Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của ngành Hải quan hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.91 KB, 117 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
đã và đang là một nguồn thu quan trọng, tập trung của ngân sách nhà nước, là
phương tiện vật chất để nhà nước hoạt động và thực hiện chức năng quản lý
của mình. Trong những năm qua chính sách và cơ chế quản lý thu thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu đã có những thay đổi lớn và đạt được những kết quả
quan trọng cả về yêu cầu thu ngân sách và quản lý điều tiết vĩ mô trong quan
hệ kinh tế đối ngoại, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tạo ra những
tiền đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang một thời kỳ phát triển mới, thời
kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu
hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở
nước ta nói chung, quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành
Hải quan nói riêng bộc lộ nhiều bất cập như: hệ thống chính sách và cơ chế
quản lý chưa đồng bộ và chưa theo kịp với sự phát triển của hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hóa ngày càng gia tăng; nạn buôn lậu và gian lận
thương mại để trốn thuế còn tồn tại phổ biến, tình trạng chiếm dụng tiền thuế
gây nợ đọng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu lớn và kéo dài chưa được xử lý
triệt để; hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chính sách thuế hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu chưa được chú trọng đúng mức gây thất thu lớn cho
ngân sách nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của quản lý thu thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu trước đòi hỏi bức xúc của thực tế, đồng thời là
người trực tiếp tham gia xây dựng chính sách và quản lý thu thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan, tác giả lựa chọn đề tài "Đổi mới quản
lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của ngành Hải quan hiện nay" làm
luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
1
2.Tình hình nghiên cứu
Từ khi thực hiện cải cách thuế đến nay đã có nhiều công trình nghiên
cứu về tổ chức quản lý thuế. Các công trình nghiên cứu tập trung vào hai
nhóm sau:


- Nhóm quản lý thu thuế đối với một hoặc một vài sắc thuế trên địa
bàn tỉnh, thành phố như: Đề tài "Những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá", Luận văn Thạc sỹ Kinh tế của Mai Đình Tú; đề tài "Công tác
quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thành phố Hà nội", Luận văn
Thạc sỹ của Vũ Thị Toản; đề tài:" Các giải pháp tăng cường quản lý thuế
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trong tiến trình gia nhập AFTA của Việt
Nam", Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Danh Hưng .
- Nhóm chống thất thu thuế như: đề tài "Một số vấn đề sử dụng công cụ
thuế và chống thất thu thuế ở các địa bàn tỉnh biên giới phía Bắc, Luận văn
Thạc sỹ của Đặng Hồng Trung; đề tài "Thất thu thuế và giải pháp chống thất
thu thuế trên địa bàn tỉnh Phú Thọ", Luận văn Thạc sỹ Kinh tế của Nguyễn
Duy Long; đề tài "Chống thất thu thuế trên địa bàn quận Đống Đa", Luận văn
Thạc sỹ của Nguyễn Viết Tuấn; đề tài "Chống gian lận thuế giá trị gia tăng
trên địa bàn Thành phố Hà nội" Luận văn Thạc sỹ của Viên Viết Hùng.
Ngoài ra, về nghiên cứu quản lý thu thuế nói chung có đề tài "Nâng cao
hiệu quả quản lý thu thuế ở Việt Nam trong quá trình đổi mới", luận văn thạc
sỹ kinh tế của Hoàng Đình Cơ.
Các đề tài trên có đề cập ở mức độ nhất định về quản lý thuế, chống
thất thu thuế nói chung và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng. Tuy
nhiên, nghiên cứu độc lập về đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu của ngành Hải quan cũng chưa có công trình khoa học nào dưới dạng
luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ về đề tài này được công bố.
2
Để thực hiện đề tài tác giả có kế thừa một số ý tưởng khoa học của các
công trình đã công bố có liên quan nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn quản lý thu thuế xuất

khẩu, thuế nhập khẩu, để đề xuất các giải pháp quản lý thu thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu trong ngành Hải quan được đặt trong tổng thể quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu nói chung.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới quản lý thu thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và thông lệ quốc
tế trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Nghiên cứu quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
hiện nay ở nước ta.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tổ chức quản lý thu thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan từ khi có luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu đến nay.
- Thời gian khảo sát từ khi có Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
(năm 1991), thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phân tích sự việc trong sự biến động gắn với điều kiện lịch sử
3
cụ thể; ngoài ra, các phương pháp chuyên ngành được sử dụng trong quá trình
nghiên cứu như thống kê, phân tích, tổng hợp, diễn giải, tiếp cận hệ thống.
Luận văn kết hợp nghiên cứu lý luận chung có liên quan đến thuế và
quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; tổng kết quá trình cải cách quản
lý thu thuế của ngành Hải quan. Đồng thời, có kết hợp nêu kinh nghiệm các
nước tiên tiến.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn hệ thống hóa có bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về

quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan; tìm hiểu
kinh nghiệm một số nước phát triển và rút ra bài học có thể tham khảo cho
ngành Hải quan nước ta.
- Đánh giá đúng thực trạng quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu,
các dạng gian lận thương mại và đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm
tiếp tục đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngành Hải quan
trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu làm 3 chương, 10 tiết.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ
THU THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.1.1. Khái niệm, bản chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
* Khái niệm:
Đến nay chưa có một khái niệm chính thức nào về thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu tuy nhiên trên cơ sở nghiên cứu sự ra đời của thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu cũng như các quan niệm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở các
góc độ nghiên cứu khác nhau, có thể khái quát thành khái niệm chung về thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu như sau: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một
phần thu nhập được tạo ra từ các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải đóng góp cho Nhà nước theo quy
định của Pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu
chi tiêu theo chức năng của Nhà nước.
Từ khái niệm và sự ra đời của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho thấy,
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng có những đặc điểm của thuế nói chung
đó là:
Thứ nhất, mang tính quyền lực nhà nước; thuế xuất khẩu, thuế nhập

