LUẬN VĂN:
Khoa học là lực lượng sản xuất trực
tiếp và xem xét vấn đề trên trong công
cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam
Mở đầu
Đất nước ta đang trong quá trình xây dựng và phát triển theo con đường công
nghiệp hoá hiện đại hoá ,đi vào chiều sâu . Xuất phát từ thực tiễn ấy , việc nghiên
cứu và thống nhất ý kiến để đi đến nhận định về mối quan hệ giữa khoa học và lực
lượng sản xuất trực tiếp có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng .
Khi nghiên cứu đề tài“Khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp và xem xét vấn
đề trên trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam” vấn đề đặt ra sự tác
động ,ảnh hưởng của khoa học đối với lực lượng sản xuất trong thời gian qua như
thế nào ? Và đòi hỏi sự vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ như thế
nào cho phù hợp đúng đắn vào công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam .
1: Mối quan hệ giữa khoa học va` lực lượng sản xuất .
1.1. Lực lượng sản xuất là gi`?
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con
người trong quá trình sản xuất của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người
lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liẹu sản xuất, trước hết là công cụ lao
động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất,
trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất
1.2. khoa hoc
1.2.1 Trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại có rất nhiều quan niệm khác
nhau về khoa học, nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội và phụ thuộc
vào trình độ nhận thức. Về phương diện triết học, theo quan điểm duy vật biện
chứng, khoa học là sản phẩm tinh thần, phản ánh các cấu trúc, thuộc tính và quy
luật vận động của các đối tượng vật chất trong thế giới khách quan Khoa học là
một hình thái xã hội đặc biệt. Bởi vì khoa học không chỉ phản ánh sự tồn tại xã
hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội, những chân lý của nó được thực tiễn xã hội kiểm
nghiệm, mà khoa học còn là kết quả của quá trình sáng tạo lôgíc, của trực giác
thiên tài. Mặt khác khoa học (cùng với công nghệ) là những yếu tố ngày càng có
vai trò đặc biệt quan trọng của lực lượng sản xuất, quyết định trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất nói riêng của phương thức sản xuất và cuả xã hội nói
chung. Về phương diện nhận thức luận, khoa học là giai đoạn cao của nhận thức -
giai đoạn nhận thức luận.
Ngày nay, quan niệm khoa học được phổ biến với những đặc trưng cơ bản sau
đây:
- Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người và tư
duy của con người. Nó nghiên cứu và vạch ra những mối quan hệ nội tại, bản
chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình, từ đó chỉ ra những quy luật khách
quan của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Hệ thống tri thức khoa học được hình thành trong quá trình nhận thức của con
người từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn, dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật, lý thuyết Như vậy, tri thức
khoa học không chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực mà còn được kiểm
nghiệm qua thực tiễn.
- Hệ thống tri thức khoa học còn có thể được hình thành nhờ trực giác hoặc tuân
theo những quy luật của lôgíc học. Do đó, một hệ thống tri thức được coi là tri
thức khoa học phải đảm bảo tính đúng đắn, tính chân thực.
- Nhờ giáo dục, đào tạo, hệ thống tri thức khoa học có sức sống mãnh liệt, được
phổ biến rộng rãi và lan truyền rất nhanh chóng. Tốc độ tăng truyền đó tăng lên
rất nhiều lần nhờ vào quá trình toàn cầu hóa và công nghệ thông tin. Nó không
chỉ là sức mạnh, là sự biến đổi mau lẹ, mà còn là biểu hiện sự giàu có, thịnh
vượng của mọi quốc gia, dân tộc và cá nhân.
- Hệ thống tri thức khoa học là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài, liên tục
của tư duy nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay nó đang trở
thành tài sản chung của xã hội loài người.
Như vậy qua một số đặc trưng cơ bản trên đây về quan niệm khoa học, ta thấy
nổi lên cái cốt lõi của khoa học - đó là hệ thống tri thức chân thực về tự nhiên, xã
hội và tư duy.
