MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản tinh thần vô giá, là cốt lõi của bản
sắc dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai
trị to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Di sản văn
hóa bao gồm cả di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể, là sản
phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học cần được hết sức coi trọng
bảo tồn, kế thừa và phát triển.
Luật di sản văn hóa quy định: “ Nhà nước khuyến khích và tạo điều
kiện cho tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản,
truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể nhằm gìn giữ, phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc và làm giàu kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam”.
Huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang là một huyện miền núi phía Bắc
nước ta nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, nhất là dân tộc Tày.
Từ xa xưa các làn điệu hát Then, hát Cọi, hát Quan Làng, lễ hội Lồng tơng đã
làm say đắm lịng người, đưa du khách thập phương đến với Tuyên quang,
đặc biệt trong các dịp lễ hội đầu xuân. Trong xu thế hội nhập và phát triển của
nền kinh tế thị trường, những giá trị văn hóa dân tộc tày ở Huyện Chiêm Hóa,
tỉnh Tuyên quang không mất đi mà ngày càng được bảo vệ và phát huy. Có
được sự thành cơng ấy là nhờ sự chỉ đạo của huyện ủy Chiêm Hóa và sáng tạo
của nhân dân trong toàn huyện trên lĩnh vực văn hóa.
Việc đánh giá đầy đủ, khách quan, khoa học quá trình lãnh đạo bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể dân tộc Tày của huyện ủy
Chiêm Hóa nói riêng và của tỉnh Tuyên Quang nói chung là một vấn đề có
ý nghĩa chiến lược để xây dựng và phát triển ngành văn hóa du lịch tồn
tỉnh. Mặt khác, nhận thức, đánh giá đúng những thành tựu, hạn chế,
những thuận lợi và khó khăn trong cơng tác lãnh đạo của huyện ủy Chiêm
1
Hóa về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Tày cũng là
vấn đề quan trọng ở những tỉnh có đồng bào dân tộc Tày sinh sống.
Nghiên cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm để thực hiện thành công bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày nói chung, từ đó tiếp
tục hồn thiện hơn nữa việc cụ thể hóa đường lối của Đảng bộ huyện đối
với việc phát triển văn hóa trong sự nghiệp đổi mới hiện nay là một việc
rất cần thiết. Đó là những lý do, tác giả chọn đề tài: “ Huyện ủy Chiêm
Hóa, tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi
vật thể của dân tộc Tày hiện nay”, làm đề tài tiểu luận kết thúc môn học
Đảng lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ chủ trương, sự chỉ đạo của Huyện ủy Chiêm Hóa, tỉnh
Tuyên Quang đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của
dân tộc Tày hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích những đặc điểm cụ thể của địa phương, yêu cầu khách quan
quá trình lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc
Tày hiện nay.
- Trình bày một cách có hệ thống q trình Huyện ủy Chiêm Hóa vận
dụng các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa để
đề ra các chủ trương và chỉ đạo thực hiện bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa phi
vật thể của dân tộc Tày hiện nay.
- Đánh giá khách quan những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của
những thành tựu, hạn chế trong quá trình lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang
hiện nay.
- Đề ra phương hướng, giải pháp phát huy giá trị văn hóa phi vật thể
của dân tộc Tày huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang trong thời gian tới.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Huyện ủy Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày
hiện nay.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Chủ trương, chính sách lãnh đạo của Huyện ủy
Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật
thể của dân tộc Tày.
- Về khơng gian: Địa bàn huyện Chiêm Hóa
- Về thời gian: Từ 2010 đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Đề tài sử dụng các phương pháp: phân tích – tổng hợp, lôgic – lịch sử,
nghiên cứu tài liệu, điều tra xã hội học…
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục
tiểu luận gồm 3 chương, tiết
3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CỦA DÂN TỘC TÀY CỦA HUYỆN ỦY
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Văn hóa là sản phẩm của lồi người, văn hóa được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn
hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thơng qua q trình xã hội
hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác
xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã
hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động
của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người
tạo ra.
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc
Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình.
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO: Văn
hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia.
Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do
con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên.
1.1.2 Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể
Là các sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sữ, văn hóa, khoa học được lưu
giữu bằng trí nhớ, chữ viết và được lưu truyền bằng miệng, truyền nghề, trình
4
diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác. Bao gồm tiếng nói, chữ viết,
tác phẩm văn hóa nghệ thuật, khoa học, ngữ văn, truyền miệng diễn xướng,
dân gian lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công, truyền thong tri
thức về y, dược học cổ truyền, văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống
dân tộc và những trí thức dân gian khác.( theo luật di sản văn hóa).
Theo UNESCO: “ Văn hố phi vật thể được hiểu là các tập quán, các
hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức kỹ năng và kèm theo đó là những cơng cụ
đồ vật đồ tạo tác và các khơng gian văn hố có liên quan mà các cộng đồng,
các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân công nhận là một
phần di sản văn hoá của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác,
di sản văn hoá phi vật thể được các cộng đồng các nhóm người khơng ngừng
tái tạo để thích nghi với mơi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng
với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về
bản sắc và sự kế tục. Qua đó khích lệ thêm sự tơn trọng đối với sự đa dạng
văn hố và tính sáng tạo của con người.”
1.2 Hệ thống giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày ở huyện
Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên quang
1.2.1 Tiếng nói, chữ viết
Tiếng Tày là tiếng nói của người Tày, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái
trong hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Tiếng Tày có quan hệ gần gũi với tiếng Nùng,
tiếng Tráng ở mức trao đổi trực tiếp được, và giao tiếp được với người nói
tiếng Lào, tiếng Thái.
Chữ viết của tiếng Tày là Chữ Tày - Nùng. Phương án chữ viết này có
mấy đặc điểm sau:
-
Dùng các chữ cái và cách ghép vần của của Chữ quốc ngữ. Về cơ
bản quy tắc chính tả giống với Chữ Quốc ngữ.
-
Bổ sung một số âm mà chữ Quốc ngữ khơng có : bj; pj; mj; phj, sl
-
Khi viết bỏ dấu “sắc” trong các âm tiết có âm cuối là p, t, c, ch .
