Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

luận văn thạc sĩ bồi dưỡng năng lực công tác tư tưởng cho đội ngũ trung đội trưởng ở binh đoàn cửu long hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700 KB, 112 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định CTTT có
vai trị quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, sự nghiệp
xây dựng và chiến đấu của Quân đội, đó là hoạt động lãnh đạo của Đảng trên
lĩnh vực tư tưởng nhằm xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng và
định hướng sự phát triển ý thức hệ của toàn xã hội. CTTT trong QĐNDVN là
một bộ phận CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam, một mặt hoạt động cơ bản
của CTĐ, CTCT trong QĐND Việt Nam, CTTT đã trực tiếp góp phần truyền
bá, xác lập và củng cố vững chắc hệ tư tưởng của Đảng trong quân đội, làm cho
thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước giữ vị trí thống trị trong đời sống chính trị tinh
thần của quân đội; góp phần hình thành và phát triển nhân cách người quân
nhân cách mạng, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn trung thành vô hạn với Tổ
quốc, với nhân dân, thực sự là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước
XHCN, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Tiến hành CTTT là trách
nhiệm của các tổ chức, mọi cán bộ, đảng viên, là nhiệm vụ cơ bản thường
xuyên của lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong quân đội.
Ngày nay, trước yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới và
phương hướng, nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ
và từng bước hiện đại đòi hỏi phải nâng cao chất lượng và hiệu quả CTTT của
Đảng trong quân đội; chất lượng, hiệu quả CTTT trong quân đội phụ thuộc
nhiều yếu tố, nhiều nội dung, trong đó đội ngũ cán bộ trực tiếp tiến hành CTTT
ở đơn vị cơ sở bao giờ cũng có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng, là nhân tố
quyết định sự thành công của CTTT. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là
gốc của mọi công việc”. “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém” [29, tr 269; 273]. Vì vậy đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là công
việc gốc của Đảng, của cách mạng. Thực tế trên đòi hỏi phải xây dựng, bồi
dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quân đội có đủ phẩm chất và năng




lực toàn diện, đặc biệt là năng lực CTTT.
Đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu Long là một bộ phận cán bộ,
đảng viên của Đảng trong Quân đội, có vị trí vai trị rất quan trọng, họ là những
người trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện bộ đội, bồi dưỡng nâng cao nhận
thức chính trị, tư tưởng, văn hoá, đạo đức cách mạng, phát triển đời sống tinh
thần của cán bộ, chiến sĩ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ
quân đội, đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, văn hố chống mọi âm
mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững trận địa tư
tưởng, củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Những năm
qua, trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Binh đoàn và xây dựng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ mới, ĐNTĐT đã được cấp uỷ và cán bộ chủ trì các cấp trong Binh
đồn thường xun quan tâm bồi dưỡng khá toàn diện, đã chú trọng bồi dưỡng
năng lực CTTT, bảo đảm cho đội ngũ này luôn giỏi về năng lực chuyên môn
quân sự đồng thời nắm vững nguyên tắc, yêu cầu và cách thức tiến hành CTTT
đối với bộ đội. Tuy nhiên, quá trình bồi dưỡng năng lực CTTT cho ĐNTĐT bộc
lộ những hạn chế nhất định cả về nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn, nội
dung chưa bao quát hết CTTT ở đơn vị, hình thức, phương pháp chưa đa dạng
phong phú, chưa kết hợp tốt giữa bồi dưỡng kiến thức với truyền thụ kinh
nghiệm. Cịn khơng ít trung đội trưởng bộc lộ nhiều hạn chế về kiến thức, năng
lực, nhận thức và hoạt động thực tiễn, đặc biệt là năng lực CTTT, có nhiều mặt
chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ CTTT cả trước mắt và lâu dài. Mặt khác, họ còn
bị tác động của những tiêu cực xã hội, mặt trái của nền kinh tế thị trường và sự
chống phá của các thế lực thù địch về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống.
Thực tế đó địi hỏi lãnh đạo, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ
chính trị các cấp ở Binh đoàn Cửu Long cần phải thường xuyên nêu cao vai trị,
trách nhiệm, tích cực, chủ động bồi dưỡng nâng cao năng lực CTTT cho
ĐNTĐT, bảo đảm cho đội ngũ này có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới.

Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở khoa học, cũng như xác định các giải pháp: “Bồi


dưỡng năng lực công tác tư tưởng cho đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu
Long hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, đồng thời mang
tính cấp thiết trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Bồi dưỡng năng lực CTĐ,CTCT nói chung và bồi dưỡng năng
lực CTTT cho đội ngũ cán bộ nói riêng đã được nhiều cơ quan, đơn
vị và các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu, đề cập với nhiều
cấp độ, góc độ khác nhau thuộc các chuyên ngành khoa học xã
hội nhân văn. Những cơng trình đó được thể hiện dưới dạng các
đề án về công tác cán bộ, đề tài nghiên cứu, luận văn thạc sỹ,
luận án tiến sĩ, các bài tham luận, các bài báo khoa học, tiêu biểu
là:
Nguyễn Thanh Hùng: “Bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT của đội ngũ sĩ
quan chỉ huy cấp phân đội ở các binh đoàn chủ lực trong giai đoạn hiện nay ”,
Luận án Tiến sĩ Khoa học chính trị, Hà Nội 2005. Luận án đã tập trung nghiên
cứu hoạt động bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT của đội ngũ sĩ quan chỉ huy cấp
phân đội ở các binh đoàn chủ lực; làm sáng tỏ đặc điểm, vai trò của đội ngũ sĩ
quan chỉ huy cấp phân đội ở các binh đoàn chủ lực đối với CTĐ, CTCT; đưa ra
quan niệm, cấu trúc, đặc điểm hình thành, phát triển năng lực CTĐ, CTCT của sĩ
quan chỉ huy cấp phân đội; quan niệm, tiêu chí về hoạt động bồi dưỡng năng lực
tiến hành CTĐ, CTCT. Đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân, rút ra những
kinh nghiệm về bồi dưỡng năng lực tiến hành CTĐ, CTCT của đội ngũ sĩ quan
chỉ huy cấp phân đội; từ kết quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn tại các
binh đoàn chủ lực, đề tài đưa ra 5 vấn đề có tính ngun tắc bồi dưỡng năng lực
CTĐ, CTCT, đó là: Bám sát thực tiễn và mọi mặt hoạt động của đơn vị, quán
triệt sâu sắc nguyên lý giáo dục, nguyên tắc CTĐ, CTCT, phương châm huấn
luyện và các quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo; bồi dưỡng năng lực

tiến hành CTĐ, CTCT phải tích cực, chủ động, thường xuyên, liên tục; phải đặt
dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng, sự điều hành của người chỉ huy, chỉ đạo của
cơ quan chính trị; kết hợp chặt chẽ sự bồi dưỡng của tổ chức với tự bồi dưỡng, tự