1.2.2.Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật
Từ khi loài người xuất hiện cho đến cuối thế kỷ XV, sự phát triển của khoa
học và kỹ thuật diễn ra rất chậm chạp và tương đối độc lập với nhau. Sự phát triển
của kỹ thuật chủ yếu được thực hiện trên cơ sở hoàn thiện những kinh nghiệm,
những bí quyết nghề nghiệp được lưa truyền. Về phía mình, khoa học lại thường
được phát triển không phụ thuộc vào những nhu cầu của sản xuất, mà phục tùng
một cách lôgíc nội tại của riêng mình.
Đến những năm đầu thế kỷ XVI ,sự phát triển khoa học diễn ra tương đối
nhanh , là thời kỳ mà ở châu Âu, kinh tế – xã hội phát triển rất sôi động. Và kéo
dài khoảng đến thế kỷ XVIII. Những nhu cầu của thương mại, hằng hải, công
trường thủ công đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các vấn đề thực tiễn. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất không thể được thực hiện trên cơ sở của các kỹ thuật
cũ. Việc chuyển từ sản xuất thủ công sang sản xuất cơ khí đặt ra vấn đề là phải
phát triển khoa học để ứng dụng những kết quả của nó vào phát triển kỹ thuật.
Những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật có thể chia thành những giai đoạn
lớn, gắn liền với những thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. Những giai đoạn
ấy được xem như những giai đoạn của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật. Giai
đoạn thứ nhất là giai đoạn khi mà nhờ những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, người ta
đã tiến hành cơ khí hoá nền sản xuất, giải phóng con người khỏi lao động chân tay
nặng nhọc và nâng cao năng suất lao động lên nhiều lần. Giai đoạn này bắt đầu từ
cuối thế kỷ XVIII với sự ra đời của máy hơi nước và được biết đến như là cuộc
cách mạng công nghệ lần thứ nhất. Từ giữa thế kỷ XX trở đI, bắt đầu giai đoạn
hiện đại của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, khi mà nhờ những tiến bộ của
khoa học - kỹ thuật, người ta bắt đầu tiến hành tự động hoá nền sản xuất, làm thay
đổi tận gốc rễ lực lượng sản xuất của xã hội và tăng năng suất lao động lên mức
chưa thấy. Xã hội phương Tây gọi những thay đổi mang tính bước ngoặt ấy của
khoa học - kỹ thuật là “cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần hai”. Trong khi đó,
tại Hội Nghị Trung ương tháng Sáu năm 1955 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Liên Xô, lần đầu tiên khái niệm “cách mạng khoa học - kỹ thuật ”
được đưa ra dùng để chỉ toàn bộ những hiện tượng và những quá trình liên quan
đến sự phát triển chóng của khoa học - kỹ thuật.
Trong mọi lĩnh vực sản xuất xã hội, đều có thể quan sát thấy những luân
phiên đặc sắc của cuộc nhảy vọt và sự phát triển tuần tự trong nhiều lĩnh vực như:
Trong ngành năng lượng - từ sử dụng năng lượng nước, cơ bắp, gió, sang
than điện, dầu lửa, rồi năng lượng nguyên tử và trong thế kỷ XXI sẽ là năng lượng
nhiệt hạch
Trong lĩnh vực sản xuất - từ hợp tác lao động giản đơn qua giai đoạn công
trường thủ công, rồi tiến lên phương thức sản xuất đại cơ khí với các quy trình sản
xuất và công nghệ được cơ giới hóa rồi cơ giới hoá tổng hợp, xuất hiện các hệ
thống máy móc, tạo ra các máy tự cộng, tự động hoá đồng bộ, hệ thống sản xuất
linh hoạt
Trong giao thông vận tải - máy và động cơ hơi nước được thay thế bằng
các động cơ đốt trong và động cơ điêzen, tuabin và động cơ phản lực, tàu vũ trụ,
tàu con thoi
Trong sản xuất vật liệu - chuyển từ các nguyên liệu nông nghiệp, các vật
liệu xây dựng truyền thống (gỗ, gach, đá ) sử dụng kim loại đen (sắt, gang ) là
chủ yếu sang sử dụng các kim loại màu, chất dẻo, bê tông, các vật liệu kết
cấu(composite), vật liệu thông minh, vật liệu siêu dẫn
Trong công nghiệp sản xuất, chế tạo - từ sản xuất thủ công, tiến lên nửa tự
động rồi tới công nghệ tự động hoá (tự động hoá thiết kế - chế tạo nhờ sự trợ giúp
của máy tính điện tử (CAD/CAM), công nghệ thông tin (tin học, truyền thông cà
viễn thông vũ trụ ), công nghệ không gian, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ vi điện tử