-
Khơng có ký hiệu thể hiện thanh “lửng”.
5
-
Dùng thêm hai chữ cái Z và W để ghi âm địa phương, nếu có.
Nhằm giúp người học phát âm đúng, trong sách này chúng tôi dùng
dấu “ _ ” đặt dưới nguyên âm, cách viết giống như viết dấu “nặng”. Ví dụ: ta
(sơng), lương (chùng). Đây chỉ là kí hiệu quy ước riêng dùng trong việc học
tiếng, chưa phải là kí hiệu của chữ viết
Từ của tiếng Tày là từ khơng biến đổi hình thái, cách cấu tạo về cơ bản
giống như từ trong tiếng Việt. Xét về nguồn gốc, bộ phận cơ bản là những từ
thuộc nhóm ngơn ngữ Tày - Thái. Một bộ phận khác là những từ vay mượn
trực tiếp từ tiếng Hán Ví dụ: hài xảo (giầy cỏ); tai va (nói phét), cảng chá
(mặc cả). Hiện nay, trong tiếng Tày có nhiều từ vay mượn của tiếng Việt hoặc
qua tiếng Việt. Ví dụ: phân đạm, kế tốn, xe đạp, chính phủ.
Ngữ pháp tiếng Tày dùng trật tự, hư từ và ngữ điệu làm các phương
thức chủ yếu. Trật tự kết hợp từ chặt chẽ và theo trật tự xi giống như ngữ
pháp tiếng Việt. Nói chung, nếu so sánh với tiếng Việt thì tiếng Tày có nhiều
điểm tương đồng. Vì vậy những người đã biết và đang sử dụng tiếng Việt đều
có thể tiếp thu và sử dụng tiếng Tày khơng mấy khó khăn.
1.2.2 Diễn xướng dân gian
Nhắc đến Then, người ta nghĩ ngay đến một loại hình sinh hoạt tín
ngưỡng dân gian của người Tày, người Nùng. Đây là một hình thức diễn
xướng dân gian có từ thời xa xưa.
Hát Then là một loại hình nghệ thuật văn hố dân gian ln có sức sống
khá mạnh mẽ trong đời sống cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng, Thái… ngày
ngày đi lên nương làm rẫy, đêm đêm lại quay quần bên bếp lửa cùng nhau hát
ca lên những bài Then trầm ấm làm tha thiết lịng người. Hát then là loại hình
văn hố phi vật thể vừa mang tính động, hàm chứa tính nhân văn cao, vừa
mang âm hưởng của loại hình văn hố dân gian gắn liền với từng bản sắc của
dân tộc Tày, Nùng.
Then là loại hình nghệ thuật trong văn học dân gian. Vì vậy diễn xướng
trong Then mang tính chất tổng hợp. Sức lôi cuốn của Then không chỉ dừng
6
lại ở lời ca, tiếng tính tẩu mà cịn cuốn hút bởi nghệ thuật biểu diễn vũ đạo
của nghệ nhân, khơng gian, thời gian diễn xướng… khi tìm hiểu về hình thức
diễn xướng phải đặt nó trong mơi trường diễn xướng.
Diễn xướng là một hoạt động sân khấu, nhảy múa âm nhạc. Nói rộng ra
nó cịn là một hoạt động văn hóa của con người; là những hoạt động hết sức
sống động. Nghiên cứu diễn xướng là nghiên cứu sự sống động của các hiện
tượng văn hóa chứ khơng đơn thuần chỉ là ở một khía cạnh nào đó. Diễn
xướng then là một loại hình nghệ thuật biểu diễn tổng hợp của nhiều hình
thức diễn xướng. Là tổng thể bao gồm nhiều yếu tốc khác nhau như tín
ngưỡng xã hội và văn hóa nghệ thuật, đàn hát để miêu tả các cửa sẽ qua (hát
từng cửa) xóc nhạc để chỉ binh mã đang đi vào cửa, nhập đồng, nhảy múa,
hóa vàng, dâng lễ.
1.2.3 Lễ hội truyền thống
Lễ hội xuống đồng của đồng bào dân tộc Tày huyện Chiêm Hóa, tỉnh
Tuyên Quang được tổ chức vào mùng 8 tháng Giêng âm lịch hàng năm, với
mong ước cầu một năm mới mưa thuận, gió hịa, mùa màng bội thu, nhà nhà
ấm no hạnh phúc…Lễ hội gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ bắt đầu
bằng việc rước 9 mâm Tồng từ Đền Bách Thần (thị trấn Vĩnh Lộc, huyện
Chiêm Hóa) về trung tâm sân vận động của huyện Chiêm Hóa. Các mâm
Tồng là các sản vật của địa phương dâng lên để tạ ơn các vị thần đã phù hộ
cho nhân dân địa phương có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Sau đó, thầy cả
(người cúng chính của buổi lễ) và các thầy giúp việc làm lễ đặt mâm Tồng, tạ
ơn trời đất, cầu sự ấm no, hạnh phúc cho mọi nhà. Cuối phần lễ là nghi lễ
"tịch điền" (cày ruộng) với mong muốn đường cày may mắn đầu năm sẽ
mang lại nhiều may mắn, thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp.Sau phần lễ sẽ
diễn ra phần hội với các trò chơi dân gian như: tung còn, kéo co, đẩy gậy, leo
cột mỡ, bịt mắt bắt dê… tạo khơng khí vui tươi, phấn khởi dịp đầu xuân mới
giữa các dân tộc trên địa bàn huyện Chiêm Hóa.
Lễ hội xuống đồng là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian của đồng bào
dân tộc Tày huyện Chiêm Hóa, cầu mùa của cư dân nông nghiệp trồng lúa
7
nước, thể hiện tín ngưỡng phồn thực cổ xưa và kết hợp với thờ Thành Hoàng
làng, Địa thần, thần mưa, thần sấm... Lễ hội xuống đồng của đồng bào dân tộc
Tày huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tun Quang đã được cơng nhận di sản văn hóa
phi vật thể Quốc gia. Tỉnh Tuyên Quang đang từng bước đưa Lễ hội xuống
đồng trở thành sản phẩm du lịch đặc thù trong mỗi dịp Tết đến Xuân về.