rèn luyện của đội ngũ sĩ quan chỉ huy cấp phân đội; gắn bồi dưỡng năng lực
CTĐ, CTCT với nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực toàn diện của
đội ngũ sĩ quan chỉ huy cấp phân đội. Từ thực tiễn bồi dưỡng năng lực CTĐ,
CTCT của đội ngũ sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở các binh đoàn chủ lực, đề tài
đưa ra 5 giải pháp có tính hệ thống, đồng bộ nhằm bồi dưỡng năng lực tiến hành
CTĐ, CTCT của đội ngũ sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở các binh đoàn chủ lực.
Nguyễn Chính Lý: “Bồi dưỡng năng lực thực hành cơng tác đảng, cơng tác
chính trị cho học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính
trị quân sự”, luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng, Hà Nội 2005. Luận án đã xác định
rõ đặc điểm học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội; các khái niệm về bồi
dưỡng, bồi dưỡng năng lực thực hành CTĐ, CTCT; các tiêu chí đánh giá, các vấn
đề có tính ngun tắc bồi dưỡng năng lực thực hành CTĐ, CTCT, chỉ rõ những
ưu điểm, hạn chế, những nguyên nhân khách quan, chủ quan, rút ra những kinh
nghiệm; Đồng thời tác giả đã xác định các nhân tố tác động, phương hướng, yêu
cầu và hệ thống các giải pháp để bồi dưỡng năng lực thực hành CTĐ, CTCT của
học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị. Đây là luận
án đã đóng góp nhiều cơ sở khoa học có giá trị cả về lý luận và thực tiễn.
Nguyễn Mạnh Đẩu chủ biên:“Đào tạo, bồi dưỡng năng lực tiến hành công
tác đảng, cơng tác chính trị cho học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân đội trong tình
hình hiện nay”, đề tài Khoa học cấp Bộ, Nxb, QĐND, 2006. Đề tài đã chỉ rõ năng
lực, năng lực tiến hành CTĐ, CTCT của học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân đội
trong các nhà trường đào tạo sĩ quan của quân đội; những tiêu chí, các yếu tố cấu
thành năng lực và sự cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng năng lực tiến hành CTĐ,
CTCT cho học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân đội. Đánh giá sâu sắc thực trạng đào
tạo, bồi dưỡng năng lực tiến hành CTĐ, CTCT của học viên đào tạo sĩ quan chỉ

huy cấp phân đội trong các nhà trường đào tạo sĩ quan của quân đội; đề ra những
yêu cầu và hệ thống giải pháp đồng bộ trong đào tạo, bồi dưỡng năng lực tiến
hành CTĐ, CTCT cho học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân đội hiện nay. Cơng trình


khoa học này là cơ sở để các nhà trường đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội
tham khảo, vận dụng trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng học viên sĩ quan chỉ huy.
Bùi Hữu Nghị: “Bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT cho học viên đào tạo sĩ
quan chỉ huy cấp phân đội thơng qua hoạt động ngoại khố ở trường Sĩ quan
Lục quân 2 hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, Hà Nội 2007 đã
bàn về hoạt động bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT cho đối tượng học viên trong
hoạt động ngoại khoá ở trường Sĩ quan Lục quân 2. Trong đó tác giả luận giải
những vấn đề cơ bản như: Quan niệm hoạt động ngoại khoá ở trường Sĩ quan
Lục quân 2; quan niệm năng lực CTĐ, CTCT của học viên đào tạo chỉ huy cấp
phân đội; xác định các tiêu chí đánh giá, bồi dưỡng năng lực CTĐ, CTCT cho
học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở trường Sĩ quan Lục quân 2; chỉ
ra thực trạng, nguyên nhân và một số kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực CTĐ,
CTCT cho học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội thơng qua hoạt động
ngoại khố ở trường Sĩ quan Lục quân 2, đồng thời nêu lên những thuận lợi,
khó khăn yêu cầu và các giải pháp chủ yếu của hoạt động bồi dưỡng năng lực
CTĐ, CTCT cho học viên đạo tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội thông qua hoạt
động ngoại khoá ở trường Sĩ quan Lục quân 2.
Các cơng trình trên đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản về CTĐ, CTCT,
về năng lực CTĐ, CTCT của người sĩ quan chỉ huy, cán bộ chính trị cấp phân
đội, của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội và hoạt động bồi dưỡng
năng lực CTĐ, CTCT cho đội ngũ này. Tuy vậy, đến nay chưa có cơng trình khoa
học nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống, toàn diện về bồi dưỡng năng lực
công tác tư tưởng cho đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu Long hiện nay.
Liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn có một số cơng trình khoa học như sau:
“Cơng tác tư tưởng lý luận trong qn đội trước tình hình mới” , Học viện

Chính trị quân sự, Nxb QĐND, Hà Nội 2003;“Công tác tuyên truyền tư tưởng
trong thời kỳ mới”, Giáo trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ tuyên truyền. Trần
Khang, Lê Cự Lộc. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005. “Lịch sử công tác tư


tưởng - văn hoá trong quân đội nhân dân Việt Nam (1944 - 2004)”, Tạ Đức
Quảng, Vũ Tôn, Hồ Tri. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2006. “Một số vấn đề
công tác tư tưởng (2004-2005)”, Thư viện Quân đội, Nxb QĐND, Hà Nội 2006.
“Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác tư tưởng”, Trần Thị
Anh Đào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008. “Một số vấn đề về công tác tư
tưởng, lý luận trong quân đội trước tình hình mới”, Lê Minh Vụ, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội 2008.“Nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tư tưởng” ,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2009.
Nhìn chung các cơng trình trên đều khẳng định: CTTT luôn là một trong
những hoạt động có vai trị quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng, sự nghiệp xây dựng, chiến đấu của quân đội; dự báo yếu tố tác động và
sự cần thiết phải tăng cường CTTT; đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao chất lượng CTTT đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong tình hình mới. Đây là
những cơng trình có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc góp phần nâng cao chất
lượng CTTT của Đảng và CTTT trong quân đội hiện nay. Tuy nhiên, các cơng
trình này chưa đi sâu nghiên cứu năng lực tiến hành CTTT và bồi dưỡng năng
lực CTTT cho ĐNTĐT.
Bồi dưỡng năng lực tiến hành CTTT có các cơng trình tiêu biểu như:
Phạm Minh Đức: “Bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác tư tưởng cho
đội ngũ sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở đồn thơng tin M39” , luận văn thạc sĩ
Xây dựng Đảng, Hà Nội 2002. Luận văn đã làm rõ những vấn đề cơ bản về
CTTT và bồi dưỡng năng lực tiến hành CTTT của đội ngũ sĩ quan chỉ huy ở
Đoàn M39; xác định những đặc điểm đội ngũ sĩ quan chỉ huy cấp phân đội; đặc
điểm tiến hành CTTT ở Đoàn M39; luận giải các khái niệm, các yếu tố cấu thành
kỹ năng CTTT; xác định nội dung, hình thức bồi dưỡng; đánh giá khá sâu sắc ưu

điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, chỉ ra được một số kinh nghiệm trong bồi
dưỡng năng lực tiến hành CTTT cho đội ngũ sĩ quan chỉ huy ở Đoàn M39. Trên
cơ sở đó, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm bồi dưỡng năng lực tiến
hành CTTT cho đội ngũ sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Đoàn M39. Luận văn này