khẩu có sự gắn bó mật thiết không thể tách rời với Nhà nước, Nhà nước cần
có thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để đáp ứng phần nào nhu cầu chi tiêu của
mình; Nhà nước là người duy nhất có quyền đặt ra thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu một mặt để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mặt khác qua đó để
kiểm soát và điều tiết đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và
bảo hộ nền sản xuất trong nước.
5
Thứ hai, mang tính pháp lý cao, là khoản đóng góp bắt buộc cho Nhà
nước mà không có sự bồi hoàn trực tiếp nào, việc nộp thuế được thể chế bằng
pháp luật mà mọi pháp nhân và thể nhân phải tuân theo.
Thứ ba, chứa đựng các yếu tố kinh tế xã hội, điều đó được thể hiện ở
chỗ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một phần của cải của xã hội, mức huy
động thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vào ngân sách nhà nước phụ thuộc vào
mức tăng trưởng kinh tế của đất nước, nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các
mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước đặt ra trong mỗi thời kỳ.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn có đặc điểm riêng là:
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chỉ đánh vào hàng hoá được phép
xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới của một nước, kể cả hàng hoá đưa vào
khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa vào tiêu thụ trong nước.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu bởi vì thuế
được cấu thành trong giá cả hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, người chịu thuế
là người tiêu dùng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đó, Nhà nước thu thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu của người tiêu dùng gián tiếp thông qua người cung cấp
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Trong điều kiện nền kinh tế của các nước đang phát triển như Việt
Nam, nguồn thu ngân sách nhà nước từ các sắc thuế nội địa chưa đảm bảo,
nhu cầu tiêu dùng hàng nhập khẩu lớn, thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là
một nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước, bởi vì thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu nằm trong giá cả hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
nên số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thu được tăng tỷ lệ thuận với quy mô

tiêu dùng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của xã hội.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không phân biệt đối tượng chịu thuế
là người như thế nào (giàu hay nghèo), nếu tiêu dùng một loại hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu như nhau thì số thuế phải nộp cũng như nhau.
6
* Bản chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Đặc điểm của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phản ánh bản chất của
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trên hai phương diện:
Về mặt kinh tế: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một phần của cải xã
hội được tập trung vào ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước, cơ sở kinh tế hay nền tảng của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là
một bộ phận thu nhập được tạo ra từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá của tổ chức, cá nhân trong xã hội. Do đó việc động viên thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu phải có giới hạn của nó, giới hạn đó không thể vượt quá một
mức nhất định trong tổng số thu nhập được tạo ra, mức thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu hợp lý sẽ có tác dụng tăng thu cho ngân sách nhà nước và kích
thích sản xuất kinh doanh phát triển, ngược lại nếu thuế suất quy định quá cao
so với thu nhập được tạo ra thì sẽ không khuyến khích kinh doanh chân chính
nữa, do đó Nhà nước sẽ bị thất thu. Thực tế cho thấy, nếu qui định thuế suất
quá cao thì đối tượng nộp thuế sẽ tìm cách để trốn thuế, lậu thuế và chi phí để
chống trốn lậu thuế thường cao nhưng không mang lại kết quả mong muốn.
Tuỳ theo tình hình thực tế để qui định mức thuế suất từ 0% lên đến một giới
hạn nào đó sẽ đưa đến kết quả số thuế thu được sẽ tăng theo tỷ lệ thuận với
tăng thuế suất, nếu thuế suất tăng vượt quá giới hạn cho phép thì kết quả sẽ
ngược lại.
Trong trường hợp thuế suất quy định quá cao so với thu nhập được tạo
ra, thì giải pháp duy nhất là phải hạ thấp thuế suất, đi đôi với việc tìm cách
mở rộng diện thu thuế để bao quát hết nguồn thu, vừa đảm bảo tăng thu thuế
vừa đảm bảo công bằng xã hội trong thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà
nước.

Về mặt xã hội: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phản ánh mối quan hệ
giữa Nhà nước và các pháp nhân, thể nhân tham gia hoạt động xuất khẩu,
7
nhập khẩu hàng hoá. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một công cụ được
Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng quản lý của mình đối với các hoạt
động kinh tế đối ngoại, điều chỉnh các quan hệ phân phối, phân phối lại thu
nhập xã hội giữa các tổ chức, cá nhân và Nhà nước do đó thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu mang tính xã hội cao. Nghiên cứu bản chất xã hội của thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu giúp chúng ta quán triệt đầy đủ và sâu sắc yêu cầu trong
việc hoạch định chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải đảm bảo rõ
ràng, đơn giản, phù hợp với trình độ của cả người thu thuế và người nộp thuế.
Việc tổ chức quản lý thu thuế phải đảm bảo tính công khai, dân chủ mới đem
lại hiệu quả cao, nếu không thì dù chính sách thuế có hợp lý đến đâu cũng chỉ
tồn tại trên giấy.
Nghiên cứu đặc điểm, bản chất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có thể
rút ra một số kết luận sau:
- Việc động viên một phần thu nhập vào ngân sách nhà nước thông qua
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần phải được tính toán khoa học, không được
ấn định tuỳ tiện, mức huy động phải có giới hạn trên cơ sở thu nhập được tạo
ra từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá.
- Việc xây dựng thuế suất phải đảm bảo giải quyết hài hoà quan hệ lợi
ích kinh tế giữa Nhà nước với các pháp nhân và thể nhân, một mặt vừa đảm
bảo huy động hợp lý nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, mặt khác phải tính đến lợi ích của tập thể, cá nhân.
- Trong những điều kiện nhất định thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu được xây dựng ở mức thấp nhưng hợp lý không những không làm giảm
nguồn thu ngân sách nhà nước mà còn tạo điều kiện tăng lên bởi có sự đầu tư
trở lại sản xuất, kinh doanh và tính tự giác hơn của đối tượng nộp thuế; thuế
suất cao mà không hợp lý sẽ là một trong những nguyên nhân của tình trạng
8