1.2.4 Trò chơi dân gian
Trong hệ thống trị chơi dân gian của người Tày có rất nhiều trò chơi
gắn liền với lễ hội của đời sống cộng đồng như: Tung còn, kéo co, đẩy gậy,
đánh khăng, đi cà kheo, bịt mắt bắt dê, bắn nỏ, nú tìm, múa sư tử…. Tuy
nhiên do tính chất thời vụ và nhịp độ, tần số của các sinh hoạt văn hóa có tính
chất cộng đồng bắt đầu ít có cơ hội để thể hiện, người ta mải mê với các công
việc ruộng nương, đồng áng hơn là chú ý đến việc tổ chức vui chơi và sự phát
triển của truyền thông. Thực trạng đó cần thiết cơ quan quản lý nhà nước phải
có các biện pháp bảo tồn các trị chơi dân gian đang dần bị mai một.
1.2.5 Tín ngưỡng cổ truyền
Đồng bào dân tộc tày có nhiều tín ngưỡng cổ truyền gắn liền với đời
sống tâm linh, điển hình như:
Lễ cấp sắc Tào lễ thụ nghề của thầy Tào cho đệ tử là con cháu kế tiếp
hoặc người tự nguyện làm nghề. Hiện nay lễ cấp Tào được diễn ra trong vòng
2 ngày 1 đêm với nhiều nghi lễ nhỏ khác nhau như: Lệ khai thân, lệ aslay, lệ
slan dèn, lễ rửa tội cho thầy Tào…. Hiện nay lễ cấp sắc Tào vẫn được diễn ra
thường xuyên trong đời sống cộng đồng. So với trước đây, nghi lễ cấp sắc Tào
có thay đổi đơi chút nhưng giá trị tinh thần và tín ngưỡng vẫn đáp ứng nhu
cầu đời sống tâm linh của cộng đồng dân tộc Tày. Nghi lễ cấp sắc Tào hiện
nay đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Thờ cúng tổ tiên là một tập tục truyền thống của người dân tộc Tày, nó
gắn chặt với đời sống tâm linh, tín ngưỡng, khơng gì thay thế được, tập tục
này hầu hết nhà nào cũng tiến hành. Bàn thờ tổ tiên này thường bày đặt trang
trọng ở chính giữa nhà. Những dịp lễ tết xuân về, những khi gia đình gặp tai
8
ương, hoạn nạn, họ luôn cầu xin tổ tiên linh thiêng phù hộ cho họ gặp nhiều
may mắn.
1.3 Chức năng, nhiệm vụ của huyện ủy đối với việc bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày.
Là cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội, huyện ủy Chiêm Hóa lãnh đạo
tồn diện các lĩnh vực trên mặt trận văn hóa – tư tưởng. Đảm bảo cho các hoạt
động diễn ra hiệu quả, chất lượng, theo đúng đường lối, chủ trương chính
sách, đảm bảo cho sự phát triển chung. Huyện ủy tạo mọi điều kiện cho các tổ
cức cá nhân, phát huy vai trò sáng tạo, chủ động trong việc bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa dân tộc Tày.
Huyện ủy lãnh đạo thực hiện nghị quyết, các chủ trương, chính sách về
văn hóa theo đúng hướng, phát huy vai trị của cán bộ quản lý và quần chúng
nhân dân trong toàn huyện.
1.4 Nội dung, phương thức lãnh đạo của huyện ủy với vấn đề bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày
1.4.1 Nội dung lãnh đạo của huyện ủy với vấn đề bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày
+ Huyện ủy quyết định những chủ trương, chính sách lớn về phát triển
văn hóa, quan điểm chủ trương phát triển văn hóa phi vật thể của dân tộc tày.
+ Định hướng về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp
cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Tày.
+ Xây dựng kế hoạch trung và dài hạn thông qua sự lãnh đạo trực tiếp
của UBND huyện.
+ Lãnh đạo quản lý các cán bộ làm cơng tác quản lý văn hóa thơng tin,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý văn hóa ở cơ sở.
+ Tổ chức quản lý các hoạt động thông tin, cổ động, tuyên truyền.
1.4.2 Phương lức lãnh đạo đạo của huyện ủy với vấn đề bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày
9
Phương thức lãnh đạo là những biện pháp, cách thức, hình thức mà
huyện ủy Chiêm hóa sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm đạt
nội dung đã đề ra.
+ Huyện ủy lãnh đạo bằng pháp luật
+ Huyện ủy lãnh đạo bằng việc đưa ra các chủ trương chính sách
+ Huyện ủy lãnh đạo thơng qua cơng tác tuyên truyền, giáo dục, tư
tưởng trong hệ thống chính trị xã hội của huyện.
+ Huyện ủy lãnh đạo thông qua sự quản lý điều hành của UBND huyện
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày theo
quy định của pháp luật.
+ Huyện ủy lãnh đạo bằng việc đầu tư phát triển văn hóa.
+ Huyện ủy lãnh đạo bằng cơng tác kiểm tra giám sát.
1.5 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa
Văn kiện Đại hội XII cũng xác định, tập trung nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động văn hóa. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng như hiện nay, việc xác định nội dung này thể hiện sự nhận
thức đúng đắn của Đảng, bảo đảm cho văn hóa phát triển đúng hướng và ngày
càng nâng cao cả về lượng và chất. Coi trọng việc bảo tồn, phát huy di sản
văn hóa truyền thống dân tộc, sáng tạo giá trị mới và tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc. Phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa; giải quyết hài hòa giữa bảo
tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế, xã hội.
Văn kiện Đại hội XII cũng xác định, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh
vực văn hóa. Đây là quan điểm cơ bản, bảo đảm giữ vững định hướng chính
trị cho văn hóa phát triển. Văn kiện đã xác định: “Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn hóa, văn học - nghệ thuật, báo
chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm
10
quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo”(7). Đồng thời, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; hồn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa phù hợp với thời kỳ hội nhập
quốc tế hiện nay; quan tâm đầu tư đúng mức cho phát triển văn hóa tương ứng
với sự phát triển kinh tế - xã hội.Như vậy, quan điểm Đại hội XII về phát triển
văn hóa Việt Nam ngày càng hồn thiện, phù hợp với thực tiễn hiện nay, đáp
ứng sự phát triển bền vững đất nước.