đã cung cấp nhiều cơ sở khoa học về bồi dưỡng năng lực tiến hành CTTT để tác
giả thực hiện đề tài luận văn của mình. Tuy nhiên luận văn mới chỉ đề cập đến
việc bồi dưỡng năng lực tiến hành CTTT cho đối tượng là sĩ quan chỉ huy cấp
phân đội ở một đơn vị thông tin cơ sở; chưa đề cập và làm rõ việc bồi dưỡng
năng lực CTTT cho ĐNTĐT ở Binh đoàn Cửu Long.
Bùi Thanh Cao: “Bồi dưỡng năng lực thực hành công tác tư tưởng cho học
viên đào tạo chính trị viên đại đội ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay”, luận văn
thạc sĩ Xây dựng Đảng, Hà Nội 2008. Luận văn đã tập trung làm rõ những vấn đề cơ
bản về năng lực thực hành và bồi dưỡng năng lực thực hành CTTT cho học viên
đào tạo để trở thành chính trị viên đại đội, ở Học viên Chính trị quân sự, chỉ rõ vai
trò bồi dưỡng năng lực thực hành CTTT và đưa ra những vấn đề có tính ngun tắc
trong bồi dưỡng năng lực thực hành CTTT cho cán bộ chính trị cấp phân đội. Đánh
giá thực trạng ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và chỉ ra một số kinh nghiệm trong
hoạt động bồi dưỡng năng lực thực hành CTTT cho học viên đào tạo trở thành
chính trị viên đại đội. Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra phương hướng, yêu cầu và
5 giải pháp cơ bản bồi dưỡng năng lực thực hành CTTT cho học viên đào tạo chính
trị viên đại đội ở Học viện Chính trị quân sự.
Trần Xuân Kỳ: “Bồi dưỡng năng lực CTTT cho học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy
cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay”, luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng,
Hà Nội 2009. Luận văn đã tập trung luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận và thực
tiễn bồi dưỡng năng lực tiến hành CTTT cho học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân
đội ở Trường Sĩ quan Lục quân 1. Chỉ rõ đặc điểm của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy
cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Lục quân 1, làm rõ năng lực tiến hành CTTT của sĩ quan
chỉ huy cấp phân đội, những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng năng lực tiến hành CTTT cho

học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội và đưa ra 4 vấn đề có tính ngun tắc
trong bồi dưỡng năng lực tiến hành CTTT cho học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân
đội ở Trường Sĩ quan Lục quân 1. Đồng thời, đánh giá thực trạng những ưu điểm, hạn
chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Trên cơ sở đó đã đề ra 4 yêu cầu, 4 giải pháp


cơ bản về bồi dưỡng năng lực CTTT cho học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở
Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay.
Các bài báo khoa học tiêu biểu như:
Tô Xuân Sinh,“ Tăng cường CTTT, lý luận để xây dựng Quân đội vững
mạnh về chính trị ”, Tạp chí giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 2, Hà Nội, 2007;
Bùi Thanh Cao, “ Bồi dưỡng năng lực thực hành CTTT cho đội ngũ học viên đào
tạo chính trị viên”, Tạp chí giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 5, Hà Nội, 2007;
Nguyễn Hoàng Lân,“ Một số yêu cầu cơ bản nâng cao chất lượng bài tập thực
hành bồi dưỡng kỹ năng tiến hành CTTT trong đào tạo chính ủy, chính trị viên”,
Tạp chí giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 4, Hà Nội, 2008.
Các cơng trình trên đây, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, đã đề
cập và luận giải nhiều vấn đề về CTTT như quan niệm, nội dung hoạt động, các
hình thức, biện pháp CTTT; bồi dưỡng năng lực tiến hành CTTT; bồi dưỡng
năng lực thực hành CTTT. Mỗi cơng trình khoa học có đối t ượng, phạm vi và
phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau về vấn đề bồi dưỡng năng lực CTTT
cho đội ngũ cán bộ. Tuy vậy, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu, giải
quyết một cách tồn diện, có hệ thống về năng lực CTTT của ĐNTĐT và hoạt
động bồi dưỡng năng lực CTTT cho đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đồn Cửu
Long dưới góc độ khoa học Xây dựng Đảng. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài
“Bồi dưỡng năng lực công tác tư tưởng cho đội ngũ trung đội trưởng ở Binh
đoàn Cửu Long hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp

cơ bản bồi dưỡng năng lực CTTT cho đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu
Long hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về năng lực CTTT và bồi dưỡng
năng lực CTTT cho đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu Long.


- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một số kinh nghiệm
bồi dưỡng năng lực CTTT cho đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu Long.
- Xác định yêu cầu, đề xuất những giải pháp cơ bản bồi dưỡng năng lực
CTTT cho đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu Long hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu
Bồi dưỡng năng lực CTTT cho đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu
Long hiện nay là đối tượng nghiên cứu của luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động bồi dưỡng năng lực CTTT cho
đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu Long.
Các số liệu, tư liệu điều tra, khảo sát tập trung chủ yếu ở các đơn vị và cơ
quan chức năng thuộc Binh đoàn Cửu Long.
Thời gian giới hạn từ năm 2005 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nghị quyết, chỉ thị,
hướng dẫn của ĐUQSTW, Bộ Quốc phịng, Tổng cục Chính trị về CTTT lý luận,
CTĐ, CTCT, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân đội.
Luận văn kế thừa, tham khảo những kết quả nghiên cứu về lý luận của các
công trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là hiện thực hoạt động CTTT và

bồi dưỡng năng lực CTTT cho ĐNTĐT ở Binh đoàn Cửu Long; các tư
liệu, số liệu trong các báo cáo tổng kết CTTT và đánh giá về công
tác xây dựng ĐNTĐT; kết quả khảo sát, điều tra của tác giả ở đơn vị
Binh đoàn Cửu Long. Tác giả kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên
cứu ở một số cơng trình khoa học của các tập thể, cá nhân có liên
quan.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu


* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các
quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và của quân đội
về giáo dục- đào tạo.
Luận văn còn được nghiên cứu trên quan điểm hệ thống cấu
trúc, lơgíc- lịch sử và quan điểm thực tiễn để xem xét, phân tích các
vấn đề có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái
qt hố, hệ thống hoá các nguồn tài liệu liên quan đến bồi dưỡng
năng lực CTTT cho đội ngũ cán bộ trong quân đội nói chung và
ĐNTĐT ở Binh đồn Cửu Long nói riêng; các cơng trình nghiên cứu
khoa học như luận án, luận văn, đề tài khoa học có liên quan đến
việc nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp quan sát: Quan sát quá trình tiến hành CTTT
của ĐNTĐT; các hoạt động bồi dưỡng CTTT của các cấp uỷ, lãnh
đạo, chỉ huy, các cơ quan chức năng đối với ĐNTĐT ở Binh đoàn
Cửu Long.
Phương pháp trò chuyện, trao đổi toạ đàm: Thực hiện trò
chuyện, trao đổi toạ đàm với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp,

cơ quan chính trị, cơ quan tham mưu ở Binh đồn Cửu Long.
Nội dung hướng vào tìm hiểu cách thức; những nội dung cụ
thể cần thiết cho việc bồi dưỡng năng lực CTTT cho ĐNTĐT có
liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận văn.
Phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi: Tiến hành điều tra
bằng các mẫu phiếu câu hỏi in sẵn đối với ĐNTĐT và cán bộ lãnh
đạo, chỉ huy cấp phân đội ở Binh đồn Cửu Long. Nội dung tìm hiểu


