Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về tư tưởng: “lấy dân làm gốc” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.77 KB, 14 trang )

Đề tài: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về tư tưởng: “lấy dân làm
gốc” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
MỞ ĐẦU
Từ xa xưa, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn khi ốm nặng từng nhắc
nhở vua Trần Anh Tông “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là
thượng sách giữ nước muôn đời vậy”. Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi
cũng khẳng định: “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân, sức dân như
nước”. Đến Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ln nhấn mạnh: “Trong bầu trời
khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân” . Điều nổi bật và cũng là bí quyết thành cơng của Hồ
Chí Minh với tư cách nhà tư tưởng và thủ lĩnh chính trị nằm ở chỗ: Người đã
thấu hiểu vai trò của dân, thực sự trọng dân, biết phát huy vai trò của dân và hết
lịng vì dân. Trong 35 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành sự
nghiệp Đổi mới với tinh thần “đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân”.
Cho dù chưa bao giờ Việt Nam có được cơ đồ như ngày hơm nay nhưng cơ hội
và thách thức đang đặt ra cho cách mạng Việt Nam đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng
viên phải nhận thức và hành động đúng tinh thần “Lấy dân làm gốc” để phát
huy cao độ tiềm lực trong dân, đưa đất nước tiến lên. Và bài học về “lấy dân
làm gốc” đã được Đảng ta vận dụng thành công trong suốt 9 thập qua. Từ khi ra
đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln xác định cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Có
Đảng mở đường, lãnh đạo thì cách mạng mới thành cơng. Nhưng chính nhân
dân và chỉ có nhân dân mới là người hiện thực hóa được mục tiêu, lý tưởng mà
Đảng đề ra. Khơng có nhân dân sẽ khơng bao giờ có lực lượng cách mạng và
phong trào cách mạng. Sớm nhận rõ chân lý ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã dày công tuyên truyền, giác ngộ, vận động quần chúng nhân dân ủng hộ
1


cách mạng, tham gia cách mạng; qua đó, phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn
dân tộc làm nên những chiến công vĩ đại, làm rạng danh non sông, đất nước ta.


Đó là chiến thắng của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đứng lên đập tan xiềng xích nơ lệ, giành
quyền làm chủ đất nước. Là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang dội, kết
thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Và sau đó,
cũng tinh thần ấy, khí phách ấy, nhân dân ta lại “đánh cho Mỹ cút, đánh cho
ngụy nhào”, thu giang sơn về một mối. Bao chiến thắng lẫy lừng đó là chiến
thắng của nhân nghĩa, của khát vọng hịa bình và cũng chính là chiến thắng của
lịng dân, sức dân. Đó là lý do em chọn đề tài : “Vận dụng quan điểm của Hồ
Chí Minh về tư tưởng: “lấy dân làm gốc” trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam” để nghiên cứu khoa học.

2


NỘI DUNG
1.Quan điểm của Hồ Chí Minh về tư tưởng: “lấy dân làm gốc”
“Lấy dân làm gốc” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong điều kiện hiện nay, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân được coi là
một biểu hiện tập trung của tư tưởng “lấy dân làm gốc”, là một yếu tố bảo
đảm sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, sáng
tạo đúng đắn về vai trò của quần chúng cho nên Người tập hợp, đồn kết đơng
đảo nhân dân, phát huy được vai trò của họ trong đấu tranh giải phóng dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
“Dân là gốc của nước, nước lấy dân làm gốc” là tư tưởng và phương
châm hành động của các bậc hiền minh từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim. Trên
tinh thần kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, Hồ Chí
Minh đã nâng tư tưởng “Lấy dân làm gốc” lên một tầm cao mới. Tư tưởng của
Người vừa có sự chung đúc với tiền nhân, vừa có nét độc đáo, sáng tạo. Đáng
chú ý nhất là một số quan điểm sau đây.

