.ĐBỘ NGOẠI GIAO
BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
----------
TIỂU LUẬN
Môn học: Kỹ năng đàm phán và ký kết Điều ước quốc tế
Đề Tài
Nguyên tắc áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm
quyền phê chuẩn của Quốc hội. Liên hệ với quá trình ký kết và
thực hiện Hiệp định EVFTA
Giảng viên
: Cơ Nguyễn Hồng Anh
Sinh viên thực hiện : Vũ Thị Phương Thảo
Mã số sinh viên
Hà Nội, 12/2020
0
0
: LQT44B-051-1721
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1. Khái quát chung về Điều ước quốc tế
1. Định nghĩa và đặc điểm của Điều ước quốc tế
2. Các học thuyết về mối quan hệ giữa ĐƯQT và pháp luật quốc gia
3. Mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam
Chương 2. Nguyên tắc áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền
phê chuẩn của Quốc hội
1. Cơ sở áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của
Quốc hội
2. Phương thức áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn
của Quốc hội
3. Thực tiễn áp dụng Điều ước quốc tế tại một số quốc gia
3.1. Thực tiễn tại Pháp
3.2. Thực tiễn tại Nhật Bản
Chương 3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế với
quá trình ký kết và thực hiện Hiệp định EVFTA18
1. Quá trình đàm phán, ký kết, thực thi Hiệp định EVFTA
2. Thực tiễn áp dụng trực tiếp Hiệp định EVFTA
3. Một số đánh giá và đề xuất
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
0
0
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐƯQT
Điều ước quốc tế
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
Luật ĐƯQT 2005
của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam số 41/2005/QH11
Luật ĐƯQT 2016
Luật Điều ước quốc tế năm 2016
Công ước Viên 1969
Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969
Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế giữa quốc
Công ước Viên 1986
gia và tổ chức quốc tế và giữa các tổ chức quốc tế
năm 1986
Hiệp định EVFTA
Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên
minh Châu Âu (EVFTA)
2
0
0
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong thời gian qua, thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế,
Việt Nam đã ký kết và gia nhập nhiều điều ước quốc tế. Để tận dụng được những lợi
thế khi tham gia các cam kết quốc tế cần tiến hành quá trình pháp lý do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm đảm bảo ĐƯQT được tuân thủ và thi hành
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, q trình này cịn gọi là chuyển hóa ĐƯQT. Việc
áp dụng trực tiếp là việc thừa nhận các quy phạm ĐƯQT được tự động thi hành
pháp luật như pháp luật trong nước thông qua việc ban hành quyết định thừa nhận
toàn bộ hoặc một phần nội dung của ĐƯQT đó.
Tuy nhiên, do thiếu nhất quán, ý kiến khác nhau trong việc áp dụng, triển khai
biện pháp thực hiện ĐƯQT, việc áp dụng trực tiếp còn gặp nhiều khó khăn, thách
thức. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề thuộc phạm vi áp dụng ĐƯQT là
một vấn đề cấp thiết cần được quan tâm, nhất là khi Hiệp định EVFTA mới đây giữa
Việt Nam và Liên minh Châu Âu có hiệu lực.
Bài tiểu luận nhằm mục đích phân tích rõ hơn về nguyên tắc áp dụng trực tiếp
ĐƯQT thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội, từ đó liên hệ với q trình ký kết
và thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa CHXHCN Việt Nam và Liên minh
Châu Âu (EVFTA).
2. Phạm vi nghiên cứu.
Xuất phát từ hoạt động thực tiễn thì đây là một vấn đề cịn khó khăn, phức tạp,
chưa kể Hiệp định EVFTA chỉ mới có hiệu lực trong gần 4 tháng. Vậy nên, chúng ta
cần nghiên cứu trên phạm vi rộng và khoảng thời gian dài hơn, để làm sáng tỏ được
những quy định của pháp luật Việt Nam về Điều ước quốc tế, qua đó phân tích được
các ngun tắc áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của
Quốc hội. Đồng thời, liên hệ với quá trình ký kết và thực hiện Hiệp định EVFTA.
3
0
0
3. Bố cục của đề tài.
Bố cục bài tiểu luận gồm 3 phần chính:
Chương 1. Khái quát chung về Điều ước quốc tế
Chương 2. Nguyên tắc áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê
chuẩn của Quốc hội
Chương 3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế với quá
trình ký kết và thực hiện Hiệp định EVFTA.