thực trạng hoạt động bồi dưỡng năng lực CTTT cho ĐNTĐT ở Binh
đồn Cửu Long. Đồng thời khẳng định tính khách quan của một số
nhận định trong luận văn.
Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của một số nhà khoa
học, nhà sư phạm, nhà quản lý giáo dục về nội dung của đề tài
nghiên cứu.
Tiến hành xử lý các số liệu và sử dụng tốn học để bảo đảm
tính khách quan của kết quả nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm
những luận cứ khoa học cho cấp uỷ, cán bộ chủ trì và cơ quan
chức năng các cấp thuộc Binh đoàn Cửu Long nghiên cứu, vận
dụng trong bồi dưỡng năng lực CTTT cho ĐNTĐT, xây dựng ĐNTĐT
vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Binh
đoàn và Quân đội trong thời kỳ mới.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CHO ĐỘI NGŨ
TRUNG ĐỘI TRƯỞNG Ở BINH ĐOÀN CỬU LONG
1.1. Năng lực công tác tư tưởng của đội ngũ trung đội trưởng và những
vấn đề cơ bản về bồi dưỡng năng lực công tác tư tưởng cho đội ngũ trung đội
trưởng ở Binh đoàn Cửu Long
1.1.1. Đội ngũ trung đội trưởng và năng lực công tác tư tưởng của đội ngũ
trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu Long
Binh đoàn Cửu Long được thành lập ngày 20 tháng 7 năm 1974, là Binh
đồn chủ lực đứng chân trên địa bàn Miền Đơng Nam Bộ. Trải qua 35 năm, dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Bộ Quốc
phòng và được sự quan tâm, giúp đỡ, đùm bọc của cấp uỷ, chính quyền địa phương
nơi đơn vị đóng qn, Binh đồn Cửu Long đã xây dựng, trưởng thành, chiến đấu
và chiến thắng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Với những thành tích
đạt được trong chiến đấu, huấn luyện và lao động sản xuất phát triển kinh tế, Binh
đoàn được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Nhiệm vụ chính trị trung tâm của Binh đoàn hiện nay là: Huấn luyện, sẵn sàng
chiến đấu, chiến đấu, xây dựng nền nếp chính quy, nâng cao chất lượng tổng hợp và
sức chiến đấu của một đơn vị chủ lực cơ động sẵn sàng thực hiện mọi nhiệm vụ được
giao. Các đơn vị trong Binh đoàn Cửu Long được biên chế, trang bị vũ khí, khí tài
phương tiện, kỹ thuật đồng bộ theo yêu cầu nhiệm vụ; đội ngũ cán bộ phần lớn được
đào tạo qua các Học viện, nhà trường trong Quân đội và của Binh đồn. Nhìn chung
chất lượng chính trị, trình độ kiến thức và năng lực của đội ngũ cán bộ cơ bản đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ, chức trách.
* Đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu Long
Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 được sửa đổi, bổ sung
năm 2008 nêu rõ: Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là cán bộ của Đảng Cộng



sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động trong
lĩnh vực quân sự, được Nhà nước phong quân hàm cấp uý, cấp tá, cấp tướng, họ là
lực lượng nòng cốt của quân đội và là thành phần chủ yếu trong đội ngũ cán bộ
quân đội, đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý hoặc trực tiếp làm
một số nhiệm vụ khác, bảo đảm cho quân đội sẵn sàng chiến đấu và hoàn thành
mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, ĐNTĐT ở Binh đoàn Cửu Long là một bộ phận cán bộ
của Đảng và Nhà nước hoạt động trong Quân đội, đã được đào tạo
qua các trường sĩ quan, trường quân sự Binh đoàn, trường quân sự
tỉnh theo chuyên ngành chỉ huy, tham mưu, chuyên môn kỹ thuật
cấp phân đội, sau khi tốt nghiệp được phong quân hàm thiếu uý hoặc
trung uý, được bổ nhiệm giữ chức vụ trung đội trưởng, thực hiện
chức trách, nhiệm vụ theo quy định, điều lệnh, điều lệ của Quân đội.
- Đặc điểm đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu Long
Một là, ĐNTĐT ở Binh đồn Cửu Long là những cán bộ tuổi đời cịn trẻ, thời
gian và kinh nghiệm công tác chưa nhiều. Hầu hết họ có tuổi đời từ 20 đến 30; tuổi
quân từ 3 đến 10 năm; thời gian giữ chức vụ từ 1 đến 4 năm là 90.71%, từ 5 năm trở
lên là 9,29%. Nhìn chung, họ ln hăng hái, nhiệt tình trong cơng việc, có nhiều ước
mơ, hồi bão và muốn được thể hiện mình ở mọi lúc, mọi nơi. Tuy nhiên, họ chưa
được tôi luyện trong gian khổ, ác liệt của chiến tranh và thời gian rèn luyện, thử thách
trong mơi trường qn đội chưa nhiều, trình độ kiến thức, năng lực và kinh nghiệm
hoạt động nghề nghiệp quân sự chưa được hoàn thiện một cách toàn diện, nhất là về
năng lực tiến hành CTTT, phương pháp, tác phong cơng tác của người cán bộ đang
trong q trình tích lũy và ngày càng được hoàn thiện. Do vậy, trong thực hiện chức
trách, nhiệm vụ, ĐNTĐT còn mang nặng tác phong chỉ huy, mệnh lệnh hành chính,
lúng túng, ít chủ động trong cơng việc, đơi lúc có thể xuất hiện những biểu hiện so sánh
thiệt hơn giữa phục vụ trong quân đội với bạn bè cùng lứa tuổi ngoài quân đội, nên
đôi khi tỏ ra bi quan, chán nản trước sự tác động của những khó khăn, vướng mắc
trong thực tiễn công tác và sinh hoạt. Đây là đội ngũ cán bộ của Binh đoàn giữ



trọng trách trực tiếp chỉ huy, quản lý, giáo dục, rèn luyện bộ đội, tổ chức thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ được giao và tiến hành CTTT trong mọi hoạt động của trung đội
thuộc quyền. Mặt khác, do điều kiện đơn vị đóng quân phân tán trên nhiều khu vực
địa bàn khó khăn, phức tạp; nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng
chính quy, rèn luyện kỷ luật của đơn vị đòi hỏi cường độ thực hiện chức trách,
nhiệm vụ của ĐNTĐT rất lớn. Một bộ phận trong ĐNTĐT có hồn cảnh gia đình
gặp nhiều khó khăn, bên cạnh đó, họ cịn bị tác động ảnh hưởng bởi những tiêu
cực xã hội, mặt trái của kinh tế thị trường và sự chống phá của kẻ thù. Vì vậy,
ĐNTĐT cần được quan tâm bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức, lối sống và năng
lực công tác, để đội ngũ này hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức trách được giao.
Hai là, ĐNTĐT ở Binh đoàn Cửu Long được đào tạo từ nhiều nguồn khác
nhau. Phần lớn ĐNTĐT ở Binh đoàn Cửu Long được đào tạo cơ bản, có đầy đủ
phẩm chất, trình độ, năng lực cơ bản đáp ứng được nhiệm vụ. Nhìn chung chất
lượng ĐNTĐT của Binh đồn khá cao. Đó là những sĩ quan có bản lĩnh chính trị
vững vàng, phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, có trình độ khá tồn diện,
có sức khoẻ tốt, hồn thành tốt cương vị ,chức trách được phân công. Tuy nhiên,
qua khảo sát thực tế của Binh đoàn cho thấy, vẫn còn một bộ phận trong ĐNTĐT
chưa được đào tạo cơ bản, trung đội trưởng qua đào tạo ngắn hạn cịn chiếm
17,85%[phụ lục 9]. Chính vì vậy, trình độ năng lực của ĐNTĐT ở Binh đồn
Cửu Long khơng đồng đều, có sự chênh lệch về trình độ kiến thức nói chung và
năng lực tiến hành CTTT nói riêng, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện nhiệm vụ
ở đơn vị. Do vậy, trong quá trình bồi dưỡng cần phân loại cụ thể từng đối tượng
để có nội dung, phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp.
Ba là, ĐNTĐT ở Binh đoàn Cửu Long phần lớn là đảng viên
(97,62%), đoàn viên (2,38%)[phụ lục 9]. Đó là những đảng viên
trẻ, phát huy được vai trị tiền phong, gương mẫu trước quần
chúng, có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Song,
nhận thức, hiểu biết về Đảng cịn hạn chế, phương pháp, tác
phong cơng tác lãnh đạo, chỉ huy còn lúng túng, chưa mạnh dạn