Thứ nhất, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm mới về quần chúng nhân dân.
Nói đến dân là nói đến những người đứng ngồi bộ máy cai trị, chịu tác động từ
chính sách của nhà cầm quyền. Nếu trong quan niệm của giai cấp phong kiến,
dân chỉ là “thần dân”, “thảo dân”, tức tầng lớp “bị trị” thấp hèn thì đối với Hồ
Chí Minh, “trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” 1. Quan niệm về nhân dân của Hồ
Chí Minh có điểm khác biệt so với chủ nghĩa Mác - Lênin. Nếu Lênin nhấn
mạnh tính giai cấp khi coi “quần chúng là đa số, và hơn thế nữa chẳng những
đa số công nhân, mà là đa số những người bị bóc lột” 2 thì Hồ Chí Minh nhấn
mạnh tính dân tộc khi định nghĩa: “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư
sản, tư sản dân tộc và những phần tử yêu nước khác” 3. Việc mở rộng nội hàm
3


“Nhân dân” của Hồ Chí Minh hồn tồn phù hợp với đặc điểm của xã hội Việt
Nam. Mặt khác, quan niệm của Người về nhân dân cũng khác biệt so với ông
cha khi Người đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để khẳng định
“công - nông là gốc của cách mạng”.
Thứ hai, Hồ Chí Minh luận giải một cách khoa học “vì sao dân là gốc
của nước”. Dân là “gốc” của nước bởi “lực lượng của dân rất to”, rất đông, rất
mạnh. Dân là “gốc” của nước bởi “dân rất tốt”, trong mỗi người dân đều có
phẩm chất cao quý nhất là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Dân là “gốc” của
nước còn bởi “dân rất thông minh”, biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn
giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn, nghĩ
mãi khơng ra”4. Chính của cải, sức mạnh, đạo đức, tài năng, lòng tin của dân đã
tạo nên “cái gốc” của nước. Nhận thức sâu sắc về cái “gốc” đó, Hồ Chí Minh
đúc kết: “Nước lấy dân làm gốc… Gốc có vững, cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi
trên nền nhân dân”. Như vậy, lòng dân chính là “vận nước”.
Thứ ba, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của dân trong sự nghiệp cách
mạng và vị thế của dân trong chế độ mới. Nếu giai cấp phong kiến, giai cấp tư

sản coi nhân dân chỉ là động lực, phương tiện cần huy động cho các cuộc đấu
tranh thì Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân là chủ thể và là mục tiêu của cách
mạng. Người nhấn mạnh: Làm cách mạng phải dựa vào dân nhưng làm cách
mạng để mang lại hạnh phúc cho dân.
Người còn nâng quan điểm “Dân vi bản” và truyền thống “thân dân”
thành quan điểm “dân là chủ và làm chủ”. Người khẳng định: Trong chế độ dân
chủ, nhân dân mới là chủ sở hữu mọi quyền lực. Nếu cụm từ “Dân là chủ” nói
đến địa vị cao nhất của dân trong xã hội thì cụm từ “Dân làm chủ” nói đến trách
nhiệm và nghĩa vụ làm chủ của dân. Sự nghiệp cách mạng khơng chỉ của dân
mà cịn do dân; cho nên, bản thân quần chúng nhân dân phải có đạo đức và
trách nhiệm công dân.
4


Mặt khác, khi dân đã là chủ thì tất cả cán bộ, kể cả Chủ tịch nước, đều là
đầy tớ của dân. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ vai
trị “kép” của mình: Vừa là người đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo
sáng suốt nhưng “lãnh đạo là làm đày tớ cho nhân dân và phải làm cho tốt”.
Thứ tư, Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên phải
gần dân, trọng dân, học dân, thật thà trước dân và yêu dân. Dân tộc Việt Nam
đã tồn tại hàng ngàn năm nhưng Đảng thì mới ra đời vào năm 1930. Điều đó có
nghĩa là “lịng dân” có trước “ý Đảng”. Dân là “gốc” của nước, là cội nguồn
sức mạnh của Đảng nên muốn lãnh đạo dân, Đảng phải gần dân, lắng nghe dân,
thấu hiểu dân để đề ra chủ trương, chính sách hợp lịng dân. Coi xa dân, quan
liêu là những căn bệnh lớn nhất của đảng cầm quyền nên Hồ Chí Minh đã viết:
“Đề nghị các vị Bộ trưởng nên luyện cho mình đơi chân hay đi, đơi mắt hay
nhìn, cái óc hay nghĩ, khơng nên chỉ ngồi bàn giấy, theo kiểu “đạo nhân phịng
thủ”. Khơng chỉ nhấn mạnh phương thức hoạt động của Đảng là “phải từ trong
quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, Người cịn cảnh báo: Nếu xa cách dân
chúng thì nhất định thất bại. Sự “gần dân” trong quan niệm của Hồ Chí Minh