11
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HUYỆN ỦY CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG
LÃNH ĐẠO VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ CỦA DÂN TỘC TÀY HIỆN NAY
2.1 Khái quát về huyện Chiêm Hóa và dân tộc Tày huyện chiêm
hóa, tỉnh Tuyên Quang.
2.1.1 Khái quát về huyện Chiêm Hóa
- Về điều kiện tự nhiên:
Vị trí địa lý : Huyện nằm ở phía bắc tỉnh Tuyên Quang, phía bắc giáp
huyện Na Hang, phía nam giáp huyện Yên Sơn, phía tây giáp huyện Bắc
Quang (Hà Giang), phía tây nam giáp huyện Hàm n, phía đơng giáp huyện
Chợ Đồn (Bắc Kạn).
Huyện gồm 1 thị trấn Vĩnh Lộc và 25 xã: Bình Nhân, Bình Phú, Hà
Lang, Hịa An, Hịa Phú, Hùng Mỹ, Kiên Đài, Kim Bình, Linh Phú, Minh
Quang, Ngọc Hội, Nhân Lý, Phú Bình, Phúc Sơn, Phúc Thịnh, Tân An, Tân
Mỹ, Tân Thịnh, Tri Phú, Trung Hà, Trung Hòa, Vinh Quang, Xuân Quang,
Yên Lập, Yên Nguyên.
-
Về kinh tế - xã hội:
Chiêm Hố có các nguồn tài ngun khống sản như Mangan tại xã
Phúc Sơn, Minh Quang; quặng ăngtimoan tại các xã Ngọc Hội, Phú Bình; mỏ
đá tại các xã Linh Phú, Phúc Thịnh, Thổ Bình, Minh Quang, Phúc Sơn; cát,
sỏi ở Ngịi Qng, Sơng Gâm; Barit ở Hạ Vị; mỏ than Linh Đức xã Linh Phú;
ngồi ra Chiêm Hố cịn có mỏ chì, kẽm…
Đất đai ở các xã vùng cao của Chiêm Hố phù hợp với việc khoanh
ni rừng tự nhiên và trồng rừng, phát triển kinh tế lâm – nông nghiệp, cịn
các xã phía Nam của Chiêm Hố có độ dốc phổ biến 10 - 250, thích hợp trồng
cây cơng nghiệp dài ngày, cây lương thực và cây ngắn ngày khác. Chiêm Hoá
12
hiện có trên 9.000 ha rừng đặc dụng ở các xã Kim Bình, Hịa Phú, Hà Lang,
Trung Hà với nhiều loài cây cổ thụ, động vật hoang dã quý hiếm.
Chiêm Hố cũng là vùng đất thích hợp trồng các loại cây ăn trái, ở
Chiêm Hố hiện có 290,2 ha nhãn, 122,5 ha vải, 58,5 ha qt…
Chiêm Hố có Cụm Cơng nghiệp An Thịnh tại thôn An Thịnh xã Phúc
Thịnh được đầu tư xây dựng nhà máy và các cơ sở chế biến nơng lâm sản,
luyện quặng Ferromangan. Hiện đã có 2 nhà máy được khởi công là nhà máy
khai thác, chế biến Ferromangan với công suất thiết kế 15.000 tấn sản
phẩm/năm và nhà máy chế biến đũa gỗ tách xuất khẩu.
Ngồi ra, Chiêm Hố cịn có nhiều cơ sở chế biến cơ khí, sản xuất đồ
mộc, đồ gia dụng, làng nghề mây tre đan tại xã Trung Hà…
-
Về truyền thống văn hóa, lịch sử:
Chiêm Hố có nhiều thắng cảnh đẹp, là điều kiện thuận lợi phát triển
các loại hình du lịch sinh thái, du lịch lịch sử văn hoá như: Rừng nguyên sinh
Cham Chu; thác Bản Ba, xã Trung Hà; hang Thẳm Hốc, Thẳm Vài, Bó
Ngoặng, thác Lung Chiêng, xã Phúc Sơn; hang Núi Chùa, hang Mỏ Bài, động
Bản Pài xã Minh Quang; thác Lụa xã Hà Lang; rừng sinh thái trên núi đá
Tầng, Biến xã Phúc Sơn; các khu di tích lịch sử: Kim Bình, Kiên Đài, n
Ngun, Vinh Quang, Linh Phú, Xuân Quang…
Ngoài những thắng cảnh đẹp, Chiêm Hố cịn thu hút du khách bởi
những món đặc sản như: rượu nếp cái hoa vàng, bánh gai Chiêm Hóa; Pia
bẳm (mắm cá ruộng) Kim Bình, xơi ngũ sắc, cơm lam, nộm rau dớn, thịt trâu
khô, chè dây, chè đắng... bà con dân tộc Tày có thối quen gói các món ăn
trong các loại lá rừng, vì thế những món ăn quyện mùi thơm của lá gói, màu
sắc của các món ăn cũng rất đặc biệt.
2.1.2. Khái quát về dân tộc Tày ở huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên
Quang
2.1.2.1 Dân số, nguồn gốc của dân tộc Tày
Dân tộc Tày là dân cư chiếm số đơng ở huyện Chiêm Hóa. Hiện nay, ở
Chiêm Hóa có 43. 367 người tày chiếm 49,2% dân số tồn huyện. Có những
13
xã của huyện người Tày chiếm tới 90% như: Kiên Đài, Yên Lập, Bình Phú,
Phúc Sơn…
Người Tày ở huyện Chiêm Hóa nói riêng và người Tày ở tỉnh Tuyên
Quang nói chung có nguồn gốc rất lâu đời, nhưng cũng có một bộ phận người
được “Tày hóa” các dân tộc khác đến sinh sống ở vùng người tày với nhiều lý
do khác nhau. Họ đến ở, lấy vợ, lấy chồng người Tày chịu ảnh hưởng văn hóa
người tày sâu sắc và trở thành người Tày.
