xã hội.
Do đó, quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông là sự hiện
thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hoạt
động khoáng sản thành hệ thống các quy phạm pháp luật để quản lý hoạt động
khoáng sản nói chung và về khai thác cát sơng nói riêng. Đồng thời, quản lý
nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sông là sự thể hiện nguyên tắc hiến
định: Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.
1.3.1.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về khai thác cát sơng góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
Nhà nước ban hành và sử dụng pháp luật, là cơng cụ có hiệu lực cao nhất



×