khơng chỉ là gần về khoảng cách địa lý, tức là cán bộ phải bám sát cơ sở mà
còn phải “gần” về lối sống, mức sống, thậm chí là cán bộ, đảng viên phải có
tinh thần “tiên ưu hậu lạc”. Chỉ như thế nhân dân mới thấy đây là người đại
diện của mình và cán bộ cũng mới hiểu rõ dân sinh, dân ý, dân tình.
Dân là “gốc” của nước nên Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải
thực hành văn hóa trọng dân, trước hết là tôn trọng ý nguyện và quyền làm chủ
của dân. Người căn dặn “ý dân là ý trời”, dân muốn gì ta phải làm nấy. Sự tín
nhiệm của dân ln thể hiện chính xác năng lực, phẩm chất của cán bộ nên
Đảng phải tôn trọng đánh giá của dân về từng cán bộ để làm tốt công tác tổ
chức.

5


Do lực lượng của dân rất đơng, trí tuệ của dân là vô tận nên cán bộ, đảng viên
phải thực sự cầu thị, khiêm tốn, học hỏi dân chúng. Dân chính là người chịu tác
động của mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nên việc xây dựng
đường lối phải dựa trên ý nguyện của dân, tuyệt đối khơng được chủ quan, duy
ý chí; nếu “nghị quyết gì mà dân chúng cho là khơng hợp thì đề nghị họ sửa
chữa”.
Trong công tác lãnh đạo dân chúng, nếu cán bộ “có khuyết điểm thì thật
thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình”. Sự
thành thực của cán bộ không chỉ làm dân thông cảm, tin yêu mà còn là cơ sở để
Đảng khắc phục hạn chế, ngày càng trưởng thành hơn. Mọi tình cảm bền vững
phải dựa trên nguyên tắc 2 chiều nên Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ là,
“chúng ta phải u dân, kính dân thì dân mới u ta, kính ta”.
Thứ năm, cán bộ, đảng viên của Đảng phải thực sự dựa vào dân để vì
dân. “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” vì vậy, cho dù Đảng Cộng sản
là lực lượng dẫn đường nhưng “những người cộng sản chỉ là một giọt nước
trong đại dương, một giọt nước trong đại dương nhân dân” 12. Muốn thực hiện

bất cứ chiến lược nào, Đảng đều phải bàn bạc với dân, dựa vào dân, huy động
sức mạnh trong nhân dân.
Không chỉ dựa vào dân, quan trọng hơn là Hồ Chí Minh đã coi lợi ích
của dân là mục tiêu của cách mạng, lý tưởng của Đảng. Người nói rõ “Đảng
khơng phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm trịn nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Vì dân là
“gốc” nên việc gì có lợi cho dân dù nhỏ nhất vẫn phải làm, việc gì có hại cho
dân dù nhỏ nhất cũng phải tránh. “Dân dĩ thực vi thiên”, khi trở thành Đảng
cầm quyền, tất cả đường lối, phương châm, chính sách của Đảng đều phải nhằm
vào mục tiêu nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là làm cho dân có ăn,
có mặc, có chỗ ở, được học hành.
6


“Lấy dân làm gốc” là sợi chỉ đỏ trong tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Sức thuyết phục của tư tưởng khơng chỉ xuất phát từ tính khoa học, cách mạng,
nhân văn được thể hiện trong từng luận điểm mà cịn được đảm bảo bằng cuộc
đời trọn vẹn vì nước, vì dân của Người.
2. Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về tư tưởng: “lấy dân làm
gốc” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Na

m

2.1. Nhà nước vững mạnh phải là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Ngay sau ngày Tuyên ngôn độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một trong sáu nhiệm vụ
cấp bách là phải có một Hiến pháp dân chủ. Người đề nghị: “Chính phủ tổ chức
càng sớm càng hay” cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầuphiếu để
sớm có Quốc hội và Nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra. Ngày 17-9-1945