Theo số liệu thống kê thì tồn huyện Chiêm Hóa có 18 dân tộc anh em
cùng chung sống, chủ yếu là dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ, Hoa,
Hmong bao gồm:
STT
1
2
3
4
5
6
7
Dân tộc
Tổng số dân (người)
Kinh
54.125
Tày
43.367
Dao
10.234
Sán Chỉ
13.657
Hoa
9.056
Hmong
7.609
Các dân tộc khác
3.325
Nguồn : Thống kê của UBND huyện Chiêm Hóa năm 2017
Người Tày, gọi cộng đồng cư trú của mình là bản, bản là đơn vị cư
trú nhỏ nhất, là cộng đồng gắn kết các hộ gia đình với nhau, bản nhỏ dưới 10
hộ, bản trung bình từ 15- 20 hộ, bản lớn từ 60- 120 hộ. Các bản tập trung ở
các địa hình khác nhau, có bản nhà này sát nhà kia, nhưng cũng có bản nhà ở
theo cụm, theo hộ cách xa nhau. Người Tày định cư chủ yếu ở vùng thấp, đi
lại thuận tiện, gần nguồn nước, gần đồng ruộng để tiện trồng trọt. Bản người
Tày có nhiều cây ăn quả, cấy bóng mát, cây lấy gỗ, cây lấy lá để lợp nhà.
2.1.2.2 Hoạt động kinh tế
Là người dân bản địa, người Tày quần cư và canh tác trên chính mảnh
đất của mình. Hoạt động kinh tế nơng nghiệp là chủ yếu, người Tày có hai
loại canh tác chính là làm nương rẫy và trồng lúa nước.
14
- Canh tác nương rẫy: Loại hình canh tác này hiện nay vẫn cịn được
duy trì do điều kiện tự nhiên và vùng đất định cư của người Tày liền kề với
núi rừng, có nhiều mảnh đất màu mỡ, thuận lợi cho việc trồng lúa nương, ngô,
khoai, sắn, bông, vừng, lạc…
- Trồng lúa nước: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống
làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện
pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới
ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là
loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà.
Ngồi lúa nước người Tày cịn trồng lúa khơ, hoa màu, cây ăn quả...
Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông
cho đến nay vẫn cịn khá phổ biến. Các nghề thủ cơng gia đình được chú ý.
Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo.
Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.
2.1.2.3 Đời sống văn hóa, xã hội
Theo phong tục truyền thống, hầu hết người Tày kết hơn trong cùng
dịng họ. Gia đình người Tày theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ, một vợ
một chồng. Thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu trước khi đi đến hơn
nhân. Thế nhưng, có đi đến hơn nhân hay khơng lại do hai gia đình quyết
định. Hôn lễ truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức:
Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu…,
thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc người. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ
đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.
Gia đình người Tày thường q con trai hơn và có qui định rõ ràng trong quan
hệ giữa các thành viên trong nhà.
Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt,
nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như khơng có hoa văn
trang trí. Nữ có áo cánh ngắn may cổ cao, năm thân, cài năm khuy ở cổ và
sườn bên phải, quần dài, thắt lưng, khăn. Ngày lễ hội, mặc thêm áo cánh trắng
15
bên trong. Trước kia, phụ nữ Tày nhiều vùng cũng mặc váy, gần đây chuyển
sang mặc quần, dài chấm gót, quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa. Phụ nữ
Tày cịn có áo dài kiểu như áo ngắn, vạt bng dài q đầu gối. Đồ trang sức
có vịng cổ, vịng tay, vịng chân và dây xà tích bằng bạc.
Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại
thơ, ca, các truyện cổ tích, truyện cười dân gian, múa nhạc... Các điệu dân ca
phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con. Người Tày phổ biến hát lượn
như hát ví ở miền xi. Hai bên nam nữ hát đối đáp về mọi khía cạnh của đời
sống xã hội, nhất là về tình u đơi lứa. Có nhiều điệu lượn như lượn Slương,
lượn Then, lượn Nàng Hai... Người Tày cịn có các điệu hát Then, gọi là Văn
ca, được ngâm hát trong đám tang, gọi là hát hội trong các hội Lồng tồng, gọi
là Cỏ lẩu trong hát đám cưới.
Người Tày có nghề thủ cơng phong phú, đa dạng, nam nữ đều biết đan
các đồ dùng bằng cót, bồ, sọt, rổ, nơm, đó… Nghề làm gạch, ngói, nung vơi
có ở nhiều nơi. Nghề kéo dầu thực vật để ăn và thắp cũng khá phổ biến. Lạng
Sơn có nghề chưng cất dầu hồi đã có truyền thống từ lâu. Người Tày tự túc
được các loại vải để may váy áo, làm màn, khăn mặt, chăn… Nhiều vùng dệt
thổ cẩm rất đẹp, nuôi tằm kéo tơ dệt lụa. Nghề rèn đã có mặt ở nhiều nơi để
làm ra nông cụ như: Lưỡi cày, cuốc, xẻng, hái, các loại dao…
2.2 Chủ trương, chính sách huyện ủy Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên
Quang lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân
tộc Tày.
2.2.1 Ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày
Hệ thống văn bản pháp luật là công cụ và phương tiện phục vụ cho hoạt
động quản lý nhà nước, trong đó có hoạt động quản lý nhà nước về di sản văn
hóa phi vật thể. Quán triệt việc thực hiện nghị quyết trung ương 5 khóa VIII
về xây dựng và phát triể nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, đồng thời thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về bảo tồn và phát
16
huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn
hóa của nhân dân trong đó có các di sản văn hóa phi vật thể, chủ tịch UBND
huyện Chiêm Hóa ban hành chỉ thị số 11/2014/CT-UBND về tăng cường công
tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trên địa bàn huyện Chiêm
Hóa. Chỉ thị đã nêu rõ yêu cầu đối với các phịng, ban ngành:
-
Phịng văn hóa – thơng tin huyện:
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân, tổ
chức, cá nhân các ban, ngành đoàn thể thực hiện luật di sản văn hóa hợp nhất
năm 2013.