buôn lậu và gian lận thương mại hàng hoá gia tăng, gây thất thu ngân sách
nhà nước.
- Chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Nhà nước phải đảm
bảo tính khả thi, tính hiệu quả, tức là chính sách thuế phải phù hợp với điều
kiện thực tiễn của đất nước trong từng thời kỳ, đồng thời phải đơn giản về mặt
hành chính tức là phải dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra; điều đó không chỉ đảm
bảo nguồn thu ngân sách nhà nước mà còn có tác dụng khuyến khích sản xuất
kinh doanh phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường tiêu thụ
hàng hoá.
1.1.2. Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Căn cứ để tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với một đơn vị hàng
hoá là giá tính thuế và thuế suất( Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu):
- Giá tính thuế: Về nguyên tắc giá tính thuế đối với hàng hoá nhập
khẩu là giá CIF tại cửa khẩu nhập: C là giá mua; I là bảo hiểm; F là phí vận
chuyển. Các chứng từ được sử dụng làm cơ sở để xác định giá theo nguyên
tắc này là: Hợp đồng ngoại thương, hoá đơn thương mại, vận đơn, chứng từ
vận chuyển, bảo hiểm, giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) và các chứng từ thanh
toán như: L/C…Do trong thực tế hàng hoá nhập khẩu hết sức phong phú và
đa dạng, nhập từ nhiều nguồn khác nhau và dưới các hình thức nhập khẩu
khác nhau (nhập khẩu chính ngạch, tiểu ngạch, phi mậu dịch…) nên không
phải trường hợp nào cũng có đầy đủ các chứng từ hợp lệ làm căn cứ xác định
giá tính thuế phù hợp sao cho vừa đảm bảo tính khách quan, vừa đảm bảo
quản lý được giá hàng nhập khẩu để chống lợi dụng gian lận thương mại qua
giá, thông thường có các trường hợp sau:
+ Trường hợp có hợp đồng mua bán ngoại thương, thanh toán qua
Ngân hàng và có đủ các chứng từ hợp lệ, thì giá tính thuế là giá CIF; tức là
9
giá mua hàng tại cửa khẩu nhập bao gồm cả chi phí vận chuyển và chi phí bảo
hiểm quốc tế.
+ Trường hợp không có hợp đồng hoặc hợp đồng không hợp lệ thì giá

tính thuế được quy định trong bảng giá tối thiểu; việc qui định giá tối thiểu
một mặt tạo điều kiện cho công tác quản lý thu thuế, mặt khác là một biện
pháp chống gian lận thương mại qua giá. Tuy nhiên, nếu giá tối thiểu được
xây dựng thiếu chính xác và không được điều chỉnh kịp thời theo mặt bằng
giá thực tế, thì việc tính thuế theo bảng giá tối thiểu lại trở thành một trở ngại
đối với hoạt động nhập khẩu hàng hoá, gây thất thu ngân sách và không
khuyến khích văn minh thương mại. Nếu quá lạm dụng việc sử dụng giá tối
thiểu như một biện pháp bổ xung cho hàng rào thuế quan nhằm hạn chế nhập
khẩu hoặc phân biệt đối xử thì sẽ là một rào cản lớn đối với tiến trình tự do
hoá thương mại. Để khắc phục tình trạng đó GATT, tiền thân của tổ chức
thương mại thế giới (WTO) ngày nay đã quy định các phương pháp xác định
trị giá hải quan. Theo quy định các phương pháp xác định trị giá Hải quan của
hàng nhập khẩu phải căn cứ vào trị giá giao dịch thực tế của hàng hoá, không
áp dụng trị giá áp đặt, phải là trị giá mà với mức giá đó có thể bán trong kỳ
kinh doanh bình thường trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, không có sự
thông đồng giữa người mua và người bán.
- Thuế suất: Nguyên tắc chung để xác định mức thuế suất thuế nhập
khẩu là dựa trên sự chênh lệch giá cả giữa mặt bằng giá quốc tế và mặt bằng
giá nội địa của cùng một loại hàng hoá, theo đó tuỳ thuộc vào mức độ hạn chế
hay khuyến khích nhập khẩu đối với từng ngành hàng hoặc nhóm hàng nào đó
mà người xây dựng mức thuế suất thuế nhập khẩu cho phù hợp, thông thường
xây dựng thuế suất thuế nhập khẩu theo 3 cấp độ sau:
10
+ Ở cấp độ bảo hộ thông thường thì thuế suất thuế nhập khẩu được xác
định sao cho mức thuế suất thuế nhập khẩu đúng bằng sự chệnh lệch giữa mặt
bằng giá cả nội địa và mặt bằng giá cả quốc tế của cùng một loại hàng hoá.
+ Ở cấp độ bảo hộ triệt để thì thuế suất thuế nhập khẩu được xác định
sao cho mức thuế suất thuế nhập khẩu lớn hơn sự chênh lệch giữa mặt bằng
giá cả nội địa với mặt bằng giá cả quốc tế của cùng một loại hàng hoá, trong
trường hợp này sẽ dẫn đến tình trạng giá hàng ngoại nhập cao hơn so với giá