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về thể lệ Tổng tuyển cử; ngày 20-9-1945,
Người ký Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp do Người làm Trưởng ban.
Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đã thành cơng, 333 đại biểu Quốc hội khóa
I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trúng cử. Tháng 3-1946, Chính phủ
hợp hiến đầu tiên đã được Quốc hội cử ra, do Hồ Chí Minh là Chủ tịch. Đây là
cơ sở pháp lý, hợp hiến buộc các lực lượng Đồng minh phải thương thảo với
Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu.
Để xây dựng Nhà nước hợp hiến, hợp pháp, một nhà nước pháp quyền
vững mạnh, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của pháp luật trong quản
lý điều hành Nhà nước và xã hội. Quan điểm này của Người sớm được thể
hiện trong bản Yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam (6-1919), yêu cầu
Chính phủ Pháp và chính quyền thuộc địa phải ban hành Hiến pháp, bãi bỏ chế
độ cai trị bằng các săc lệnh, thay thế vào đó bằng các đạo luật. Người đã
7


thể hiện qua bài Diễn ca: “Bảy xin hiến pháp ban hành; Trăm đều phải có thần
linh pháp quyền”.
Tuy nhiên, muốn Hiến pháp, pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, Hồ Chí
Minh yêu cầu phải xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện, đồng thời
nhấn mạnh phải hết sức chú trọng việc tuyên truyền trong quần chúng nhân dân
vấn đề công dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Người đòi hỏi
cán bộ, công chức nhà nước phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ năng
lực cơng tác, am hiểu pháp luật, liêm khiết, thực hiện nghiêm minh đạo đức
công vụ và đạo đức công dân.
Nhà nước pháp quyền trong tư tường Hồ Chí Minh là nhà nước phải có sự
kết hợp giữa vai trò của đạo đức và vai trò của pháp luật. Đây là nét đặc sắc,
một sáng tạo của Hồ Chí Minh trong các quan điểm về xây dựng nhà nước. Với
trí tuệ và kinh nghiệm của một chính trị gia uyên bác, Hồ Chí Minh đã chắt lọc
kế thừa phát triển các quan niệm trên và kết hợp khéo léo vai trò của đạo đức và

vai trò của pháp luật. Người đã nhiều lần giải thích mối quan hệ giữa đạo đức
và pháp luật. Theo Hồ Chí Minh, pháp luật là hình thức, biện pháp khẳng định
chuẩn mực, giá trị của đạo đức; chuẩn mực đạo đức càng cao thì vai trị của
pháp luật càng quan trọng. Hồ Chí Minh nâng đạo đức con người thành đạo đức
cách mạng. Từ phạm trù trung, hiếu, Người đã khái quát, bổ sung thành trung
với nước, hiếu với dân; liêm, chính cũng được Người coi là tiêu chuẩn của cán
bộ, công chức. Người coi những kẻ bất liêm (tham nhũng, ăn cắp, ăn hối lộ,
tham ơ, lãng phí) là phạm tội nặng như tội phản quốc (tội như làm Việt gian,
mật thám) và đòi hỏi phải bị nghiêm trị theo pháp luật. Phải xây dựng cơ chế
kiểm ưa, giám sát việc thực thi quyền lực
2.2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Trong điều kiện hiện nay, chúng ta phải phát huy cao độ quyền làm chủ
của Nhân dân nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh to lớn của lực
8


lượng đơng đảo này. Thực tế cho thấy “Chỉ có phát huy sức mạnh làm chủ của
Nhân dân mới có thể chống tiêu cực, chống suy thoái, chống tham nhũng có
hiệu quả, nhằm củng cố Đảng, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, lành mạnh
hoá các quan hệ xã hội”. Những kỳ tích của ơng cha ta trong các cuộc đấu
tranh dựng nước và giữ nước cũng như những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt
được trong những giai đoạn cách mạng trước đây đều xuất phát từ đường lối
“lấy dân làm gốc”. Trong giai đoạn cách mạng mới, bài học đó vẫn giữ nguyên
giá trị. Song, vấn đề không phải chỉ nêu lên khẩu hiệu “lấy dân làm gốc”, hay
thực hiện nó một cách hời hợt, hình thức, thiếu triệt để. Điều quan trọng nhất là
phải biến tư tưởng đó trở thành hiện thực, nó phải được thể hiện một cách sinh
động, nhất quán trong hành động thực tiễn hàng ngày, hàng giờ của mỗi cán bộ,
đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự là “người đầy tớ thật trung thành
của Nhân dân”; phải tôn trọng Nhân dân, vừa lãnh đạo, vừa phát huy quyền làm
chủ của Nhân dân, vừa giáo dục, vừa không ngừng học hỏi Nhân dân; phải làm

cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ; phải sống chan hoà với Nhân dân, quan tâm
đến đời sống của Nhân dân, biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cùng Nhân dân,
phải xây dựng cho mình tác phong, thái độ và hành động đúng với vị trí, vai trị
của mình, xứng đáng là người mà Nhân dân đặt trọn niềm tin cũng như giao
phó trách nhiệm. Có như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ góp phần tạo nên sự
chuyển biến mạnh mẽ, tích cực và tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, từng bước hiện thực hoá mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn.
2.3. Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về tư tưởng: “lấy dân làm
gốc” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Từ sự trưởng thành trong tư duy lý luận và sự kiểm chứng trên thực tế,
các Đại hội Đảng trong thời kỳ Đổi mới đều khẳng định bài học: Đổi mới phải
luôn quán triệt tư tưởng “Lấy dân làm gốc”; phải thực sự dựa vào dân, vì lợi ích
9


của dân. Đảng muốn đồng hành và lãnh đạo dân thì Đảng phải tin vào dân và
quan trọng hơn là phải được dân tin.
Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận thực tế, một bộ phận không nhỏ
cán bộ đảng viên vẫn chỉ biết vun vén, thậm chí vơ vét cho bản thân mà thờ ơ,
vô cảm trước dân. Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế;
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chủ yếu mới dừng ở
“dân làm”. Căn bệnh độc đốn, chun quyền, dân chủ hình thức cịn ở đâu
đó… Những khuyết điểm trên đã làm ảnh hưởng tới lịng tin của dân vào Đảng
và chế độ.
Do đó, thực hành tư tưởng Hồ Chí Minh về “Lấy dân làm gốc” để khơi
phục lại lịng tin của dân, là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay. Tuy nhiên, học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh khơng phải chỉ là nhắc lại những câu nói mang tầm chân lý
của Người mà là nghĩ sâu, nhìn thẳng và làm tốt một số việc sau đây.
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao nhận thức, thấm nhuần bài

học “Lấy dân làm gốc” một cách sâu sắc nhất để vì dân một cách thiết thực
nhất. Khi giải quyết công việc, cán bộ phải luôn tận tâm, nhiệt tình, đặt lợi ích
của nhân dân lên trên hết, phải tránh thói “miệng nói dân chủ nhưng làm theo
lối “quan chủ””.
Hai là, phải hoàn thiện thể chế, cơ chế để đảm bảo quyền làm chủ của
dân trên thực tế. Theo Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII, nguyên tắc “dân biết, dân
làm, dân kiểm tra” được bổ sung thêm nội dung “dân giám sát và dân thụ
hưởng”. Điều này hoàn toàn đúng nhưng quan trọng hơn là phải nhanh chóng
thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc đó bằng các văn bản quy phạm pháp luật.
Tơn trọng lợi ích của dân thì trước khi ban hành pháp luật, chính sách, cần đánh
giá kỹ lưỡng tác động của nó đến đời sống nhân dân, phải thăm dị dư luận, đẩy
mạnh việc đối thoại với dân - những người chịu tác động của chính sách ban
hành.
10


Ba là, cán bộ phải lắng nghe dân và mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước
phải hướng tới việc bảo vệ quyền lợi của dân. Cho dù không phải mọi ý kiến
của dân đều xác đáng, nhưng đúng như Hồ Chí Minh đã nói, “nếu quần chúng
nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là q báu và bổ
ích”.
Điều quan trọng nhất để có được lịng tin của dân chính là: Tồn bộ hoạt
động của Đảng và Nhà nước phải xuất phát và hướng tới lợi ích của dân. Trong
thời kỳ đất nước có chiến tranh, cơ sở để tạo ra sự gắn kết giữa “lịng dân” và
“ý Đảng” chính là mục tiêu giải phóng dân tộc. Trong thời bình, cơ sở quan
trọng nhất để tạo dựng niềm tin của dân vào Đảng chính là lợi ích của dân. Đây
khơng phải là sự ban ơn mà là trách nhiệm, là hành động đúng quy luật của
Đảng. Nếu khơng mang lại lợi ích cho dân thì có nói bao nhiêu về dân chủ cũng
đều vơ nghĩa.
Bốn là, phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy lùi tệ