1.3. Khoa học - lực lượng sản xuất trực tiếp
1.3.1. Sự tác động của khoa học tới lực lượng sản xuất.
Bằng quá trình phát triển của nhận thức khoa học, con người đã vẽ nên bức
tranh về thế giới hiện thực. Chính sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ, luôn vận động,
biến đổi không ngừng của thế giới tự nhiên và thực tiễn xã hội đã tạo nên nguồn
cảm hứng nhận thức vô tận của con người và điều đó đã tác động mạnh mẽ đến sự
phát triển của khoa học. Song, con người đi nhận thức thế giới không chỉ để nhận
thức thuần túy, mà chủ yếu là để thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần
ngày càng cao của mình. Do đó, cùng với quá trình nhận thức càng cao của mình,
là quá trình biến đổi và cải tạo thế giới, "nghĩa là thế giới không thỏa mãn con
người, và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình
"(V.I.Lênin. Toàn tập). Về điều này, C.Mác cũng đã khẳng định rằng, con người
phải tác động tích cực phải chiếm lĩnh thế giới bên ngoài nhờ sự tác động vào các
đối tượng đã biết và bằng cách như vậy, con người mới có thể thỏa mãn những
nhu cầu của mình. Sở dĩ khoa học và cùng với khoa học là công nghệ tham gia
được vào quá trình biến đổi, cải tạo giới tự nhiên và phát triển bởi vì khoa học và
công nghệ là những yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất xã hội, chúng có mặt
ở tất cả mọi thành phần của lực lượng sản xuất: trong tư liệu sản xuất (công cụ, kĩ
thuật), trong con người. Cùng với sự phát triển của xã hội, khoa học công nghệ
càng ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong lực lượng sản xuất xã hội. Thâm
nhập vào khoa học và công nghệ hiện đại đã đảm bảo cho lực lượng sản xuất phát
triển nhanh chóng theo hai hướng chủ yếu: 1) Thay đỏi chức năng và vị trí của con
người trong sản xuất trên cơ sở dịch chuyển từ nền tảng điện-cơ khí sang nền tảng
cơ-vi điện tử; 2) Chuyển sang sản xuất trên cơ sở các ngành công nghệ cao có thân
thiện với môi trường.
1.3.2. Điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Từ cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trước đây đến cách mạng khoa học
- công nghệ hiện nay, khoa học ngày càng thể hiện vai trò của mình một cách rõ
ràng dưới dạng thực tiễn xã hội trực tiếp, nhờ quá trình không ngừng biến đổi của
nó, từ chỗ là lực lượng sản xuất tiềm năng thành lực lượng sản xuất trực tiếp.Có sự
chuyển đổi này là nhờ các điều kiện sau :
Điều kiện về sản xuất: nền sản xuất xã hội phải đạt đến trình độ phát triển
nhất định. Trong nền sản xuất xã hội còn ở trình độ thấp từ cộng sản nguyên thuỷ
cho đến phong kiến , khoa học không thể trực tiếo đi vào sản xuất mà phải qua
khâu trung gian: khâu thực nghiệm khoa học. Từ những thành tựu thu được qua
thực tiễn thực nghiệm khoa học, con người tìm cách vận dụng chúng vào trong sản
xuất. Quá trình này diễn ra chậm chạp. Trong điều kiện như vậy, khoa học chỉ có
thể biểu hiện như một lực lượng sản xuất tiềm năng mà thôi chứ chưa thể trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Ngược lại, khi sản xuất xã hội đã đạt đến trình độ
phát triên cao, chính sản xuất lại đặt ra những vấn đề mới, phức tạp đòi hỏi khoa
học phải có phương thức giải quyết phù hợp , để thúc đẩy sản xuất phát triển và
qua đó, khoa học cũng phát triển theo. Như vậy, trong điều kiện này, sản xuất đã
tạo ra những cơ sở quan trọng, những nhu cầu cấp thiết cho sự xuất hiện của
những tri thức khoa học mới. Khoa học không phục vụ sản xuất một cách thụ động
theo kiểu khoa học cũng được mà không khoa học cũng chẳng sao; khoa học đã
tham gia một cách tích cực, chủ động và trở thành một yếu tố không thể thiếu của