hàng nội địa, vì vậy có tác dụng hạn chế nhập khẩu để bảo hộ sản xuất nội
địa, không khuyến khích tiêu dùng hàng ngoại nhập.
+ Ở cấp độ không cần bảo hộ thì thuế suất thuế nhập khẩu được xác
định sao cho mức thuế nhập khẩu nhỏ hơn sự chênh lệch giữa mặt bằng giá cả
nội địa với mặt bằng giá cả quốc tế. Trường hợp này sẽ dẫn đến tình trạng giá
hàng ngoại nhập rẻ hơn so với giá hàng trong nước, tạo áp lực thúc đẩy sản
xuất nội địa, buộc các doanh nghiệp phải có phương án đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng, hạ giá thành để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
Như vậy, thuế suất thuế nhập khẩu được xây dựng trên cơ sở mức độ
chênh lệch giữa mặt bằng giá cả nội địa so với mặt bằng giá cả thế giới và
quan điểm bảo hộ của Nhà nước đối với từng mặt hàng, ngành hàng. Đây là
nguyên tắc chung để xác định thuế suất phổ thông đối với hàng nhập khẩu.
Trong xu thế hội nhập và tự do hoá thương mại, thuế nhập khẩu còn đóng vai
trò là một công cụ đối ngoại về mặt kinh tế giữa các quốc gia, giữa các khu
vực và thực hiện các cam kết quốc tế. Vì vậy, ngoài thuế suất phổ thông còn
có thuế suất ưu đãi. Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ
nước hoặc nhóm nước có ký thoả thuận ưu đãi về thuế nhập khẩu. Mức thuế
suất ưu đãi thường được quy định thấp hơn mức thuế suất phổ thông theo một
tỷ lệ nào đó. Thuế suất ưu đãi cũng có thể bao gồm thuế suất ưu đãi chung và
11
thuế suất ưu đãi đặc biệt tuỳ theo tính chất và nội dung của các Hiệp định
Thương mại giữa các nước và các khu vực.
- Phương pháp tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Có nhiều phương pháp tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu, nói chung các phương pháp sau đây thường được áp dụng:
• Phương pháp tính thuế theo tỷ lệ: Là phương pháp tính thuế mà số thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ấn định theo tỷ lệ % của trị giá hàng xuất
khẩu, nhập khẩu; tỷ lệ % ở đây được quy định cao hay thấp tuỳ theo từng loại
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
• Phương pháp tính thuế theo đơn vị hàng hoá: Là phương pháp tính

thuế mà số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ấn định cụ thể trên một đơn
vị hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, đơn vị có thể là chiếc, cái, tấn, m
3
… mà
không quan tâm đến trị giá mua của hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đó.
• Phương pháp tính thuế kết hợp: Là phương pháp tính thuế kết hợp giữa
phương pháp tính thuế theo tỷ lệ và phương pháp tính theo đơn vị hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu. Theo phương pháp này thì ngoài việc phải nộp thuế
theo tỷ lệ % của trị giá hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu còn phải nộp một
khoản thuế theo đơn vị của hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
• Phương pháp tính thuế theo hạn ngạch hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu:
Theo phương pháp này thì số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ấn định
theo mức hạn ngạch hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Nếu xuất khẩu, nhập
khẩu vượt quá hạn mức quy định thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ được
điều chỉnh tăng lên hoặc giảm đi tuỳ theo từng loại hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu.
1.1.3. Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nằm trong hệ thống thuế quốc gia cho
nên cũng có vai trò của thuế nói chung đó là tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
12
nước và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Dưới góc độ một sắc thuế cụ thể, vai trò
của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được phát huy ở những góc độ khác nhau
tuỳ theo thực trạng phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ thể
hiện trên các mặt sau:
Một là, tạo nguồn thu ngân sách nhà nước: Để thực sự phát huy vai trò
tạo nguồn thu ngân sách nhà nước, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải bao
quát hết các hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá của các tổ
chức, cá nhân, đảm bảo thu đúng, thu đủ và nộp kịp thời tiền thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu vào ngân sách nhà nước. Thông qua thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu Nhà nước huy động một phần thu nhập được tạo ra từ hoạt động xuất

khẩu, nhập khẩu hàng hoá để tập trung vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên,
nếu Nhà nước dùng quyền lực của mình để huy động quá mức thu nhập thì
phần thuộc về tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá sẽ giảm xuống, họ sẽ cảm thấy công sức bỏ vào kinh doanh được bù đắp
không thoả đáng, từ đó họ chuyển sang kinh doanh ngầm để trốn thuế hoặc
chấm dứt hoạt động kinh doanh, dẫn đến Nhà nước không thu được thuế, thất
thu thuế.Vì vậy, khi tái phân phối thu nhập bằng thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu phải chú ý đến khả năng nộp thuế của tổ chức, cá nhân hoạt động kinh
doanh xuất khẩu, nhập khẩu. Khả năng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là
tỷ lệ tối đa (từ thu nhập có được thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá) trích ra để nộp thuế mà không ảnh hưởng hoặc thay đổi hoạt động
kinh doanh của họ. Khả năng nộp thuế tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế, ý thức chấp hành pháp luật, truyền thống văn hoá của mỗi quốc gia. Khả
năng nộp thuế là một tiêu thức dùng để phân định ranh giới phân chia hợp lý
thu nhập giữa Nhà nước động viên thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chưa đạt
giới hạn khả năng nộp thuế thì nguồn lực xã hội tập trung vào ngân sách nhà
nước chưa thật đầy đủ. Ngược lại, nếu Nhà nước động viên vượt giới hạn khả
13
năng nộp thuế thì sẽ bào mòn, dẫn đến triệt tiêu hoạt động kinh doanh xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá của các tổ chức, cá nhân do đó làm giảm sút số thu
trong tương lai, không đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu.
Hai là, kiểm soát và điều tiết đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá: Trong nền kinh tế thị trường hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá
diễn ra ở hầu khắp các nước, dưới nhiều hình thức đa dạng về chủng loại hàng
hoá, có hàng hoá phục vụ an ninh quốc phòng, có hàng hoá phục vụ nhu cầu
tiêu dùng thiết yếu, có loại hàng hoá xâm hại đến chủ quyền an ninh quốc gia,
đời sống nhân dân như ma tuý, vũ khí, văn hoá phẩm đồi truỵ…Vì vậy, thông
qua việc kiểm tra, thu thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu để nắm
được thực chất hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu là loại hàng gì? với số lượng
bao nhiêu? và xuất khẩu đi nước nào? nhập khẩu từ nước nào? qua đó Nhà