Sinh viên thực hiện
4
0
0
Chương 1
Khái quát chung về Điều ước quốc tế
1. Định nghĩa và đặc điểm của Điều ước quốc tế
Hiện nay, trong khoa học Luật quốc tế có rất nhiều quan điểm khác nhau về
ĐƯQT. Định nghĩa về ĐƯQT được ghi nhận trong hai Công ước Viên 1969 và
19861. Xét trong Điều 2(1)(a) Công ước Viên 1969, ĐƯQT được hiểu là ‘‘một hiệp
định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế
điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều
văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là gì’’ 2. Cơng ước Viên
năm 1986 mở rộng cụm từ “được ký kết giữa các quốc gia” thành “được ký kết (i)
giữa một hay nhiều quốc gia với một hay nhiều tổ chức quốc tế, hoặc (ii) giữa các
tổ chức quốc tế với nhau.”3
Từ góc độ nội luật pháp luật Việt Nam, định nghĩa về ĐƯQT 4 cũng khá tương tự
với định nghĩa của hai Công ước Viên. Định nghĩa đã có sự phát triển qua thời gian
với bằng chứng là sự thay đổi qua bốn lần sửa đổi luật, đặc biệt là giữa luật năm
2006 và luật năm 2016, thể hiện nhận thức chính xác hơn về ĐƯQT nói riêng và
luật pháp quốc tế nói chung5. Việc sửa đổi này là điểm mới cơ bản, có tính bao
trùm, tác động đến nhiều nội dung của Luật. Đối với các văn bản thỏa thuận được
ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nhưng khơng có giá trị ràng buộc pháp
lý quốc tế thì việc ký kết và thực hiện không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
này. Đây là các văn bản đối ngoại, có nội dung là các cam kết chính trị nên việc ký
kết các văn bản này sẽ tiếp tục được điều chỉnh theo các quy định về quản lý hoạt
1 Định nghĩa điều ước quốc tế được ghi nhận tại Điều 2(1)(a) của hai Cơng ước trên, có gần như giống nhau
trừ chủ thể ký kết Điều ước quốc tế.
2 Điểm a Khoản 1 Điều 2 Công ước Viên 1969.
3 Điểm a Khoản 1 Điều 2 Công ước Viên 1986.
4 Khoản 1 Điều 2 Luật Điều ước quốc tế 2016.
5 Trần Hữu Duy Minh, Định nghĩa về Điều ước quốc tế theo luật pháp quốc tế (bao gồm án lệ) và pháp luật
Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 3, năm 2016.
5
0
0
động đối ngoại và về thẩm quyền, chức năng của các cơ quan tham gia hoạt động
đối ngoại.
Có thể thấy định nghĩa về ĐƯQT trong Luật ĐƯQT 2016 hẹp hơn định nghĩa về
ĐƯQT trong Luật ĐƯQT 2005, khắc phục được các vướng mắc do phạm vi điều
chỉnh của Luật ĐƯQT 2005 quá rộng, tạo điều kiện cho việc áp dụng thủ tục ký kết
ĐƯQT cũng như triển khai thực hiện đối với toàn bộ ĐƯQT và chỉ đối với ĐƯQT
theo đúng nghĩa phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn.
Việc xác định rõ ĐƯQT là văn bản thỏa thuận “làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp
luật quốc tế” làm rõ bản chất của ĐƯQT là văn bản tạo quyền, nghĩa vụ giữa các
quốc gia, tránh hiểu nhầm ĐƯQT là văn bản quy phạm pháp luật trong nước. Việc
định nghĩa chính xác hơn khái niệm ĐƯQT cho phép hiểu rõ và phân biệt quy trình
ký kết, thực hiện ĐƯQT với quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong
nước.
Đồng thời, Luật ĐƯQT 2016 xác định “bên ký kết nước ngoài”6 được hiểu bao
gồm quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác được công nhận là chủ thể của
pháp luật quốc tế. Như vậy, các phong trào giải phóng dân tộc, các vùng lãnh thổ và
các thực thể khác thiếu một trong các thành tố để trở thành quốc gia nhưng vẫn
được công nhận là chủ thể của luật pháp quốc tế như: Tồ thánh Vatican, Hồng
Cơng, Nhà nước Palestine, một số Vùng hoặc Cộng đồng của quốc gia được giao
quyền ký ĐƯQT trong những lĩnh vực nhất định.
Việc điều chỉnh lại định nghĩa về ĐƯQT hẹp hơn so với định nghĩa tại Luật
ĐƯQT 2005 sẽ khắc phục vướng mắc nảy sinh trong quá trình thi hành Luật, tạo
điều kiện cho việc áp dụng thủ tục ký kết cũng như triển khai thực hiện ĐƯQT.
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy ĐƯQT có những đặc trưng cơ bản sau:
6 Khoản 3 Điều 2 Luật Điều ước quốc tế 2016.
6
0
0
Thứ nhất, chủ thể của ĐƯQT chính là chủ thể của luật quốc tế, đây là thực thể
độc lập tham gia vào QHQT, xây dựng và sáng tạo nên các quy phạm ĐƯQT.
Thứ hai, hình thức ĐƯQT tồn tại dưới dạng văn bản.
Tùy thuộc vào nội dung điều ước điều chỉnh, tùy thuộc vào sự thỏa thuận các
bên tham gia nên tên gọi của điều ước thường rất đa dạng.
Việc lựa chọn ngôn ngữ khi xây dựng ĐƯQT có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
Theo quy định của Luật ĐƯQT các văn bản ĐƯQT được soạn thảo bằng
ngôn ngữ đã thỏa thuận đều là văn bản gốc và có giá trị pháp lý như nhau7.
Ví dụ: Hiệp định EVFTA được lập thành hai bộ bằng 24 thứ tiếng, mỗi bản
ngơn ngữ đều có giá trị ngang nhau8.