quá trình sản xuất xã hội. Và, chỉ đến lúc này, khoa học mới có điều kiện để trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều kiện về trình độ phát triển của khoa học : Trong nền sản xuất cũ
trình độ khoa học rất thấp ,và nó không ảnh hưởng lớn đến sản xuất . Trong nền
sản xuất ngày nay , có một vấn đề nào của ngành sản xuất đặt ra mà tri thức của
ngành khoa học; thậm chí là của vài ngành khoa học cụ thể không thể giải quyết
được hoàn toàn. Tổng hợp khoa học, tổng hợp tri thức là xu hướng phát triển của
khoa học ngày nay và điều kiện này hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của thực tiễn
hiện đại. Ngày nay, trong khoa học đang diễn ra một quá trình tương tác mạnh mẽ
giữa các khoa học, quá trình liên kết khoa học theo hướng tổng hợp tri thức của
khoa học hiện đại và đó là điều kiện quan trọng và tối cần thiết để biến khoa học
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều kiện về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, mà nếu biểu hiện về
mặt sản xuất thì đó chính là sự thống nhất giữa hoạt động sản xuất vật chất và
hoạt động khoa học. Thực tiễn, trước đây là thực tiễn xã hội, là nguồn gốc, là động
lực của nhận thức khoa học, đồng thời cũng là tiêu chuẩn của chân lý. Do vậy,
việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp sẽ là con đường ngắn nhất và
đáng tin cậy nhất để xác định độ chính xác,đúng đắn, tính chân lý của tri thức
khoa. Sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và hoạt động cơ bản của xã hội hiện
đại được xây dựng trên cơ sở của nền sản xuất hiện đại và khoa học tiên tiến.
Như vậy cùng với sự phát triển của xã hội, vai trò của khoa học ngày càng
được tăng cường, nhất là trong thời đại ngày nay, khi khoa học đang trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức khoa học vừa là sự biến đổi, vừa là quyền lực,
vừa là sự giàu có, là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự phát
triển, sự thịnh suy của một công ty, một dân tộc, một đất nước, một khu vực trong
cuộc cạnh tranh khốc liệt cuả thế giới hiện đại.
1.3.3. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Từ lâu khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Có thể nói rằng
nó xuất hiện cùng với con người khôn ngoan tức là con người thực sự có hành vi
lao động sản xuất đầu tiên, với công cụ lao động sản xuất đầu tiên. Vấn đề chỉ là ở
chỗ xu hướng ấy ngày càng phát triển lên và trở nên đậm nét trong xã hội ngày
nay. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp được biểu hiện dưới nhiều
hình thức:
Một là, tri thức khoa học được vật thể hóa thành các công cụ, máy móc
tinh vi, hiện đại như các loại máy vi tính, siêu tính, các máy công nghệ tự động
hóa, các thế hệ người máy (rôbốt). C.Mác là người đã chỉ ra cơ sở kỹ thuật của
nền kinh tế công nghiệp là máy móc mà trong đó việc đưa năng suất lao động tăng
vọt là máy công tác, nhờ đó chuyển nền kinh tế nông nghiệp thủ công lên công
nghiệp. Còn máy điều khiển tự động mà trong đó, máy tính điện tử nối mạng quốc
gia và quốc tế là quan trọng nhất, là yếu tố quyết định sự chuyển nền kinh tế công
nghiệp lên kinh tế tri thức (kinh tế sau công nghiệp), đồng thời tạo ra các loại công
nghệ mới như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới
Điều này không chỉ mang lại hiệu quả và năng suất cao hơn, chất lượng cao hơn
mà còn góp phần quan trọng vào việc tiết kiệm nguyên vật liệu, tạo ra các nguyên
vật liệu mới vốn không có sẵn trong tự nhiên; giảm thời gian lao động phải chi phí
cho một đơn vị sản phẩm. Thực tế sản xuất ở các nước công nghiệp phát triển đã