nước kiểm soát được toàn bộ các loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, để có
những điều chỉnh chính sách đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu phù hợp
thực tiễn. Để điều tiết hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá ngoài các
biện pháp phi thuế quan như hạn ngạch, giấy phép… thì biện pháp sử dụng
công cụ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được các nước áp dụng một cách phổ
biến. Thông qua công cụ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Nhà nước khuyến
khích hay hạn chế hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đối với từng loại hàng hoá
chẳng hạn: để khuyến khích xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh, Nhà nước quy
định thuế suất thuế xuất khẩu cao đối với nguyên liệu thô, sản phẩm chưa qua
chế biến nhằm hạn chế xuất khẩu. Đối với nguyên liệu nhập khẩu cần cho sản
xuất trong nước mà trong nước chưa sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được
nhu cầu thì Nhà nước quy định mức thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thấp
thạm chí bằng o% để khuyến khích nhập khẩu cho phát triển sản xuất trong
nước. Đối với những sản phẩm mà trong nước đã sản xuất được đủ nhu cầu
tiêu dùng trong nước hoặc những sản phẩm tiêu dùng cao cấp (ô tô, điều
14
hoà…), thuế suất thuế nhập khẩu thường được quy định ở mức thuế cao để
hạn chế nhập khẩu và hạn chế tiêu dùng. Như vậy, thông qua công cụ thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Nhà nước thực hiện điều tiết đối với hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá.
Ba là, bảo hộ sản xuất trong nước: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà
đặc biệt là thuế nhập khẩu tác động trực tiếp vào giá cả hàng hoá nhập khẩu
trên thị trường. Đối với những hàng hoá nhập khẩu là những sản phẩm mà
trong nước đã sản xuất được hoặc những mặt hàng cần bảo hộ, Nhà nước
đánh thuế nhập khẩu cao sẽ hạn chế tiêu dùng hàng nhập khẩu, khuyến khích
tiêu dùng sản phẩn trong nước, trong điều kiện đó hàng sản xuất trong nước
sẽ có điều kiện cạnh tranh so với hàng nhập khẩu nhờ giá thành sản phẩm
thấp hơn. Khi đánh thuế nhập khẩu hàng tiêu dùng ở mức thấp, tức Nhà nước
không hạn chế nhập khẩu mặt hàng nhập khẩu với chất lượng cao, mẫu mã
đẹp và với giá rẻ, đồng thời mức thuế nhập khẩu thấp sẽ trực tiếp thúc đẩy các

doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, kiện toàn tổ chức, cải tiến
mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh với hàng
ngoại nhập nếu muốn tồn tại và phát triển. Đối với hàng hoá là đầu vào của
các ngành sản xuất trong nước, hàng là máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất
trong nước, việc đánh thuế nhập khẩu thấp sẽ có tác dụng trực tiếp đến chi phí
đầu vào của giá thành sản phẩm, với giá thành sản phẩm giảm (do thuế nhập
khẩu thấp) sẽ giúp cho doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ để nâng
cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất, từ đó nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. Thông qua công cụ thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu Nhà nước thể hiện quan điểm bảo hộ sản xuất trong nước,
định hướng tiêu dùng và thu hút đầu tư. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập
kinh tế, do bị ràng buộc phải thực hiện cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập
khẩu do vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu phần nào bị hạn chế, hơn nữa nếu
15
quá nhấn mạnh đến vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu không những không
thực hiện được các cam kết quốc tế mà còn làm cho nền sản xuất trong nước
trở nên trì trệ kém phát triển do ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước. Vì vậy, để
phát huy tốt vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu buộc phải có sự lựa chọn
những ngành nghề phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước, đồng thời
buộc các ngành được bảo hộ phải có chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ, cải
tiến phương thức quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, chủ
động trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu khi hết thời hạn bảo hộ.
Bốn là, khẳng định chủ quyền quốc gia và chống phân biệt đối xử
trong thương mại quốc tế: Vai trò này của công cụ thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu được thể hiện ở chỗ, bất kể một loại hàng hoá nào khi nhập khẩu vào
Việt Nam đều phải khai báo, xuất trình để kiểm tra và nộp thuế (nếu có), mọi
hành động phân biệt đối xử của nước ngoài đối với hàng hoá của Việt Nam
nếu làm tổn hại đến nền sản xuất trong nước thì đều phải chịu các biện pháp
trả đũa thông qua việc áp dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bổ sung.
1.2. QUẢN LÝ THU THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU

1.2.1. Nội dung và mục tiêu cơ bản quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
* Nội dung cơ bản:
Hiện nay khi nói đến quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, người ta
thường chỉ nhấn mạnh hoặc chú ý đến các nội dung mang tính chấp hành như
qui trình quản lý thu thuế, chế độ quản lý số thu, quản lý ấn chỉ, quản lý nợ
thuế, quản lý đối tượng nộp thuế, các chính sách miễn, giảm, hoàn thuế, truy
thu thuế…Tuy nhiên, qua nghiên cứu khái niệm về quản lý thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, để đạt được mục tiêu của công tác quản lý, cần phải quán
triệt đầy đủ ba nội dung cơ bản của công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu đó là:
16
- Xây dựng và ban hành chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm hệ thống các văn bản
pháp luật quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như: Luật Thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu, nghị định của Chính phủ hướng dẫn Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu, thông tư của các bộ hướng dẫn nghị định của Chính
phủ.
Thực tế thực hiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thời gian
qua cho thấy chúng ta cơ bản phải dựa vào văn bản dưới luật như nghị định,
thông tư, nếu chỉ dựa vào văn bản pháp luật thuế không thì rất khó thực hiện
vì luật quy định không chi tiết, cụ thể toàn bộ các nội dung được đề cập. Mặt
khác, luật quy định cả chính sách thuế và cơ chế hành thu cho từng sắc thuế
gây khó khăn trong khâu thực hiện. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
để phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế thì nhất thiết chúng ta phải
nâng cao tính khả thi của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, hạn chế việc
ban hành các văn bản dưới luật, cần bóc tách luật chính sách riêng, luật quản
lý thu thuế riêng. Bởi vì, trong quan hệ kinh tế quốc tế chỉ đề cập đến luật chứ
không đề cập đến các văn bản dưới luật.
- Xây dựng qui trình qui phạm quản lý thu thuế xuất khẩu, nhập
khẩu: Trên cơ sở các chính sách nhà nước về thu thuế xuất khẩu, thuế nhập

khẩu Ngành Hải quan tiến hành xây dựng các qui trình hành thu cụ thể cho tất
cả các loại hình kinh doanh xuất nhập khẩu, qui định cụ thể các khâu nghiệp
vụ từ khâu kiểm tra hàng hoá, tính thuế, theo dõi số thu thuế, số nợ thuế, nợ
khó đòi, tiền phạt chậm nộp thuế, tiền phạt theo Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, các khoản phí và lệ phí Hải quan
- Tổ chức thực hiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được
ban hành, bao gồm các nội dung: Thiết lập tổ chức bộ máy thu thuế, tuyển
17
dụng và đào tạo cán bộ, tổ chức việc thu, nộp thuế, tuyên truyền giải thích
chính sách thuế, quản lý nợ thuế, cưỡng chế thuế…
Có nhiều chủ thể tham gia vào quá trình quản lý, thực tế cho thấy có rất
nhiều cơ quan trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình quản lý như: Hải
quan, Tài chính, Thương mại, Thuế vụ, Quản lý thị trường, Công an, Bộ độ
biên phòng, Chính quyền địa phương… và quần chúng nhân dân.
Đối tượng bị quản lý đa dạng và phức tạp, bao gồm tất cả các tổ chức,
cá nhân tham gia vào hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thuộc mọi
thành phần kinh tế và tất cả các hàng hoá được phép hoặc không được phép
xuất khẩu, nhập khẩu đều thuộc đối tượng của công tác quản lý.
Sử dụng nhiều biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để thực hiện công tác quản
lý, bao trùm lên toàn bộ các nội dung của công tác quản lý, từ khâu xây dựng
chính sách, tổ chức thực hiện chính sách đến việc kiểm tra việc thực hiện
chính sách.
Địa bàn quản lý rộng khắp trải dài trên toàn bộ lãnh thổ, từ cửa khẩu
biên giới trên đất liền, trên biển và trong thị trường nội địa.
- Kiểm tra kiểm soát việc thực hiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu trong thực tiễn bao gồm cả việc giải quyết khiếu nại về thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu.
Thông qua các nội dung quản lý trên có thể nắm được cả về số lượng
và chất lượng các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển theo định

hướng đã đề ra.
* Mục tiêu cơ bản của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Mục tiêu bao trùm của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là phát
huy một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất và đầy đủ các vai trò của công cụ thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Tuỳ theo điều kiện về trình độ phát triển kinh tế
18
của mỗi nước trong từng giai đoạn mà nhấn mạnh, quan tâm đến từng mục
tiêu cụ thể ở những mức độ khác nhau, nhưng dù ở các nước phát triển hay
các nước đang phát triển thì công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
cũng nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể sau:
- Đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu.
- Bảo hộ hợp lý và có hiệu quả nền sản xuất trong nước và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
- Kiểm soát chặt chẽ và điều tiết linh hoạt đối với hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hoá.
- Khẳng định chủ quyền và bảo vệ an ninh quốc gia, chống phân biệt
đối xử trong thương mại quốc tế.
1.2.2. Nội dung cụ thể của quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu của ngành Hải quan
1.2.2.1. Các loại thuế, phí do Hải quan thu
Theo qui định của pháp luật, ngành Hải quan chịu trách nhiệm thu các
loại thuế và phí đối với các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, dịch vụ xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá, bao gồm(Luật Hải quan và các văn bản hướng
dẫn):
-Thu thuế nhập khẩu hàng chính ngạch.
-Thu thuế nhập khẩu hàng tiểu ngạch.
-Thu thuế tiêu thụ đặc biệt (đối với hàng hoá nhập khẩu là đối tượng
chịu thuế tiêu thụ đặc biệt).
-Thu thuế giá trị gia tăng (đối với hàng hoá nhập khẩu).