trong đấu tranh tự phê bình và phê bình. Vì vậy, đội ngũ này cần
phải được bồi dưỡng nâng cao trình độ về lý luận, kiến thức tồn
diện, năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và rèn luyện thử thách
trong hoạt động thực tiễn. Những đồng chí là đồn viên đều có
động cơ phấn đấu vào Đảng tốt, lại là những cán bộ Đoàn của đơn
vị nếu họ được quan tâm bồi dưỡng, giúp đỡ có thể kết nạp vào
Đảng trong những năm tới. Đặc điểm này chỉ ra yêu cầu bồi
dưỡng là phải kết hợp chặt chẽ giữa bồi dưỡng của tổ chức với
phát huy vai trò trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của
ĐNTĐT trong tự bồi dưỡng, tự rèn luyện, chú trọng kết hợp giữa
xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên, đoàn
viên.
Bốn là, ĐNTĐT ở Binh đoàn Cửu Long được sinh ra và lớn lên ở nhiều vùng
quê khác nhau, đa phần gia đình, hậu phương đời sống cịn gặp nhiều khó khăn. Những
thành quả của cơng cuộc đổi mới đất nước hơn 20 năm qua đã góp phần nâng cao
đời sống của nhân dân nói chung và của cán bộ Quân đội nói riêng, trong đó có
ĐNTĐT ở Binh đồn Cửu Long. Tuy vậy, nhìn chung đời sống của ĐNTĐT ở
Binh đồn Cửu Long cịn gặp khơng ít khó khăn, phần lớn trong số họ chưa xây
dựng gia đình riêng, ĐNTĐT là người phải trực tiếp và thường xuyên quản lý,
chỉ huy đơn vị, hầu hết thời gian trong ngày 24/24h phải b ám nắm đơn vị. Vì
vậy, họ ít có điều kiện tiếp xúc và giải quyết các mối quan hệ gia đình, xã hội,
nhất là khơng có nhiều thời gian giành cho tình yêu, nên tâm tư, tình cảm của họ
ảnh hưởng nhiều đến quá trình thực hiện nhiệm vụ ở đơn vị. Mặt khác, ĐNTĐT
ở Binh đoàn Cửu Long sinh ra và lớn lên ở nhiều vùng quê khác nhau, số trung
đội trưởng qua đào tạo cơ bản ở các trường sĩ quan, phần lớn sinh ra và lớn lên ở
miền Trung và miền Bắc, về trình độ kiến thức và năng lực trong lãnh đạo, quản
lý, chỉ huy đơn vị nói chung và trong tiến hành CTTT nói riêng có khá hơn. Song
do có sự khác biệt về đặc điểm tâm lý, phong tục, tập qn, truyền thống văn hố

của vùng miền, nên q trình cơng tác, nhất là q trình tiến hành CTTT gặp rất


nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, số trung đội trưởng là quân nhân chuyên nghiệp
của Binh đoàn lại chủ yếu sinh ra và lớn lên ở Đồng bằng sông Cửu Long và
miền Đông Nam Bộ, họ mang những đặc điểm tâm lý, phong tục, tập quán,
truyền thống văn hoá của vùng quê Nam Bộ. Trong giải quyết các mối quan hệ
giữa cấp trên với cấp dưới, giữa cán bộ với chiến sỹ, họ thường thiên về tình cảm
gia đình, tác phong cơng tác cịn mang nặng phong cách sống của người dân
Nam Bộ. Do vậy, trong quá trình quản lý giáo dục bộ đội, trong tiến hành CTTT
có những thuận lợi, đặc biệt là đối với đặc điểm tâm lý của chiến sỹ phía Nam.
Song, họ lại gặp những khó khăn về trình độ kiến thức và năng lực tiến hành
CTTT, cũng như việc rèn luyện phương pháp, tác phong cơng tác chính quy, mẫu
mực của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy.
Những đặc điểm trên chi phối đến quá trình hình thành, phát triển phẩm chất,
năng lực và kết quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức hoạt động CTTT, tổ chức thực hiện
nhiệm vụ xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện của ĐNTĐT. Lãnh đạo, chỉ huy các
cấp ở Binh đoàn Cửu Long cần nghiên cứu, nắm vững những đặc điểm trên để xác
định những nội dung, biện pháp, hình thức bồi dưỡng năng lực CTTT cho ĐNTĐT
một cách phù hợp là hết sức cần thiết trong tình hình hiện nay.
- Chức trách, nhiệm vụ của trung đội trưởng.
Đội ngũ trung đội trưởng là những cán bộ trực tiếp chỉ huy trung đội. Vì vậy,
họ phải thường xuyên thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ của người trung đội
trưởng là chỉ huy, quản lý, giáo dục, rèn luyện bộ đội và chịu trách nhiệm trước cấp
uỷ, chi bộ và cấp trên về mọi mặt của trung đội thuộc quyền.
Chấp hành triệt để đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội, mệnh lệnh, chỉ thị của
cấp trên, nghị quyết của chi uỷ, chi bộ, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Tổ
chức và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của đơn vị, thường xuyên bảo đảm cho
đơn vị sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ trong bất kỳ

điều kiện, hồn cảnh nào. Thu thập, nghiên cứu tình hình các mặt có liên quan, kịp
thời đề ra chủ trương, quyết tâm, xây dựng kế hoạch và báo cáo trước chi uỷ (chi
bộ) và người chỉ huy cấp trên. Sau khi được cấp trên phê chuẩn, tổ chức thực hiện