Thứ ba, nội dung của ĐƯQT phản ánh sự thỏa thuận, thống nhất về mặt ý chí
giữa các chủ thể của Luật quốc tế với nhau và là kết quả của quá trình đấu đàm
phán giữa các bên tham gia ĐƯQT. Hầu hết các ĐƯQT thường có kết cấu gồm 3
phần:
Lời nói đầu: Có nội dung ngắn gọn hơn so với các phần cịn lại, khơng chứa
đựng các quy phạm cụ thể xác lập quyền và nghĩa vụ cho các bên ký kết mà
chỉ bao gồm các quy định chung như: Lý do, mục đích ký kết và tên của các
bên tham gia ký kết.
Nội dung chính: Phần trọng tâm của ĐƯQT, bao gồm các chương, điều,
khoản chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế thông qua sự đàm phán,
thoản thuận, thống nhất của các bên.
Phần cuối: Bao gồm các điều khoản quy định về thời hạn, thời điểm có hiệu
lực, ngơn ngữ soạn thảo, vấn đề gia nhập, sửa đổi, bổ sung, bảo lưu ĐƯQT,..
7 Điều 5 Luật Điều ước quốc tế 2016.
8 Điều 17.25 Chương 17 Hiệp định EVFTA.
7
0
0
Ngoài ra, trong một số ĐƯQT đa phương phổ cập cịn có một hoặc một số phụ
lục đính kèm. Các phụ lục này cũng là một bộ phận cấu thành khơng thể tách rời và
ln đi kèm với ĐƯQT.
Ví dụ: Hiệp định EVFTA có 10 Phụ lục đính kèm bên cạnh các Chương nội dung
chính.
2. Các học thuyết về mối quan hệ giữa ĐƯQT và pháp luật quốc gia
Mối quan hệ giữa ĐƯQT và pháp luật quốc gia thường được xem xét theo hai
học thuyết về mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật quốc gia:
thuyết nhất nguyên luận (Moniste) và thuyết nhị nguyên luận (Dualiste). Hai học
thuyết này có xuất phát điểm dường như trái ngược nhau:
Học thuyết nhất nguyên đưa ra hai khả năng xác định mối quan hệ giữa luật quốc
tế và luật quốc gia tuỳ theo vị trí ưu tiên của chúng. Một khả năng coi pháp luật
quốc tế có vị trí ưu tiên hơn (chủ nghĩa nhất nguyên với sự ưu tiên của pháp luật
quốc tế)9; và khả năng thứ hai là pháp luật của quốc gia có vị trí ưu tiên hơn (chủ
nghĩa nhất nguyên với sự ưu tiên của pháp luật quốc gia)10.
Ví dụ: Một số quốc gia áp dụng thuyết nhất nguyên luận có thể kể đến như Pháp,
Nga, Thuỵ Sỹ, Mỹ, Mexico. Điều VI Hiến pháp Mỹ quy định: “Hiến pháp này, các
đạo luật của Hoa Kỳ được ban hành theo Hiến pháp này, mọi điều ước đã hoặc sẽ
được ký kết dưới thẩm quyền của Hoa Kỳ sẽ là luật tối cao của quốc gia. Quan toà
ở các bang đều phải tuân theo những luật này...”11
Trái ngược với chủ nghĩa nhất nguyên coi pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
là hai bộ phận của một hệ thống thống nhất, chủ nghĩa nhị nguyên coi pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế là hai hệ thống pháp luật hoàn toàn độc lập với nhau,
9 Nguyễn Bá Diến, Việc áp dụng điều ước quốc tế và quan hệ thứ bậc giữa điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia, Tạp chí Khoa học Kinh tế – Luật, số 3 (2003).
10 Ngô Đức Mạnh, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển hoá điều ước quốc tế vào pháp luật quốc
gia, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4(180)/2003, tr. 62.
11 Hiến pháp Mỹ năm 1787, Điều VI.
8
0
0
mặc dù có những lĩnh vực có thể đan xen lẫn nhau, nhưng không phải là một. Chủ
nghĩa nhị nguyên xuất phát từ chỗ cho rằng thẩm quyền, nguồn luật và đối tượng áp
dụng của các quy phạm pháp luật của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia hoàn
toàn khác nhau. Pháp luật quốc gia điều chỉnh quan hệ giữa công dân với nhau và
công dân với nhà nước; pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia và
các chủ thể khác của luật quốc tế với nhau, do đó, chỉ áp dụng cho các quan hệ giữa
các chủ thể của luật quốc tế, còn pháp luật quốc gia chỉ áp dụng cho các chủ thể
trong nước. Học thuyết nhị nguyên lại được phân chia thành hai trường phái, đó là
trường phái nhị nguyên cực đoan và trường phái nhị ngun dung hồ.
Ví dụ: Học thuyết này hiện nay đang được một số nước như Anh, Canada, Ấn Độ
và Israel áp dụng. Đối với những nước này, ĐƯQT khơng tự động có hiệu lực pháp
lý trong hệ thống pháp luật quốc gia mà cần được nội luật hố thơng qua việc bãi
bỏ, sửa đổi, bổ sung hay ban hành các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, đặc biệt là cơ quan lập pháp12.
3. Mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam
Sự tương quan giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, cũng như mối quan
hệ tác động qua lại giữa chúng không chỉ là vấn đề trọng tâm của khoa học pháp lý
mà còn là đối tượng nghiên cứu lâu nay của khoa học luật hiến pháp, khoa học lý
luận chung về Nhà nước và pháp luật. Đây vẫn luôn là chủ đề của các cuộc tranh
luận mà cho đến nay vẫn tiếp tục diễn ra trong nhiều lĩnh vực và chưa đến hồi kết
thúc. Mặc dù không thể phủ nhận rằng Luật quốc tế và Luật quốc gia đều chiếm
một vị thế tuyệt đối trong mơi trường của mình, nhưng chúng lại tồn tại một mối
quan hệ gắn bó mật thiết.
Cho tới nay Việt Nam đã ký kết hàng nghìn ĐƯQT song phương và là thành viên
của hơn 200 Điều ước quốc tế đa phương. Ngày 10/10/2001 Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của Công ước Viên 1969 về Luật ĐƯQT. Điều 26 Phần III
12 Duncan B. Hollis, Merrit R. Balkeslee & L. Benjamin Ederington, National Treaty Law and Practice,
Leiden/Boston, 2005,
9
0
0
Công ước Viên 1969 quy định nguyên tắc Pacta sunt servanda như sau: “Mọi điều
ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia điều ước và phải được các bên
thi hành với thiện ý”13. Đồng thời, Công ước Viên 1969 cũng đã xác định mối quan
hệ giữa pháp luật trong nước và việc tôn trọng các ĐƯQT mà quốc gia đã cam kết:
“Một bên không thể viện những quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý
do để không thi hành một điều ước mà mình đã cam kết”14.
Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều cơng nhận tính ưu thế và ưu tiên thực
hiện các ĐƯQT đã ký kết mà vẫn đảm bảo độc lập chủ quyền của mình. Xét trong
hệ thống pháp luật Việt Nam, địa vị pháp lý của ĐƯQT vẫn chưa được xác định rõ
trong Hiến pháp quốc gia hay các văn bản pháp luật mang tính hiệu lực cao. Có
chăng, các văn bản pháp luật chỉ quy định rằng “Trong trường hợp ĐƯQT mà
CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của văn
bản này thì tuân theo các quy định của ĐƯQT đó, trừ Hiến pháp.” 15 Như vậy, về
hiệu lực pháp lý, Điều khoản này khơng có quy định cơng nhận trực tiếp và rõ ràng
hiệu lực pháp lý của ĐƯQT trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Việt Nam chấp
nhận quan điểm về giá trị ưu thế của ĐƯQT đã ký kết hoặc tham gia so với pháp
luật trong nước, và coi ĐƯQT là một bộ phận cấu thành của pháp luật Việt Nam. Có
hai quan điểm được đưa ra về phương diện hiệu lực thi hành ĐƯQT. Thứ nhất,
ĐƯQT có vị trí thấp hơn Hiến pháp nhưng cao hơn văn bản quy phạm pháp luật
khác. Thứ hai, ĐƯQT có tính ưu tiên hơn văn bản quy phạm pháp luật trong nước,
ngoại trừ Hiến pháp, nhưng không đồng nghĩa với việc được xếp ở thứ bậc cao hơn.
So sánh với Điều 6 Luật ĐƯQT năm 2005, pháp luật thực định của Việt Nam
khơng có bất cứ điều khoản nào xác định chính xác địa vị của ĐƯQT trong hệ
thống văn bản pháp luật. Vấn đề tương quan hiệu lực của ĐƯQT được để ngỏ “một
cách có chủ ý” và trên thực tế khi xảy ra xung đột giữa ĐƯQT với một Văn bản
quy phạm pháp luật thì chúng ta áp dụng nguyên tắc về “tính ưu tiên/ưu thế của
13 Điều 26 Công ước Viên 1969.
14 Điều 27 Công ước Viên 1969.
15 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế 2016.
10
0
0
luật quốc tế”. Song bản thân quy định này cũng chưa hợp lý và còn tồn tại những
bất cập. Do vậy, để khắc phục nhược điểm này, Điều 6 Luật ĐƯQT năm 2016 bổ
sung thêm cụm từ “trừ Hiến pháp” vào nguyên tắc là một điểm mới của hai đạo
luật này và có ý nghĩa trong việc xác định rõ hơn thứ tự áp dụng đối với
ĐƯQT. Một số tác giả kết luận rằng lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam
ĐƯQT đã có được một vị trí xác định trong thang bậc hiệu lực: thấp hơn Hiến pháp
và cao hơn các đạo luật quốc gia. Tuy nhiên, quy định tại khoản 5 Điều 156 lại chỉ
xác định thứ tự áp dụng chứ không phải là thứ bậc hiệu lực của văn bản do chúng
không nằm trong cùng một hệ thống. Cũng có ý kiến đồng tình với quan điểm “tính
ưu tính áp dụng” khơng đồng nhất với “trật tự hiệu lực” song mặt khác ủng hộ việc
cần phải sửa đổi luật hiện hành theo hướng quy định rõ ĐƯQT có hiệu lực pháp lý
cao hơn pháp luật quốc gia16.