+ Tích cực triển khai hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, lập hồ sơ
bảo tồn hệ thống các loại hình di sản văn hóa của dân tộc Tày trên địa bàn
tồn huyện.
+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, ban ngành có chức năng liên quan
và ủy ban nhân dân cấp xã xây dựng chương trình kế hoạch ngắn hạn, dài hạn
cho hoạt động gìn, giữ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể
của dân tộc Tày trong đời sống cộng đồng.
+ Phịng tài chính tham mưu cho UBND huyện bố trí kinh phí hoạt
động bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa của dân tộc Tày theo kế
hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ Phịng GD-ĐT phối hợp với phịng văn hóa – thơng tin nghiên cứu
đưa di sản văn hóa phi vật thể của người Tày vào giờ ngoại khóa trong trường
học.
+ Báo, đài phát thanh huyện Chiêm Hóa, các cơ quan đại chúng ở địa
phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về di sản văn hóa,
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc Tày.
2.2.2 Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa dân tộc Tày.
Cơng tác tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa phi vật thể của dân tộc Tày ln được chính quyền địa phương quan tâm.
17
Ngày 31-12- 2012 UBND tỉnh Tuyên Quang đã ra quyết định số 526/QĐUBND về việc triển khai kế hoạch đề án “ Quy hoạch sự nghiệp phát triển văn
hóa tỉnh Tuyên quang đến 2020” trên địa bàn toàn tỉnh, trong đó có di sản văn
hóa dân tộc Tày. Trên cơ sở đó, lãnh đạo UBND huyện Chiêm Hóa đã tiến
hành chỉ đạo các phòng , ban, ngành tập trung đồng bộ một số giải pháp sau:
+ Đào tạo nhân lực nịng cốt cho bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc ở
các cấp. Gắn bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc với phát triển kinh tế xã hội
trên địa bàn huyện, đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa phát triển văn hóa và
kinh tế, giữa bảo tồn, phát huy và phát triển.
+ Xây dựng các chương trình hoạt động, lễ hội, biểu diễn, văn hóa, văn
nghệ các dân tộc định kỳ hàng năm và cả giai đoạn 2011-2020.
+ Huy động nguồn tài chính ngân sách nhà nước, từ xã hội, các nguồn
viện trợ khác để chi cho các hoạt động.
+ Tổ chức các cuộc thi ở cấp xã, phường, thị trấn bằng các trò chơi
truyền thống, lễ hội, phong tục của dân tộc Tày.
+ Thành lập các câu lạc bộ để thu hút mọi người dân trên địa bàn tham
gia sinh hoạt hàng ngày.
2.3 Kết quả huyện ủy Chiêm Hóa thực hiện bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày và nguyên nhân
2.3.1 Kết quả đạt được
2.3.1.1 Nội dung lãnh đạo
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa theo phương
thức xã hội hóa đã được ngành văn hóa và các địa phương thực hiện trong
nhiều năm qua, huy động được các nguồn lực và sự tham gia đóng góp của
nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, những năm qua,
cấp ủy, chính quyền huyện Chiêm Hóa đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tuyên
18
truyền và tổ chức thực hiện nghị quyết trên địa bàn và đã đạt nhiều kết quả
tốt, điển hình là việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc Tày.
Huyện Chiêm Hóa có 18 dân tộc cùng sinh sống, mỗi dân tộc cịn duy
trì được văn hóa truyền thống đặc sắc. Huyện đã phối hợp với các cơ quan
chức năng bảo tồn, kế thừa, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, sưu tầm,
khai thác những làn điệu nghệ thuật văn hóa mang sắc thái từng dân tộc sinh
sống trên địa bàn. Bà Lê Thị Thanh Tâm, trưởng Phịng Văn hóa huyện cho
biết: Các lễ hội truyền thống của dân tộc như lễ hội Lồng tông của dân tộc
Tày ở các xã, lễ Cấp sắc và lễ Cầu mùa của dân tộc Tày hàng năm được duy
trì đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần trong nhân dân.
Phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng phát triển sâu rộng từ các xã,
thị trấn đến các thôn bản, trường học, cơ quan, đơn vị thu hút đơng đảo các
tầng lớp nhân dân tham gia.
Có thể khẳng định, 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
VIII), ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc tham
gia xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn ngày càng tốt hơn, huy động được
mọi tầng lớp nhân dân tự nguyện tham gia xây dựng mơi trường văn hóa lành
mạnh; tn thủ pháp luật, có hành vi ứng xử, lối sống văn hóa thân thiện,
thanh lịch, có ý thức xây dựng cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp. Các di
sản văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; hoạt động giao lưu văn hóa
giữa các dân tộc được đẩy mạnh. Các lễ hội truyền thống được khôi phục,
phát triển; nhiều giá trị văn hóa, sản phẩm văn hóa và hoạt động văn hóa mới
được hình thành, phát triển trên cở sở kế thừa, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5, Chiêm
Hóa xác định nhiệm vụ trọng tâm là tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy
đảng, chính quyền đối với sự nghiệp văn hóa. Đẩy mạnh cơng tác tun
truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn hóa lành
mạnh cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân gắn với việc
19
thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14-5-2012 của Bộ Chính trị
về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay”. Chú trọng bảo vệ, gìn giữ, khai thác và phát huy nét đẹp văn
hóa truyền thống, thuần phong mỹ tục trong cộng đồng các dân tộc, bảo đảm
đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, mức
hưởng thụ văn hóa của nhân dân từng bước được nâng cao, góp phần xây
dựng con người và xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh, tạo nền tảng tinh
thần vững chắc nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, góp phần thực hiện
thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện năm 2013 và
những năm tiếp theo.