trong đơn vị. Tổ chức giáo dục, huấn luyện bộ đội nâng cao trình độ tồn diện cho
đơn vị thuộc quyền, bảo đảm mọi quân nhân đều được học tập đầy đủ theo chương
trình quy định. Duy trì nghiêm kỷ luật quân đội, xây dựng nền nếp chính quy, chấp
hành điều lệnh, giữ gìn an ninh, an tồn trong đơn vị. Quản lý chặt chẽ về số lượng,
chất lượng quân nhân thuộc quyền. Quản lý chặt chẽ vũ khí, trang bị kỹ thuật, tài
chính, tài sản thuộc đơn vị, bảo đảm trang bị kỹ thuật luôn đồng bộ. Tổ chức bảo
đảm hậu cần, nuôi dưỡng bộ đội theo đúng chế độ, tiêu chuẩn quy định, tổ chức
tăng gia, sản xuất, thực hành tiết kiệm, cải thiện đời sống cho bộ đội. Tổ chức thực
hiện các cuộc vận động chính trị của Đảng, của Quân đội trong đơn vị, xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa. Bồi dưỡng đội ngũ hạ sĩ quan trong đơn vị theo
phân cấp. Chăm lo đời sống gia đình, hậu phương, thực hiện đúng các chính sách
của Đảng, Nhà nước và Quân đội đối với quân nhân,.... Căn cứ vào nghị quyết của
chi uỷ, chi bộ, thực hiện theo quyền hạn và phân cấp việc nhận xét, khen thưởng và
xử phạt các quân nhân thuộc quyền. Thường xuyên kiểm tra đôn đốc, hướng dẫn đơn
vị thực hiện các nhiệm vụ được giao. Quan hệ và phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ Đảng
và chính quyền địa phương nơi đóng qn để tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật
tự an tồn xã hội ở địa phương, góp phần xây dựng Hệ thống chính trị ở địa phương
và xây dựng nền quốc phịng tồn dân. Định kỳ tổ chức kiểm điểm, đánh giá kết
quả, báo cáo tình hình, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về các mặt công tác với cấp
trên, chủ động chăm lo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
- Vai trị của đội ngũ trung đội trưởng với cơng tác tư tưởng ở trung đội.
Đội ngũ trung đội trưởng là những cán bộ trực tiếp chỉ huy,
quản lý, giáo dục, rèn luyện bộ đội và tổ chức thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ của trung đội được giao trong mọi điều kiện hoàn
cảnh. Đồng thời, chịu trách nhiệm cá nhân trước Đảng, Nhà nước,

trước người chỉ huy cấp trên, trước chi uỷ, chi bộ và đơn vị mình về
mọi mặt của trung đội thuộc quyền. Người trung đội trưởng căn cứ
nghị quyết của chi uỷ, chi bộ, căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn được
giao và mệnh lệnh của chỉ huy cấp trên, tình hình thực tiễn của
trung đội, tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Với


đặc điểm ở cấp trung đội không được biên chế cán bộ chính trị, vì
vậy, ĐNTĐT vừa là người chỉ huy, quản lý vừa là người trực tiếp
tiến hành CTTT, cơng tác tổ chức và cơng tác chính sách ở trung
đội. Vai trò của trung đội trưởng đối với CTTT ở trung đội được thể
hiện tập trung ở các nội dung:
Một là, ĐNTĐT là lực lượng trực tiếp nghiên cứu quán triệt và
tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của các cấp uỷ (chi bộ),
mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên đến mọi quân nhân thuộc quyền. Là
người trực tiếp giữ vững định hướng chính trị của Đảng trong mọi
hoạt động, mọi điều kiện, hoàn cảnh của trung đội; là người trực
tiếp chỉ huy, quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sỹ thuộc
quyền; trực tiếp tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho
cán bộ, chiến sĩ về tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
mới; về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nhất là đường lối chính trị, quan điểm, tư tưởng quân sự
của Đảng, nhiệm vụ quốc phòng an ninh, nhiệm vụ của Quân đội,
nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, nâng cao chất lượng huấn luyện
quân sự, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, xây dựng đơn vị
vững mạnh toàn diện; thường xuyên quán triệt nghị quyết của cấp
uỷ, chi bộ, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên và chức trách, nhiệm vụ
của mỗi quân nhân theo từng cương vị công tác cụ thể, đồng thời
đề xuất những chủ trương biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng

đơn vị vững mạnh về chính trị. Trên cơ sở đó, xây dựng cho mỗi cán
bộ, chiến sỹ trong trung đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định với mục tiêu lý tưởng của Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì
độc lập dân tộc và CNXH, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, nhận rõ bạn, thù, đối tượng tác chiến của quân đội, của đơn
vị; kiên quyết đấu tranh và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn


chống phá của kẻ thù; có ý thức tổ chức, kỷ luật cao, tự giác chấp
hành nghiêm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội và chế
độ, quy định của đơn vị, kịp thời ngăn ngừa và khắc phục những biểu
hiện tiêu cực, lệch lạc trong nhận thức tư tưởng, tình cảm và lối sống
của bộ đội.
Hai là, ĐNTĐT trực tiếp tiến hành cơng tác giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng ở
trung đội. Giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng ở trung đội nhằm giáo dục, nâng cao
nhận thức đúng đắn về chính trị và xây dựng niềm tin Cộng sản cho mọi quân nhân
ở trung đội. Việc nghiên cứu nắm vững những nội dung biện pháp cơ bản về cơng
tác giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với trung
đội trưởng; Cơng tác giáo dục chính trị và quản lý tư tưởng ở trung đội là công việc
thường xuyên của trung đội trưởng, tiến hành tốt sẽ là cơ sở để xây dựng trung đội
vững mạnh tồn diện.
Giáo dục chính trị cho bộ đội ở trung đội là một nội dung cơ bản, là cơ sở cho
việc giáo dục rèn luyện toàn diện quân nhân nhằm: bồi dưỡng nâng cao nhận thức, xây
dựng thế giới quan niềm tin cộng sản, xây dựng lòng yêu nước, thương yêu đồng chí
đồng đội, tinh thần tập thể, thể hiện ở ý chí quyết tâm, ý thức tự giác vươn lên hồn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ trong hồ bình cũng như trong chiến đấu góp phần xây dựng
phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, con người mới XHCN trong quân đội; đồng thời định
hướng, hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ khắc phục nhận thức, tư tưởng lệch lạc, xây dựng
trung đội vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Công tác quản lý tư tưởng của trung đội trưởng ở trung đội là

q trình tìm hiểu, phân tích, đánh giá, phân loại và giải quyết tư
tưởng đối với cán bộ, chiến sĩ. Thông qua công tác quản lý tư tưởng
để trung đội trưởng nắm diễn biến tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ
trong trung đội, làm cơ sở tiến hành CTTT ở trung đội có hiệu quả. Do
đó, đối với trung đội trưởng làm tốt công tác quản lý tư tưởng là một
nội dung rất quan trọng trong công tác chỉ huy, quản lý ở trung đội.
ĐNTĐT không chỉ là lực lượng trực tiếp tuyên truyền, giáo dục mà
còn trực tiếp nắm bắt và giải quyết kịp thời tư tưởng của cán bộ,


chiến sỹ thuộc quyền. Là người cùng ăn, cùng ở, cùng với chiến sỹ tổ
chức thực hiện mọi hoạt động ở đơn vị, nên trung đội trưởng là người
lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị, đồng thời là trung tâm đoàn kết,
quy tụ mọi lực lượng, là chỗ dựa tin cậy của cán bộ, chiến sỹ trong
trung đội. Phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác
của ĐNTĐT có ảnh hưởng rất lớn đến q trình hình thành và phát
triển nhân cách của mỗi quân nhân. Vì vậy, cấp uỷ và cán bộ chủ trì
các cấp cần thường xuyên quan tâm bồi dưỡng cho ĐNTĐT về trình
độ kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng tiến hành CTTT, đặc biệt là việc
nắm bắt và xử lý các tình huống cụ thể. Đồng thời, phát huy tính tích
cực chủ động của ĐNTĐT trong tự bồi dưỡng, tự rèn luyện nhằm phát
triển và hoàn thiện phẩm chất và năng lực theo tiêu chuẩn của người
cán bộ quân đội trong giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, thật
sự là tấm gương sáng cho cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị học tập và
noi theo.
Ba là, ĐNTĐT tổ chức tiến hành CTTT trong các nhiệm vụ,
trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh của trung đội thuộc quyền. Là
người trực tiếp tiến hành cơng tác giáo dục chính trị, cơng tác
tun truyền cổ động, cơng tác văn hóa quần chúng…trong nhiệm
vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng nền nếp chính quy,