Về việc cách thức áp dụng các quy phạm ĐƯQT, cho đến nay pháp luật Việt
Nam cũng chưa có quy định cụ thể. Điều 6.3 Luật ĐƯQT 2016 quy định ĐƯQT có
hiệu lực đối với Việt Nam được áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần theo quyết
định của cơ quan có thẩm quyền tại quyết định về việc ký kết, phê chuẩn phê duyệt
hoặc gia nhập ĐƯQT. Vì vậy, việc quy định áp dụng ĐƯQT, trường hợp nào thì áp
dụng trực tiếp, trường hợp nào phải thơng qua thủ tục chuyển hoá bằng việc ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật trong nước, cần phải được quy định rõ và cần
có cách tiếp cận linh hoạt, mềm dẻo. Trong trường hợp không thể áp dụng trực tiếp
tồn bộ hoặc một phần ĐƯQT có hiệu lực /đối với Việt Nam thì cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định việc ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập ĐƯQT
quyết định hoặc kiến nghị, sửa đổi, bổ sung bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật để thực hiện ĐƯQT đó. Nên chăng chỉ chuyển hố những ĐƯQT có nội
dung quá phức tạp hoặc chỉ quy định các nguyên tắc chung, còn các Điều ước quốc
tế có các nội dung quy định cụ thể, rõ ràng, chi tiết thì nên áp dụng trực tiếp mà
16 Trần Hữu Duy Minh, Hiệu lực pháp lí và việc áp dụng điều ước quốc tế ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số
3, năm 2016, tr. 38-45.
11
0
0
khơng cần phải thơng qua thủ tục chuyển hố nhằm giảm bớt gánh nặng của công
tác lập pháp, lập quy của Nhà nước vốn đã rất đồ sộ hiện nay.
12
0
0
Chương 2
Nguyên tắc áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm
quyền phê chuẩn của Quốc hội
1. Cơ sở áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của
Quốc hội
Trước kia, khi Luật ĐƯQT 2005 có hiệu lực, chỉ có một số rất ít quyết định phê
chuẩn, phê duyệt, ký ĐƯQT có chứa nội dung về áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc
một phần ĐƯQT. Một số ít văn bản có nội dung cho phép xác định áp dụng hay
khơng áp dụng trực tiếp ĐƯQT.
Ví dụ: Nghị quyết số 71/2006/NQ-QH11 ngày 25/11/2006 của Quốc hội về việc
phê chuẩn nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam, trong
đó tuyên bố áp dụng trực tiếp một số cam kết của Việt Nam “được ghi tại Phụ lục
đính kèm Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương
mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính
kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập
Tổ chức thương mại thế giới.”17
Trong quá trình ký kết ĐƯQT, phần lớn trường hợp cơ quan đề xuất thường kiến
nghị về việc áp dụng trực tiếp là “áp dụng trực tiếp toàn bộ điều ước”. Tuy nhiên,
rất hiếm khi cơ quan quyết định chấp nhận sự ràng buộc của ĐƯQT đồng thời quyết
định áp dụng trực tiếp hoặc tồn bộ ĐƯQT.
Trong q trình thực hiện ĐƯQT, hầu hết cơ quan, tổ chức, cá nhân đã hình
thành tâm lý “tơn trọng và thực hiện cam kết quốc tế” của Việt Nam. Rõ ràng,
không thể viện dẫn việc “chưa có quyết định áp dụng trực tiếp” để từ chối tn thủ
những quy định có tính chất áp dụng trực tiếp, như quy định trong các Hiệp định
17 Báo cáo đánh giá tác động của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế, Vụ Luật pháp và
Điều ước quốc tế, Bộ Ngoại Giao, tr 17.
13
0
0
đầu tư về quyền của nhà đầu tư nước ngoài được khởi kiện trọng tài đối với tranh
chấp đầu tư. Đối với những quy định chỉ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa các
quốc gia (ví dụ quy định hai Bên chuyển cho nhau mẫu hộ chiếu) thì việc ban hành
văn bản để thi hành hoặc để công nhận “áp dụng trực tiếp” lại càng khơng cần
thiết, thậm chí bất hợp lý.
Một số mục tiêu đặt ra:
Thống nhất một cách hiểu hợp lý.
Tạo điều kiện cho việc thực hiện ĐƯQT.
Phù hợp với chức năng, thẩm quyền, điều kiện làm việc của các cơ quan liên
quan.
Không cản trở việc ban hành quyết định về áp dụng trực tiếp hoặc không áp
dụng trực tiếp để làm rõ cách thức thực hiện ĐƯQT khi cần thiết.
Hiện nay, theo Điều 6 Luật ĐƯQT 2016, có hai trường hợp quy định ĐƯQT
thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội có thể được áp dụng trực tiếp tại Việt
Nam18.
Trường hợp thứ nhất: Khi quy định của ĐƯQT xung đột/khác với quy định
của pháp luật Việt Nam về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định ĐƯQT.
Trường hợp thứ hai: Khi có quyết định cho phép áp dụng trực tiếp của Quốc
hội.
Thực tế, mới chỉ có 8 trường hợp các cơ quan có thẩm quyền có quyết định cho
phép áp dụng trực tiếp . Trong đó, riêng ĐƯQT thuộc thẩm quyền phê chuẩn của
Quốc hội chiếm tới 7 trường hợp.