nạn tham nhũng, “lợi ích nhóm”. “Lấy dân làm gốc” thì phải huy động nhân
dân vào cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cho dù hình thức dân chủ trực
tiếp ngày càng được chú trọng nhưng dân chủ đại diện vẫn là một phương thức
cơ bản để hiện thực hóa quyền làm chủ của dân.
Muốn được dân tin yêu thì người cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh
đạo phải gương mẫu về mọi mặt. Đặc biệt, phải quyết liệt chống tiêu cực thì
nhân tố tích cực mới có chỗ đứng, giống như muốn lúa tốt, phải nhổ sạch cỏ. Vì
thế, biểu hiện rõ nhất, tập trung nhất của tư tưởng “lấy dân làm gốc” hiện nay
chính là nói “khơng” với tham nhũng và đẩy mạnh cơng tác phịng chống tham
nhũng, triệt tiêu “lợi ích nhóm".
Giá trị của tư tưởng "lấy dân làm gốc" đã được Đảng ta nhiều lần khẳng
định và cụ thể thành bài học kinh nghiệm quý giá trong suốt quá trình lãnh đạo.
Cụ thể: trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
11


xã hội năm bổ sung và phát triển năm 2011 đã khẳng định: "Sự nghiệp cách
mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người
làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích
và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó
mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến
những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước". Qua Tổng
kết chặng đường đổi mới 35 năm (1986-2021), Đảng ta tiếp tục khẳng định:
Ðổi mới phải luôn ln qn triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân
dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức
sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân
tộc. Xa rời, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại. Những ý
kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là yếu tố quan
trọng góp phần hình thành đường lối đổi mới của Ðảng. Nhân dân làm nên các
thành tựu của đổi mới, đổi mới phải dựa vào nhân dân. Dân chủ XHCN là bản

chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Do
đó, xây dựng, phát huy dân chủ XHCN phải bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về
Nhân Dân, để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành
quả của đổi mới. Ðể phát huy dân chủ XHCN, phát huy sức mạnh đại đồn kết
tồn dân tộc, cần phịng, chống đặc quyền, đặc lợi, chống suy thoái, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”
Thực hiện tư tưởng “Lấy dân làm gốc” thì còn phải phát huy sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước, đồn kết trong dân, xây dựng “thế trận lịng dân” trong
công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Phải làm tốt công tác dân vận để huy động tối đa
“tài dân, sức dân, của dân để mưu cầu hạnh phúc cho dân”.

12


KẾT LUẬN
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Nước lấy dân làm gốc; gốc có
vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” và Người cũng rất tâm
đắc với câu nói dân gian “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu. Khó vạn lần dân
liệu cũng xong”. Kế thừa tư tưởng ấy, Ðảng, Nhà nước ta phát huy một cách
sáng tạo giá trị bài học “Lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để thực
hiện có hiệu quả trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Ðảng
ngày càng vững mạnh. Quan điểm "Lấy dân làm gốc” là một trong những bài
học quan trọng, góp phần làm nên những thành tựu to lớn, xuyên suốt chiều dài
lịch sử, nhằm phát huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo và nguồn lực của Nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế
thừa và vận dụng thành công quan điểm này. Từ khi được thành lập cho đến
nay, Đảng luôn xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân. Quan điểm “lấy dân làm gốc”, phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của Nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân

dân. Nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là nhà nước vĩnh cửu,
bất biến, trái lại đó là nhà nước ln vận động và phát triển để phục vụ ngày
càng tốt hơn quyền và lợi ích của nhân dân. Ln đấu tranh để khắc phục và
loại trừ những thói hư, tật xấu, những căn bệnh thường gặp như: tham nhũng,
hối lộ, quan liêu, lãng phí, lạm quyền... dẫn đến sự suy yếu và đánh mất bản
chất cách mạng của nhà nước. Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể
khẳng định rằng, quan điểm và tư tưởng Hồ Chí Minh về tư tưởng: “lấy dân
làm gốc” có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Điều có giá trị to lớn và ý nghĩa sâu
sắc là mơ hình nhà nước đó khơng phải tồn tại ở dạng lý thuyết, quan điểm, mà
nó đã trở thành hiện thực sinh động; nhà nước ấy đã tập hợp, tổ chức và lãnh
đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi hết sức to lớn. Như vậy, tư tưởng
13


Hồ Chí Minh về “lấy dân làm gốc” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. có những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách
mạng Việt Nam. Chúng ta cần kế thừa, vận dụng và phát triển những giá trị đó
để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh Nxb.Lý luận Chính trị, H.2021.
2.Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1996, t.8, tr.276
3.Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII. Văn phịng Trung ương
Đảng, năm 2016, tr.69
4. Nguyễn Phú Trọng: Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nxb.
Chính trị quốc gia, H, 2019, tr.80, 116-117.

14




×