rèn luyện kỷ luật; phịng chống “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật
đổ; công tác vận động quần chúng trong đơn vị; công tác dân vận
và tuyên truyền đặc biệt... Thường xuyên kết hợp CTTT với công
tác tổ chức và các mặt công tác quân sự, hậu cần, kỹ thuật. Cùng
với các tổ chức, các lực lượng trong đơn vị, góp phần đưa các
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng vào mọi hoạt động
của trung đội, định hướng và hướng dẫn hành động cho bộ đội,
xây dựng và phát huy nhân tố con người trong nâng cao chất
lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của trung đội, đảm bảo


cho trung đội hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong
mọi tình huống.
Bốn là, chăm lo xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khẩu, tiểu đội trưởng vững
mạnh về chính trị tư tưởng, có kiến thức, năng lực tiến hành CTTT ở các khẩu, tiểu đội. Để
nâng cao chất lượng, hiệu quả CTTT ở trung đội, ĐNTĐT không chỉ là người trực tiếp tổ
chức tiến hành CTTT mà còn phải thường xuyên chăm lo xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ khẩu, tiểu đội trưởng vững mạnh về chính trị tư tưởng, có kiến thức, năng lực tiến
hành CTTT ở các khẩu, tiểu đội. Đội ngũ cán bộ khẩu, tiểu đội trưởng ở các trung đội có vị
trí, vai trị đặc biệt quan trọng trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của trung đội nói
chung và trong tiến hành CTTT nói riêng. Thực tiễn cho thấy, ở đâu ĐNTĐT biết chăm lo
xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khẩu, tiểu đội trưởng vững mạnh về chính trị tư
tưởng, có kiến thức, năng lực tiến hành CTTT ở các khẩu, tiểu đội, biết phát huy khả năng
và thế mạnh của đội ngũ này thì ở đó chất lượng, hiệu quả trong thực hiện các nhiệm vụ
của khẩu đội, tiểu đội đó sẽ tốt hơn và tình hình tư tưởng của bộ đội ổn định hơn.
Tóm lại, Trung đội trưởng là cán bộ chủ trì ở trung đội, là người chịu trách
nhiệm trước cấp ủy và người chỉ huy cấp trên về mọi hoạt động của trung đội. Để
ĐNTĐT hoàn thành tốt các nhiệm vụ theo chức trách và biết tiến hành có hiệu quả
CTTT ở trung đội đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ chủ trì các cấp cần nhận thức
đúng vị trí, vai trò của ĐNTĐT trong việc tiến hành CTTT ở trung đội, nắm vững

khả năng tiến hành CTTT của từng trung đội trưởng, từ đó nâng cao nhận thức và
hành động, thường xuyên quan tâm xây dựng, bồi dưỡng cho ĐNTĐT có đủ phẩm
chất và năng lực tiến hành CTTT, tạo điều kiện để ĐNTĐT phấn đấu vươn lên hoàn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
* Năng lực công tác tư tưởng của đội ngũ trung đội trưởng ở Binh
đoàn Cửu Long
+ Quan niệm năng lực.
Năng lực, theo Từ điển tiếng Việt, là:"Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc
tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó"; "là phẩm chất tâm lý và
sinh lý tạo cho con người khả năng hồn thành một hoạt động nào đó với chất


lượng cao"[44, tr. 369]. Năng lực con người là sản phẩm của sự phát triển xã
hội... vì vậy nó khơng những do hoạt động của bộ não người, mà còn do trình độ
phát triển lịch sử xã hội quy định. Theo ý nghĩa đó, năng lực nói chung và năng
lực CTTT của ĐNTĐT nói riêng ln gắn liền và khơng tách rời với tổ chức lao
động xã hội cùng với hệ thống giáo dục tương ứng với tổ chức đó. Năng lực
CTTT là khả năng và điều kiện bên trong của mỗi trung đội trưởng để họ tiến
hành hoạt động CTTT có hiệu quả.
+ Quan niệm năng lực CTTT của ĐNTĐT ở Binh đoàn Cửu Long
Do đặc thù hoạt động trong lĩnh vực quân sự, trước yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng của thời kỳ mới; yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và xây
dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; từ
tính chất quyết liệt, phức tạp của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, ý thức hệ, từ
thực trạng tư tưởng và CTTT ở trung đội và trong quân đội; từ yêu cầu nhiệm vụ
của CTTT ở đơn vị cơ sở ngày càng tăng, đòi hỏi CTTT ở trung đội phải được tiến
hành tích cực, chủ động, thường xuyên, liên tục và sát thực tiễn đời sống và hoạt
động của bộ đội, lấy việc giáo dục, thuyết phục và nêu gương là chính, kết hợp xây
với chống, nâng cao trình độ nhận thức tồn diện cho cán bộ, chiến sĩ đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ cách mạng, quân đội. ĐNTĐT muốn tiến hành tốt CTTT ở trung đội,

họ cần phải có hiểu biết về CTTT; nắm vững những quy luật riêng của tư tưởng; có
thái độ và phương pháp khoa học; hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, sở trường,
năng lực...của cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền; biết kết hợp giữa yêu cầu định hướng tư
tưởng với sự tự nguyện, giữa lý trí với tình cảm, giữa lời nói và việc làm, từ đó xác
định đúng phương hướng, nhiệm vụ, nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành CTTT
sát thực, đạt hiệu quả cao. Như vậy, năng lực CTTT của ĐNTĐT ở Binh đoàn Cửu
Long có thể được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Song, dưới góc độ xây dựng
Đảng có thể quan niệm: năng lực CTTT của ĐNTĐT ở Binh đoàn Cửu Long là một
bộ phận hợp thành năng lực công tác của ĐNTĐT, là sự kết tinh tổng hợp của kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm và những phẩm chất cá nhân cần thiết mà
ĐNTĐT có thể huy động để tổ chức, thực hiện tốt nhiệm vụ CTTT ở phân đội đặt ra,
góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được


giao.
Từ quan niệm trên, có thể chỉ ra những yếu tố cấu thành năng
lực CTTT của đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đồn Cửu Long gồm:
Trình độ kiến thức: là hệ thống những kiến thức về các lĩnh vực của đời sống
xã hội, đặc biệt là những kiến thức về khoa học nghệ thuật quân sự và khoa học xã
hội nhân văn mà cá nhân đã tích luỹ được thông qua giáo dục đào tạo ở các nhà
trường trong quân đội và hoạt động thực tiễn của bản thân ĐNTĐT, trong đó cốt
lõi là kiến thức CTTT. Đó là năng lực và phương pháp nắm chắc ưu điểm và hạn
chế của từng chiến sĩ thuộc quyền để xác định đúng nội dung, biện pháp giáo dục
và tuyên truyền vận động thuyết phục đạt hiệu quả thiết thực; trình độ hiểu biết và
tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí trong
ngày nghỉ, giờ nghỉ; tiến hành công tác thi đua, tuyên truyền cổ động. Bằng sự
gương mẫu của bản thân, nói đi đôi với làm trong hoạt động thực tiễn cùng ăn,
cùng ở, cùng làm, cùng chia sẻ tâm tư tình cảm để tuyên truyền, giáo dục, thuyết
phục, uốn nắn những biểu hiện sai trái, lệch lạc của bộ đội.
Kỹ năng CTTT của ĐNTĐT, là khả năng thực hiện tốt các hoạt động