2. Phương thức áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê
chuẩn của Quốc hội
18 Trần Hữu Duy Minh, Hiệu lực pháp lí và việc áp dụng điều ước quốc tế ở Việt Nam, Tạp chí Luật học , số
3(189), tháng 3 năm 2016, tr. 38 – 46,
14
0
0
Các nghiên cứu và thực tiễn nhiều nước giải thích khái niệm “các quy định có
thể áp dụng trực tiếp” là quy định có thể trực tiếp làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
của cá nhân, tổ chức và có thể được viện dẫn trước tòa để giải quyết tranh chấp,
tương phản với quy định ĐƯQT chỉ làm phát sinh nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Đối với phương thức áp dụng trực tiếp ĐƯQT mà Việt Nam ký kết hoặc tham
gia, Quốc hội (hoặc Chủ tịch nước, Chính phủ) có thẩm quyền quyết định áp dụng
trực tiếp toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
trường hợp quy định của ĐƯQT đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện. Do đó, trong trường
hợp quy định của ĐƯQT đầy đủ, rõ ràng và chi tiết thì cơ quan có thẩm quyền chỉ
cần ban hành văn bản pháp luật thừa nhận toàn bộ hoặc một phần nội dung của một
ĐƯQT và hệ quả của nó là nội dung của điều ước quốc tế trở thành bộ phận của hệ
thống pháp luật quốc gia, được thực hiện, dẫn chiếu áp dụng như các quy định của
pháp luật quốc gia.
Có thể thấy rằng, trong điều kiện khn khổ pháp lý cịn chưa hồn thiện và khả
năng ban hành luật đầy đủ, chi tiết còn hạn chế như hiện nay thì việc tính tốn để áp
dụng trực tiếp ĐƯQT là hợp lý. Trên thực tế, có nhiều ĐƯQT như Công ước Paris
về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1967, Công ước Berne về bảo hộ tác
phẩm văn học nghệ thuật năm 1971 mà nước ta gia nhập là những ĐƯQT chuyên
ngành, nên việc việc quy định áp dụng trực tiếp các điều này để bảo đảm sự hài hoà
và thống nhất giữa pháp luật quốc gia và ĐƯQT là cần thiết.
Một số ý kiến cho rằng việc áp dụng trực tiếp có tác động tiêu cực là không thể
viện dẫn việc chưa tuyên bố công nhận áp dụng trực tiếp để từ chối áp dụng trực
tiếp ĐƯQT. Tuy nhiên, quốc gia cũng không thể viện dẫn việc chưa tuyên bố công
nhận áp dụng trực tiếp để vi phạm nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế. Vì vậy, trong
trường hợp không thực hiện nghĩa vụ theo ĐƯQT với lý do “pháp luật trong nước
chỉ cho phép áp dụng trực tiếp nếu đã tuyên bố công nhận”, điều này cũng sẽ
không được chấp nhận trong luật quốc tế. Một số ý kiến khác thì viện dẫn đến việc
thẩm phán từ chối áp dụng quy định của ĐƯQT với lý do “thẩm phán chỉ tuân theo
15
0
0
pháp luật”, mà quy định của ĐƯQT không phải là “pháp luật”. Ý kiến này khơng
có cơ sở vì bản thân Điều 6.1 Luật ĐƯQT 2016 chính là “pháp luật” mà thẩm phán
khi xét xử phải tuân theo. Ngoài ra, một số luật khác như Bộ luật Dân sự, Luật Đất
đai… cũng quy định về việc áp dụng điều ước quốc tế, hoặc thậm chí pháp luật
nước ngồi, và thẩm phán không thể từ chối áp dụng điều ước quốc tế hoặc pháp
luật nước ngoài với lý do các quy định đó khơng được tun bố áp dụng trực tiếp19.
Ngồi ra, việc áp dụng trực tiếp ĐƯQT cũng có các tác động tích cực khi nó phù
hợp với thực tiễn hiện nay của các quyết định phê chuẩn của Quốc hội. Không nhất
thiết phải xác định các điều khoản của điều ước được phép áp dụng trực tiếp trong
Quyết định về việc chịu sự ràng buộc của ĐƯQT; đảm bảo sự tuân thủ các quy định
có thể áp dụng trực tiếp mà không cần ban hành thêm văn bản công nhận áp dụng
trực tiếp; phù hợp với tâm lý, thực tiễn đã hình thành trong áp dụng, thực hiện, tuân
thủ ĐƯQT; và không cản trở việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định về
việc áp dụng trực tiếp hay không áp dụng trực tiếp vào thời điểm ký, phê chuẩn, phê
duyệt, gia nhập.
Trong hầu hết các Tờ trình về việc ký, phê chuẩn điều ước, các cơ quan đề xuất
đều kiến nghị “áp dụng trực tiếp toàn bộ điều ước”, trong khi có rất nhiều nội dung
khơng thể áp dụng trực tiếp, mặc dù quy định đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện. Sự
khác biệt về cách hiểu thế nào là quy định có thể áp dụng trực tiếp dẫn đến Việt
Nam cho rằng có thể áp dụng trực tiếp một số điều khoản có bản chất không thể áp
dụng trực tiếp được. Điều này dẫn đến việc không ban hành văn bản quy phạm
trong nước, không có các biện pháp triển khai để thực hiện nghĩa vụ điều ước, trong
khi đáng lẽ phải làm như vậy. Do đó, Việt Nam khơng thực hiện hoặc thực hiện
khơng đúng nghĩa vụ quy định trong ĐƯQT.