2.3.1.2
Phương thức lãnh đạo
2.3.1.2.1
Văn bản pháp luật,chính sách văn hóa
Hệ thống văn bản pháp luật là cơng cụ và phương tiện phục vụ cho hoạt
động quản lý nhà nước, trong đó có hoạt động quản lý nhà nước về di sản văn
hóa phi vật thể. Quán triệt việc thực hiện nghị quyết trung ương 5 khóa VIII
về xây dựng và phát triể nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, đồng thời thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn
hóa của nhân dân trong đó có các di sản văn hóa phi vật thể, chủ tịch UBND
huyện Chiêm Hóa ban hành chỉ thị số 11/2014/CT-UBND về tăng cường công
tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trên địa bàn huyện Chiêm
Hóa.
Cơng tác tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa phi vật thể của dân tộc Tày ln được chính quyền địa phương quan tâm.
Ngày 31-12- 2012 UBND tỉnh Tuyên Quang đã ra quyết định số 526/QĐUBND về việc triển khai kế hoạch đề án “ Quy hoạch sự nghiệp phát triển
văn hóa tỉnh Tun quang đến 2020” trên địa bàn tồn tỉnh, trong đó có di sản
20
văn hóa dân tộc Tày. Trên cơ sở đó, lãnh đạo UBND huyện Chiêm Hóa đã
tiến hành chỉ đạo các phòng , ban, ngành tập trung đồng bộ một số giải pháp.
2.3.1.2.2 Công tác tuyên truyền, giáo dục, tư tưởng trong hệ thống
chính trị xã hội của huyện.
Phương thức lãnh đạo của huyện ủy đạt được nhiều kết quả quan trọng
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày.
Nhận thức, năng lực lãnh đạo và quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hố
- thơng tin được nâng cao.
Làm tốt cơng tác tuyên truyền, người dân nhận thức đúng đắn về quan
điểm xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân,
các cấp, các ngành, các đoàn thể trên địa bàn huyện. Việc xây dựng kế hoạch,
tổ chức các chương trình hoạt động, chăm lo bồi dưỡng và phát huy nhân tố
con người, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sinh hoạt văn hoá của nhân dân trên
địa bàn.
Năng lực lãnh đạo, hiệu quả của tổ chức bộ máy, từng bước được quy
hoạch đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, chun mơn cho đội ngũ
cán bộ. Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động văn hoá, dịch vụ văn
hoá được tăng cường.Trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các
ngành, đoàn thể, tổ chức và nhân dân trong quản lý và phát triển sự nghiệp
văn hoá được phát huy.
Cơ chế trao đổi thông tin hiệu quả, cập nhật và thường xuyên trực tiếp
và gián tiếp qua các phương tiện thơng tin đại chúng giữa đơn vị quản lý văn
hóa với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Cung cấp các văn bản pháp luật
và tổ chức các hoạt động tư vấn đầy đủ, kịp thời cho các doanh nghiệp, tạo sự
liên hệ chặt chẽ trong tổ chức kết nối mạng lưới các doanh nghiệp dịch vụ văn
hoá trong và ngồi địa phương.
2.3.1.2.3 Chính sách đầu tư của huyện ủy
Tăng cường nguồn lực, đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho văn hố và
quản lý văn hố - thơng tin
21
Việc xây dựng quy hoạch phát triển đào tạo nguồn nhân lực ngành văn
hoá của huyện trên cơ sở khảo sát thực trạng và dự báo nhu cầu nhân sự,
trong đó đưa các chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành những chỉ
tiêu cơ bản trong mục tiêu phát triển. Có chiến lược xây dựng, đào tạo, bồi
dưỡng để đội ngũ cán bộ văn hoá và quản lý văn hố có bản lĩnh chính trị, đạo
đức, lành mạnh về lối sống và trình độ quản lý, chun mơn nghiệp vụ ngày
càng cao, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển văn hoá của tỉnh,
cũng như của huyện Chiêm Hóa. Các đơn vị căn cứ điều kiện hoạt động cụ
thể xây dựng quy hoạch nguồn cán bộ quản lý và chuyên môn phù hợp. Từng
bước cân đối cơ cấu nguồn lực cán bộ về tuổi, giới tính, thành phần dân tộc,
địa bàn công tác cấp cơ sở. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho văn
hoá và quản lý văn hoá, tăng cường nguồn lực về tài chính cho tất cả các hoạt
động văn hố; cần có những chính sách ưu đãi và khuyến khích đầu tư vào
các lĩnh vực văn hoá trên địa bàn huyện, đồng thời thu hút các dự án kinh tế
văn hố nhằm tạo ra các nguồn vốn để có thể tổ chức và quản lý các hoạt
động văn hoá, các sự kiện văn hoá trên địa bàn huyện.
Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của tỉnh bố trí cho các
chương trình, mục tiêu, dự án đầu tư phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội của
địa phương, các dự án về bảo tồn di sản văn hóa, chương trình du lịch để xây
dựng cơ sở hạ tầng vật chất và gây dựng phong trào văn hóa, văn nghệ ở các
cụm dân cư khó khăn, các xã có mức hưởng thụ văn hóa thấp.
Xây dựng và hồn thiện hệ thống cơ chế, chính sách tạo hành lang
pháp lý cho việc tăng cường và mở rộng xã hội hoá hoạt động văn hoá. Đảm
bảo việc sử dụng ngân sách và thực hiện khối lượng công việc được giao
đúng tiến độ. Tích cực triển khai hồn thành các dự án theo nguồn vốn đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt
Tăng cường xã hội hố hoạt động văn hố thơng tin cơ sở, trong đó tập
trung khuyến khích các cá nhân, đơn vị, tổ chức đầu tư cụm kinh tế - văn hoá,
22
cụm văn hố thơng tin, điểm vui chơi cho trẻ em và các hoạt động văn hóa,
văn nghệ quần chúng và loại hình văn nghệ dân gian.
Cơng tác thơng tin tuyên truyền cho các phong trào, đẩy mạnh cuộc vận
động “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố”, đẩy mạnh phong trào
thi đua yêu nước và các cuộc vận động ở cơ sở để phổ biến, động viên, khích
lệ quần chúng nhân dân hưởng ứng, tích cực tham gia hoạt động văn hóa nghệ
thuật, nâng cao chất lượng xây dựng làng văn hoá, khu phố văn hoá, gia đình
văn hố phát triển. Cơng tác quản lý văn hố, nhất là các hoạt động về dịch vụ
văn hoá ở cơ sở xã, phường; chăm lo, xây dựng, củng cố kiện tồn và đảm
bảo hoạt động có hiệu quả của bộ máy làm cơng tác văn hố ở cấp xã được
tăng cường.