-Thu thuế thu nhập cá nhân (đối với đối tượng nhận quà biếu nhập khẩu
có trị giá theo qui định phải nộp thuế thu nhập).
19
-Thu thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt
đối xử trong nhập khẩu hàng hoá.
-Thu lệ phí hải quan.
-Thu phạt chậm nộp thuế theo qui định của luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu.
-Thu xử phạt vi phạm hành chính về hải quan.
-Thu bán hàng tịch thu thông qua hoạt động điều tra chống buôn lậu.
1.2.2.2. Tổ chức thu thuế tại các chi cục hải quan cửa khẩu Cục Hải
quan các tỉnh, thành phố
* Đối tượng (người khai hải quan): Tự khai, tự tính, thực hiện nghĩa vụ thuế
– Người khai hải quan:
+ Người đại diện hợp pháp (giám đốc, phó giám đốc hoặc người được
giám đốc uỷ quyền bằng văn bản) cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Người đại diện hợp pháp (giám đốc, phó giám đốc hoặc người được
giám đốc uỷ quyền bằng văn bản) cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu uỷ
thác.
+ Người đại diện hợp pháp(giám đốc, phó giám đốc hoặc người được
giám đốc uỷ quyền bằng văn bản) cho doanh nghiệp đại lý khai thuê Hải
quan.
Người ký tên trên tờ khai hải quan phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về những nội dung khai báo trong tờ khai hải quan do mình ký tên.
– Quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan:
+ Được cơ quan Hải quan cung cấp thông tin liên quan đến việc khai
hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và hướng dẫn làm thủ tục hải
quan.
+ Được xem trước hàng hoá và lấy mẫu hàng hoá dưới sự giám sát của
hải quan trước khi khai hải quan để đảm bảo việc khai báo chính xác.

20
+ Được đề nghị kiểm tra lại thực tế hàng hoá đã kiểm tra, nếu không
đồng ý với quyết định của cơ quan hải quan trong trường hợp hàng hoá chưa
thông quan.
+ Được quyền khiếu nại, tố cáo việc làm trái pháp luật của cơ quan hải
quan, công chức Hải quan để đảm bảo việc khai báo chính xác.
+ Yêu cầu bồi thường thiệt hại do cơ quan hải quan, công chức Hải
quan gây ra.
+ Khai hải quan phải được thực hiện thống nhất theo mẫu tờ khai hải
quan. Người khai hải quan phải khai đầy đủ, chính xác, rõ ràng.
+ Người khai hải quan được sử dụng hình thức khai điện tử.
+ Các chứng từ trong hồ sơ hải quan nếu là bản sao thì Giám đốc hoặc
phó giám đốc doanh nghiệp hoặc người được uỷ quyền của giám đốc doanh
nghiệp xác nhận sao y bản chính, ký tên, đóng dấu lên các chứng từ và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp của các chứng từ đó.
– Hồ sơ hải quan phải nộp và xuất trình khi làm thủ tục hải quan:
Đối với hàng hoá xuất khẩu:
Chứng từ phải nộp:
+ Tờ khai hải quan hàng hoá xuất khẩu: 02 bản chính;
+ Hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc giấy tờ có giá trị tương đương hợp
đồng: 01 bản sao;
+ Hoá đơn thương mại (nếu là hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế): 01
bản chính;
Chứng từ phải nộp thêm đối với các trường hợp sau:
+ Bản kê chi tiết hàng hoá (đối với hàng hoá đóng gói không đồng
nhất): 02 bản;
+ Văn bản cho phép xuất khẩu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
(đối với hàng thuộc danh mục cấm xuất khẩu hoặc xuất khẩu có điều kiện):
21
01 bản chính (nếu xuất khẩu 1 lần). Trường hợp xuất khẩu nhiều lần thì nộp

bản sao, xuất trình bản chính để hải quan theo dõi trừ lùi;
+ Hợp đồng uỷ thác xuất khẩu (nếu nhận uỷ thác xuất khẩu): 01 bản
sao;
Chứng từ phải xuất trình:
+ Giấy chứng nhận đăng ký mã số kinh doanh xuất nhập, nhập khẩu: 01
bản (bản sao hoặc bản chính)
Đối với hàng hoá nhập khẩu:
Chứng từ phải nộp:
+ Tờ khai hải quan hàng hoá nhập khẩu: 02 bản chính;
+ Hoá đơn thương mại: 01 bản chính;
+ Hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương
đương như hợp đồng: 01 bản sao;
+ Bản sao vận tải đơn: 01 bản;
Chứng từ phải nộp thêm với các trường hợp sau:
+ Bản kê chi tiết hàng hoá (đối với lô hàng hoá đóng gói không đồng
nhất): 01 bản chính và 01 bản sao;
+ Tờ khai trị giá hàng hoá nhập khẩu (đối với trường hợp hàng thuộc
diện phải khai tờ khai trị giá): 02 bản chính;
+ Văn bản cho phép nhập khẩu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
(đối với hàng hoá thuộc danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu hoặc nhập khẩu
có điều kiện): 01 bản chính (nếu nhập khẩu 1 lần). Trường hợp nhập khẩu
nhiều lần thì phải nộp bản sao, xuất trình bản chính để hải quan theo dõi, trừ
lùi;
+ Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) hoặc chứng từ tương đương
như hợp đồng: 01 bản sao;
22
+ Hợp đồng uỷ thác nhập khẩu (nếu nhận nhập khẩu uỷ thác): 01 bản
sao;
+ Giấy đăng ký kiểm tra chất lượng hàng hoá hoặc giấy thông báo miễn
kiểm tra nhà nước về chất lượng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp (đối