3. Thực tiễn áp dụng Điều ước quốc tế tại một số quốc gia
3.1. Thực tiễn áp dụng tại Pháp
19 Báo cáo đánh giá tác động của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế, Vụ Luật pháp và
Điều ước quốc tế, Bộ Ngoại Giao, tr 18.
16
0
0
Tại Pháp, ĐƯQT có giá trị cao hơn luật nên trong trường hợp ĐƯQT có chứa
điều khoản trái với luật quốc gia thì việc thực hiện ĐƯQT địi hỏi phải sửa đổi hệ
thống luật trong nước. Việc này sẽ gây nhiều xáo trộn, nên Pháp cũng thường cố
gắng tránh đưa vào ĐƯQT điều khoản trái với luật trong nước.
Pháp luật của Pháp phân biệt hai trường hợp sau:
Thứ nhất, nếu có thể áp dụng trực tiếp ĐƯQT thì chỉ cần thông qua thủ tục
phê chuẩn hay phê duyệt là điều ước đó có hiệu lực áp dụng trực tiếp. Mọi
cơng dân Pháp đều có quyền viện dẫn ĐƯQT trước Toà án Pháp. Trên thực
tế, trường hợp này chiếm đa số trong các ĐƯQT mà Pháp đã ký kết hoặc
tham gia.
Thứ hai, nếu không thuộc trường hợp trên, Pháp phải ban hành một đạo luật
để chuyển hoá ĐƯQT vào pháp luật quốc gia. Đây thường là các ĐƯQT làm
phát sinh trực tiếp quyền và nghĩa vụ đối với các cá nhân; bản thân ĐƯQT
khơng có đầy đủ các quy định rõ ràng và cụ thể để có thể được áp dụng trực
tiếp; hoặc trong trường hợp quy định về hiệu lực trực tiếp đã rõ ràng nhưng
điều ước đó có nội dung trái hoặc chưa được quy định trong luật quốc gia thì
cũng phải ban hành một đạo luật để chuyển hoá ĐƯQT vào pháp luật quốc
gia.
3.2. Thực tiễn áp dụng tại Nhật Bản
Pháp luật Nhật Bản khơng có quy định cụ thể về các tiêu chí khi xem xét một
ĐƯQT đã ký kết hoặc gia nhập có cần nội luật hố hay khơng và cũng khơng quy
định cơ quan nào có thẩm quyền xác định vấn đề này. Nhưng khi tổng kết q trình
hoạt động thực tiễn, Tồ án Tối cao Nhật Bản đã đưa ra hai tiêu chí xác định ĐƯQT
khơng phải nội luật hố, đó là:
(i)
ngay khi ký kết, gia nhập các bên thỏa thuận rằng các nội dung của điều
ước sẽ được áp dụng trực tiếp;
(ii)
các quy định trong ĐƯQT đã rõ ràng, chính xác và tiện áp dụng.
17
0
0
Việc xác định một điều ước có được áp dụng trực tiếp hay khơng sẽ có ý nghĩa
thực tiễn trong xét xử hoặc giải quyết các vụ việc cụ thể. Bởi lẽ, khi xác định một
điều ước có hiệu lực áp dụng trực tiếp, không phải thông qua thủ tục nội luật hố,
thì một cá nhân có quyền căn cứ vào ĐƯQT đó để kiện Chính phủ, nếu cá nhân này
cho rằng Chính phủ đã vi phạm nghĩa vụ theo quy định của ĐƯQT đó. Ngược lại,
nếu một ĐƯQT phải thơng qua thủ tục nội luật hố vào pháp luật trong nước, thì cá
nhân khơng có quyền căn cứ vào các quy định của ĐƯQT này để kiện Chính phủ.
Nhật Bản không dùng phương pháp “dùng một luật để sửa nhiều luật” hiện hành
khi thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong các ĐƯQT đã ký kết hoặc gia nhập như
một số quốc gia khác, mà lựa chọn cách thức sửa đổi hoặc ban hành mới từng luật
cụ thể để thực hiện các nghĩa vụ này. Vấn đề khó khăn là trong nhiều trường hợp, sẽ
chỉ có một khoảng thời gian rất ngắn để Nhật Bản kịp sửa đổi và ban hành một khối
lượng lớn các văn bản pháp luật trong nước liên quan đến việc thực hiện các cam
kết quốc tế.
18
0
0
Chương 3
Mối liên hệ giữa nguyên tắc áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế
với quá trình ký kết và thực hiện Hiệp định EVFTA
1. Quá trình đàm phán, ký kết, thực thi Hiệp định EVFTA
Kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2020, Hiệp định EVFTA đã chính thức có hiệu lực
sau khi đã được Quốc hội của hai Bên phê chuẩn. Có thể nói EVFTA là một trong
những Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã tham gia, với nhiều
cam kết sâu, rộng, bao hàm cả những nội dung truyền thống và phi truyền thống.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, EVFTA được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều
cơ hội thuận lợi đối với kinh tế và xã hội của nước ta.
* Bối cảnh của Hiệp định
Nếu nhìn nhận bối cảnh trên ba cấp độ quốc tế, khu vực và quốc gia, EVFTA và
EVIPA được khởi động và kết thúc đàm phán trong các điều kiện sau:
Thứ nhất, thế giới đang trong quá trình quá độ chuyển sang một trật tự
mới, đa cực hóa, quyền lực phân tán.