2.3.1.2.4 Công tác kiểm tra, giám sát của huyện ủy
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát được đẩy mạnh. Công tác thanh
tra, kiểm tra các hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá trên địa bàn huyện
được đẩy mạnh và tăng cường hơn so với giai đoạn trước. Công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát và đánh giá trong hoạt động văn hoá và quản lý văn hoá,
phối hợp với các cơ quan chức năng trực tiếp chỉ đạo triển khai, tổ chức kiểm
tra, giám sát các hoạt động về văn hoá trên địa bàn huyện được mở rộng.
2.3.2 Những nguyên nhân cơ bản của kết quả đã đạt được
Những kết quả đạt được thông qua việc thực hiện thành công nội dung
và phương thức lãnh đạo hợp lý đã đóng góp cho sự thành cơng của việc bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày huyện Chiêm hóa.
Về cơ bản thì bản sắc ấy vẫn giữ được những nét đặc sắc vốn có. Nhờ có sự
lãnh đạo của cấp ủy các cấp và sự gìn giữ của quần chúng nhân nhân bằng
nhiều hình thức khác nhau việc bảo tồn càng trở nên thuận lợi hơn. Nguồn
cán bộ quản lý đã được bồi dưỡng và đào tạo saau về chuyên mơn trong cơng
tác quản lý văn hóa. Huyện ủy huyện đã có những chính sách đầu tư phù hợp,
mở rộng quy mơ tổ chức các giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày một
cách đồng bộ và có hiệu quả.
23
2.4 Một số hạn chế trong việc lãnh đạo của huyện ủy về vấn đề bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc Tày.
2.4.1 Một số hạn chế
Ta có thể thấy qua tổ chức hoạt động văn hóa, khơi phục lễ hội hay các
loại hình nghệ thuật dân gian, khi nguồn kinh phí đóng góp từ xã hội thậm chí
cịn nhiều hơn cả đầu tư từ ngân sách nhà nước và lên tới hàng trăm tỷ đồng,
chưa kể tới những đóng góp về cơng sức lao động và các hiện vật. Cũng với
phương thức xã hội hóa, hình thức hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa nghệ thuật dân gian ngày càng đa dạng với các trung tâm nghiên cứu,
câu lạc bộ, các nhóm hội, bảo tàng ngồi cơng lập, tập hợp được các chuyên
gia và những người có tâm huyết, hoạt động hiệu quả mà không phải dựa vào
nguồn kinh phí hỗ trợ của Nhà nước, tránh được tình trạng xuống cấp của hệ
thống các di sản văn hóa. Đã có nhiều lễ hội truyền thống tốt đẹp và các loại
hình diễn xướng dân gian độc đáo ở các địa phương tưởng chừng đã mai một
lại được phục hồi mà phần đóng góp quan trọng, mang tính quyết định là từ
cộng đồng.
Bên cạnh mặt tích cực nêu trên, việc xã hội hóa cơng tác bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập và cả
những tiêu cực. Vai trò định hướng, quản lý của các cơ quan chức năng, chính
quyền địa phương chưa rõ ràng, cịn yếu kém, khơng đủ khả năng hướng dẫn
về chuyên môn, dẫn tới nhiều thiếu sót, đầu tư lãng phí khơng cần thiết và vi
phạm Luật Di sản văn hóa, thể hiện ở tình trạng trùng tu một cách tuỳ tiện, tự
phát, làm sai lệch yếu tố gốc hoặc cung tiến và đưa vật lạ vào nơi thờ cúng
thiêng liêng. Qua đó có thể thấy nhận thức về di sản văn hóa và sự tuân thủ
pháp luật chưa cao trong cộng đồng dân cư, các nguồn lực xã hội chưa được
định hướng, sử dụng đúng đắn, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
quản lý và bảo vệ di sản văn hóa để mang lại hiệu quả.
24
Với mục tiêu huy động, khai thác và sử dụng một cách tốt nhất các
nguồn lực xã hội, việc thực hiện xã hội hóa trong bảo tồn, phát huy các giá trị
di sản văn hóa cần phải gắn liền với nghiên cứu và ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật phù hợp; nâng cao trình độ đội ngũ quản lý và chun mơn ở
các cấp. Xã hội hóa khơng đồng nghĩa với việc tự do hóa và tư nhân hóa mọi
hoạt động mà các cơ quan chức năng văn hóa phải giữ vai trị quản lý và
hướng dẫn theo đúng định hướng và chủ trương của Đảng và Nhà nước. Các
tổ chức, cá nhân được tham gia hoạt động văn hóa nghệ thuật, nhưng phải
tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan.
2.4.2 Những nguyên nhân cơ bản của hạn chế
2.4.2.1 Nguyên nhân khách quan
Là do công tác quản lý của UBND huyện còn lỏng lẻo và chưa dành
thời gian đầu tư suy nghĩ, tìm các biện pháp để đổi mới nội dung, nâng cao
chất lượng quản lý, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa. Công tác kiểm
tra, giám sát, định hướng nội dung tuyên truyền, vận động quần chúng nhân
dân trong việc gìn giữ di sản văn hóa cịn chậm, mang tính hình thức.
2.4.2.2 Nguyên nhân chủ quan
Do sự phát triển của xu thế hiện nay, một số cấp quản lý buông lỏng
việc bảo tồn các giá trị văn hóa, đặc biệt chưa phát huy được hết tiềm năng
sẵn có, các di sản văn hóa ngày một mất đi tính bản sắc, hịa lẫn với nhiều nền
văn hóa hiện đại. Cơng tác đào tạo cán bộ còn chưa được coi trọng, cán bộ
thiếu chuyên mơn, chưa đúng chun ngành đào tạo về văn hóa, chi phí đầu
tư ít, thiếu đồng bộ, cơng tác kiểm tra giám sát về văn hóa cịn gặp nhiều hạn
chế.
25