với hàng hoá nhập khẩu phải kiểm dịch): 01 bản chính;
Chứng từ phải xuất trình:
+ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 01 bản sao hoặc bản chính;
+ Giấy chứng nhận đăng ký mã số kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu: 01
(bản chính hoặc bản sao).
– Thời điểm đăng ký tờ khai hải quan:
+ Hàng hoá xuất khẩu được thực hiện chậm nhất 8 giờ trước khi
phương tiện vận tải xuất cảnh.
+ Hàng hoá nhập khẩu được thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày hàng hoá đến cửa khẩu.
Hồ sơ hải quan sau khi đã đăng ký không được bổ sung, sửa chữa, tẩy
xoá. Trường hợp trước thời điểm công chức hải quan kiểm tra thực tế hàng
hoá, nếu người khai hải quan có văn bản đề nghị, được Chi cục trưởng Chi
cục Hải quan chấp nhận thì người khai hải quan được rút lại hồ sơ đã đăng ký
để bổ sung, sửa chữa hoặc thay đổi tờ khai hải quan khác.
* Chủ thể (Hải quan): Kiểm tra và ra thông báo thuế:
- Trách nhiệm của Hải quan tiếp nhận hồ sơ hải quan:
+ Kiểm tra danh sách doanh nghiệp phải cưỡng chế làm thủ tục hải quan.
+ Kiểm tra sự đồng bộ và đầy đủ của hồ sơ theo quy định, trường hợp
không chấp nhận đăng ký hồ sơ hải quan thì phải thông báo rõ lý do cho
người khai hải quan biết.
23
+ Kiểm tra việc kê khai theo nội dung yêu cầu trên tờ khai hải quan,
chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, sự phù hợp của nội dung khai hải quan với các
chứng từ thuộc hồ sơ hải quan.
+ Đối chiếu chính sách quản lý xuất nhập khẩu, các chính sách về thuế,
về giá đối với các lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Nhập dữ liệu của tờ khai hải quan vào máy tính.
+ Chuyển hồ sơ cho lãnh đạo chi cục hải quan.
- Kiểm tra thực tế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu:

Căn cứ, nguyên tắc và thẩm quyền quyết định hình thức kiểm tra hàng hoá:
+ Căn cứ quyết định hình thức kiểm tra hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
là quá trình chấp hành chính sách pháp luật của chủ hàng, chính sách quản lý
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, tính chất, chủng loại, nguồn gốc hàng hoá, hồ
sơ hải quan và các thông tin khác liên quan đến hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu.
+ Chi cục trưởng hải quan cửa khẩu, Chi cục trưởng hải quan địa điểm
làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu quyết định hình thức kiểm tra và thay đổi
hình thức kiểm tra theo quy định của pháp luật.
Các hình thức kiểm tra thực tế, miễn kiểm tra thực tế hàng hoá:
+ Miễn kiểm tra thực tế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Điều kiện đối với chủ hàng hoá được miễn kiểm tra thực tế:
Chủ hàng hoá xuất khẩu có quá trình một năm xuất khẩu kể từ ngày
làm thủ tục không bị xử lý vi phạm hành chính về Hải quan hoặc bị xử lý
nhưng với mức phạt trong thẩm quyền của Chi cục trưởng Hải quan.
Chủ hàng hoá nhập khẩu có quá trình hai năm nhập khẩu kể từ ngày
làm thủ tục hải quan không bị xử phạt vi phạm hành chính về hải quan hoặc
bị xử lý nhưng với mức phạt trong thẩm quyền của Chi cục trưởng hải quan.
24
Hàng hoá xuất khẩu đáp ứng đủ các điều kiện trên được miễn kiểm tra
thực tế gồm: Hàng nông sản, thuỷ sản, dệt may, giày dép, cao su tự nhiên,
hàng thực phẩm tươi sống, chế biến: Hàng cần được bảo quản đặc biệt, hàng
cơ khí điện máy; hàng lỏng, hàng rời và các mặt hàng mà việc xác định khối
lượng, chất lượng, chủng loại phải căn cứ vào kết luận của cơ quan quản lý
Nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức giám định. Hàng xuất trong khu chế
xuất, hàng hoá xuất khẩu thường xuyên, hàng hoá khác do Chính phủ quy
định.
Hàng hoá nhập khẩu đáp ứng đủ các điều kiện trên được miễn kiểm tra
thực tế gồm: Thiết bị, máy móc, thực phẩm tươi sống; hàng hoá cần bảo quản
đặc biệt; hàng gửi kho ngoại quan, kho bảo thuế; hàng nhập để đưa vào khu

chế xuất, bảo thuế hoặc khu vực ưu đãi hải quan khác; hàng lỏng, hàng rời và
các mặt hàng mà việc xác định khối lượng, chất lượng, chủng loại phải căn cứ
vào kết luận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức giám
định. Hàng nhập khẩu thường xuyên hàng hóa khác do Chính phủ quy định.
+ Kiểm tra xác suất thực tế hàng hoá: Kiểm tra xác suất thực tế hàng
hoá không quá 10% mỗi lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu. Nếu hàng hoá đóng
theo kiện thì tỉ lệ kiểm tra là tỉ lệ số kiện được kiểm tra. Nếu hàng hoá đóng
trong container thì tỷ lệ kiểm tra là tỉ lệ số container được kiểm tra hoặc tỉ lệ
số kiện trong từng container. Trường hợp không phát hiện vi phạm thì kết
thúc kiểm tra, nếu phát hiện có vi phạm thì tiếp tục kiểm tra cho tới khi kết
luận được mức độ sai phạm.
+ Kiểm tra toàn bộ lô hàng: Kiểm tra thực tế lô hàng xuất khẩu, nhập
khẩu của chủ hàng đã nhiều lần vi phạm pháp luật hải quan, cụ thể:
Chủ hàng đã trên ba lần bị xử lý vi phạm hàng chính về hải quan trong
thời hạn 2 năm kể từ ngày làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu
25

×