Thứ hai, ở cấp độ khu vực, với tư cách là một trong những khu vực hội
nhập sâu rộng nhất và có nhiều mặt nhất thể hóa, nhưng EU khơng phải
khơng có những vấn đề, như việc nước Anh rời EU (Brexit), vấn đề nhập
cư, tăng trưởng kinh tế chậm lại, đòi hỏi EU phải tiếp tục củng cố nội
khối, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác thực chất với bên ngoài.
Thứ ba, ở cấp độ quốc gia, nhiều nước thành viên EU thấy rõ lợi ích của
tự do hóa thương mại và thuận lợi hóa đầu tư, cũng như tiềm năng lớn của
Việt Nam.
* Quá trình đàm phán, ký kết, thực thi Hiệp định
Khi được đưa vào thực thi, Hiệp định EVFTA sẽ là cú hích rất lớn cho xuất khẩu
của Việt Nam, giúp đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là các
mặt hàng nông, thủy sản cũng như những mặt hàng Việt Nam vốn có nhiều lợi thế
cạnh tranh. Những cam kết dành đối xử cơng bằng, bình đẳng, bảo hộ an tồn và
19
0
0
khơng cần phải thơng qua thủ tục chuyển hố nhằm giảm bớt gánh nặng của công
tác lập pháp, lập quy của Nhà nước vốn đã rất đồ sộ hiện nay.
0
0
12
0
0
Chương 2
Nguyên tắc áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm
quyền phê chuẩn của Quốc hội
1. Cơ sở áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của
Quốc hội
Trước kia, khi Luật ĐƯQT 2005 có hiệu lực, chỉ có một số rất ít quyết định phê
chuẩn, phê duyệt, ký ĐƯQT có chứa nội dung về áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc
một phần ĐƯQT. Một số ít văn bản có nội dung cho phép xác định áp dụng hay
khơng áp dụng trực tiếp ĐƯQT.
Ví dụ: Nghị quyết số 71/2006/NQ-QH11 ngày 25/11/2006 của Quốc hội về việc
phê chuẩn nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam, trong
đó tuyên bố áp dụng trực tiếp một số cam kết của Việt Nam “được ghi tại Phụ lục
đính kèm Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương
mại thế giới được quy định đủ0 rõ,0chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính
kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập
Tổ chức thương mại thế giới.”17
Trong quá trình ký kết ĐƯQT, phần lớn trường hợp cơ quan đề xuất thường kiến
nghị về việc áp dụng trực tiếp là “áp dụng trực tiếp toàn bộ điều ước”. Tuy nhiên,
rất hiếm khi cơ quan quyết định chấp nhận sự ràng buộc của ĐƯQT đồng thời quyết
định áp dụng trực tiếp hoặc toàn bộ ĐƯQT.
Trong quá trình thực hiện ĐƯQT, hầu hết cơ quan, tổ chức, cá nhân đã hình
thành tâm lý “tơn trọng và thực hiện cam kết quốc tế” của Việt Nam. Rõ ràng,
khơng thể viện dẫn việc “chưa có quyết định áp dụng trực tiếp” để từ chối tuân thủ
những quy định có tính chất áp dụng trực tiếp, như quy định trong các Hiệp định
17 Báo cáo đánh giá tác động của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế, Vụ Luật pháp và
Điều ước quốc tế, Bộ Ngoại Giao, tr 17.
13
0
0
đầu tư về quyền của nhà đầu tư nước ngoài được khởi kiện trọng tài đối với tranh
chấp đầu tư. Đối với những quy định chỉ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa các
quốc gia (ví dụ quy định hai Bên chuyển cho nhau mẫu hộ chiếu) thì việc ban hành
văn bản để thi hành hoặc để công nhận “áp dụng trực tiếp” lại càng khơng cần
thiết, thậm chí bất hợp lý.
Một số mục tiêu đặt ra:
Thống nhất một cách hiểu hợp lý.
Tạo điều kiện cho việc thực hiện ĐƯQT.
Phù hợp với chức năng, thẩm quyền, điều kiện làm việc của các cơ quan liên
quan.
Không cản trở việc ban hành quyết định về áp dụng trực tiếp hoặc không áp
dụng trực tiếp để làm rõ cách thức thực hiện ĐƯQT khi cần thiết.
Hiện nay, theo Điều 6 Luật ĐƯQT 2016, có hai trường hợp quy định ĐƯQT
thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội có thể được áp dụng trực tiếp tại Việt
Nam18.
Trường hợp thứ nhất: Khi quy định của ĐƯQT xung đột/khác với quy định
của pháp luật Việt Nam về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định ĐƯQT.
Trường hợp thứ hai: Khi có quyết định cho phép áp dụng trực tiếp của Quốc
hội.
Thực tế, mới chỉ có 8 trường hợp các cơ quan có thẩm quyền có quyết định cho
phép áp dụng trực tiếp . Trong đó, riêng ĐƯQT thuộc thẩm quyền phê chuẩn của
Quốc hội chiếm tới 7 trường hợp.
2. Phương thức áp dụng trực
0 tiếp Điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê
chuẩn của Quốc hội
0