CTTT của ĐNTĐT trong các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của trung đội
trên cơ sở vận dụng thành thạo kiến thức, phương pháp, cách thức,
phương tiện CTTT. Kỹ năng là một thành phần quan trọng của năng lực.
Mọi năng lực đều thể hiện ở kỹ năng làm việc. Kỹ năng CTTT của
ĐNTĐT cịn là sự nhanh chóng, chính xác, kịp thời cụ thể hố những nội
dung, hình thức, phương pháp CTTT và những hiểu biết về thực tiễn
CTTT của ĐNTĐT trong tổ chức các hoạt động tư tưởng và giải quyết
các vấn đề tư tưởng nảy sinh trong các điều kiện, hồn cảnh cụ thể. Nó
bao gồm các kỹ năng nghe, nói, viết, kỹ năng thực hành CTTT trong các
nhiệm vụ...
Kỹ xảo, là trình độ thao tác một cách nhanh chóng, chuẩn xác, khơng cần sự tham
gia trực tiếp của ý thức đối với hành động con người. Trong mọi lĩnh vực hoạt động
của con người đều cần có trình độ kỹ xảo nhất định. Trong các hoạt động CTTT có


nhiều thao tác, những công việc được lập đi, lập lại nhiều lần trong ngày rất cần
ĐNTĐT rèn luyện trở thành kỹ xảo. Vì vậy, nếu người trung đội trưởng chịu khó luyện
tập, kết hợp hồn thiện dần các thao tác tới mức trở thành kỹ xảo sẽ giúp cho trung đội
trưởng tiết kiệm tối đa thời gian, công sức, hoàn thành mọi việc theo chức trách, nhiệm
vụ vẫn được tiến hành một cách rất chuẩn xác. Và như vậy, kết quả, chất lượng các
thao tác, hành động của trung đội trưởng đạt tới trình độ kỹ xảo sẽ làm tăng hiệu quả
của toàn bộ hoạt động CTTT mà trung đội trưởng trực tiếp tổ chức tiến hành ở trung
đội.
Kinh nghiệm thực tiễn hoạt động CTTT, là bộ phận hữu cơ trong hệ thống trình
độ kiến thức của ĐNTĐT một phần được trang bị trong quá trình học tập, đào tạo tại
trường và cơ bản được bồi dưỡng trong quá trình cơng tác; học tập kinh nghiệm của
đồng đội, nhưng chủ yếu do tự tích luỹ, thu thập trong quá trình tổ chức tiến hành
hoạt động thực tiễn CTTT. Đây là những kinh nghiệm quý của ĐNTĐT. Kinh nghiệm
CTTT vừa phản ánh trình độ kiến thức, đồng thời vừa khẳng định sự từng trải và khả
năng tổ chức tiến hành các hoạt động thực tiễn CTTT ở đơn vị. Trong hệ thống kiến

thức của trung đội trưởng, sự phân định kiến thức lý luận và kiến thức kinh nghiệm
chỉ có ý nghĩa tương đối. Trình độ kiến thức có vai trò quan trọng trong định hướng
và hướng dẫn hoạt động thực tiễn ĐNTĐT ở trung đội. Vì vậy, cần có sự quan tâm
bồi dưỡng toàn diện của cấp uỷ và cán bộ chủ trì các cấp. Song điều có ý nghĩa quyết
định nhất là ĐNTĐT phải chủ động, tích cực, tự giác tự bồi dưỡng, tự rèn luyện, coi
đó là nhu cầu thiết yếu không thể thiếu để nâng cao trình độ kiến thức, bảo đảm cho
bản thân hồn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Phẩm chất cá nhân cần thiết, là những đặc tính tiềm ẩn trong
một con người phù hợp với hoạt động mà họ đảm nhiệm, thể hiện
những nét cá tính, những suy nghĩ, những hành động dưới nhiều
hình thức khác nhau. Đó là sự nhạy cảm, nhãn quan chính trị,
chính trực, thơng minh, nghị lực, tự tin, hùng biện hay phẩm chất
trí tuệ, phong cách, lối sống riêng của cá nhân để giúp ĐNTĐT quản
lý, tập hợp, tổ chức điều hành hoạt động của đơn vị. Tố chất cá
nhân là tiền đề vật chất cần thiết để hình thành, phát triển năng lực


cá nhân; cũng là cơ sở quy định sự khác biệt về năng lực giữa người
này với người khác, có ảnh hưởng đến phát triển năng lực chung và
năng lực chun mơn của con người. Để có được tố chất cá nhân của
người lãnh đạo, chỉ huy phải trải qua q trình rèn luyện, tích luỹ
lâu dài.
Mỗi yếu tố cấu thành năng lực CTTT của ĐNTĐT có vị trí, vai trò và sự biểu hiện
khác nhau nhưng chúng đều là bộ phận hợp thành không thể thiếu trong cấu trúc năng lực
tiến hành CTTT của ĐNTĐT và giữa chúng có mối quan hệ biện chứng thống nhất, làm
tiền đề, điều kiện, cơ sở cho nhau phát triển. Vì vậy, các tổ chức, lực lượng tham gia bồi
dưỡng năng lực CTTT cho ĐNTĐT phải chú ý đến tất cả các yếu tố.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng năng lực công
tác tư tưởng cho đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu
Long

* Bồi dưỡng năng lực CTTT cho đội ngũ trung đội trưởng ở Binh đoàn Cửu Long
Quan niệm bồi dưỡng
Bồi dưỡng là khái niệm được sử dụng phổ biến, rộng rãi trong các lĩnh vực,
các hoạt động của đời sống xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt, bồi dưỡng là: ‘‘1. Bồi
dưỡng là làm cho khoẻ thêm, mạnh thêm; 2. làm cho tốt hơn, giỏi hơn’’ [44, tr,191].
Trong công tác cán bộ, bồi dưỡng, theo nghĩa rộng, đó là hoạt động trang bị, bổ túc
thêm những tri thức, kinh nghiệm, xây dựng và hoàn thiện phẩm chất nhân cách để
người cán bộ ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu hoạt động trong mọi lĩnh vực
đời sống xã hội. Hiểu theo nghĩa hẹp, bồi dưỡng là q trình bổ sung, phát triển, hồn
thiện những phẩm chất, năng lực đã có của con người, để họ đủ khả năng hoạt động
theo cương vị chức trách được phân công.
Bồi dưỡng năng lực CTTT cho đội ngũ trung đội trưởng là một
nội dung quan trọng trong công tác cán bộ. Đại hội đại biểu Đảng bộ
Quân đội lần thứ VIII chỉ rõ: ‘‘Coi trọng bồi dưỡng năng lực hành động
và tổ chức thực tiễn, nhất là trình độ chỉ huy, quản lý, tổ chức huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu của cán bộ cơ sở... đổi mới chương trình
nội dung, hoàn thiện quy hoạch đào tạo, sử dụng và phát triển đội ngũ


×