cho thấy rằng, tri thức khoa học ngày càng chiếm một hàm lượng cao trong giá trị
sản phẩm, nguồn lợi do khoa học mang lại cũng ngày càng lớn hơn. Cụ thể là, vào
những năm đầu của thế kỷ XX, khi chỉ có một bộ phận nhỏ của thế giới bước vào
công nghiệp hóa, khi mà sự phát triển của khoa học chưa được gắn chặt với kỹ
thuật và sản xuất, thì lao động chân tay, tính trung bình, chiếm một tỷ lệ rất cao,
tới 9/10 trong giá trị sản phẩm. Còn đến những năm 90, khi hầu hết các nước trên
thế giới đã bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và ở nhiều nước đang diễn ra
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, thì
tỷ lệ đó đã giảm xuống còn 1/5, trong khi đó, số lượng sản phẩm tăng 10 lần. Với
đà phát triển như hiện nay của khoa học và công nghệ, tỷ lệ đó còn giảm mạnh,
theo số dự đoán đến năm 2010(thế kỷ XXI) có thể chỉ còn 1/10. Trong thời đại
thống trị của công nghệ thông tin, trí năng hóa sản xuất đang là xu hướng tất yếu
và cũng là động lực mạnh mẽ của sự phát triển xã hội. Nguồn lợi do công nghệ
thông tin mang lại càng ngày tăng. Trong những năm 90, ở Nhật Bản, nguồn lợi
do tin học mang lại chiếm tới 40% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Chính “sự
phát triển của công cụ lao động là chỉ số cho thấy những tri thức xã hội nói chung
– tức khoa học - đã biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp như thế nào?”(C.Mác.
Trích “Bách Khoa Triết học - Mátxcơva”).
Hai là,khoa học cùng với quá trình giáo dục và đào tạo đã tạo ra những
người lao động mới: những con người lao động trí tuệ sáng tạo, vừa có tri thức
chuyên sâu một ngành nghề, vừa có hiểu biết rộng, tầm nhìn xa, bao quát, nhạy
bén, vững vàng trong nghề nghiệp. Tự bản thân khoa học không thể tạo ra bất kỳ
một tác động nào mà phải thông qua sử dụng và hành động thực tiễn của con
người nó mới phát huy tác dụng. Người lao động chính là lực lượng sản xuất mạnh
mẽ nhất, to lớn nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là động lực của mọi động
lực phát triển xã hội.
Ba là,khoa học còn trực tiếp tham gia vào quá trình tổ chức, quản lý, điều
hành sản xuất. Đó cũng là một biểu hiện của việc biến khoa học thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Việc tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất ngày nay ở bất kỳ một
cấp độ nào: trong một dây chuyền sản xuất, trong một phân xưởng, một xí nghiệp,
hay trong một liên hợp các xí nghiệp đều cần đến tri thức khoa học, nhất là tri
thức khoa học quản lý. Cùng một thế hệ máy móc như nhau, cùng sản xuất ra một
loại sản phẩm như nhau, nếu biết tổ chức quản lý, điều hành công việc tốt thì sẽ
đem lại hiệu quả cao hơn.
Bốn là thông tin, đây là tác nhân vô cùng quan trọng đối với sản xuất trong
điều kiện của nền kinh tế thị trường mang tính quốc gia và quốc tế hiện nay.
Thông tin là sản phẩm phát triển của khoa học, là sự biểu hiện của khoa học.
Trong xã hội thông tin, kẻ giàu, kẻ mạnh, kẻ chiến thắng không phải là kẻ trường
vốn, lắm lao động, mà là kẻ nắm bắt nhanh nhạy các thông tin, đặc biệt là thông
tin khoa học công nghệ và thông tin thị trường. Bởi vì, nhờ nắm bắt được thông tin
mới có thể kịp thời thay đổi công nghệ để sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với
nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, giúp cho việc lưu thông hàng hóa nhanh
chóng. Nắm bắt thông tin kịp thời, nhanh chóng còn giúp cho người sản xuất và
người kinh doanh mở rộng thị trường, dự báo và đón đầu nhu cầu của người tiêu
dùng, của xã hội, nhờ đó có thể giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh gay gắt
trên thương trường. Trong thời đại công nghệ thông tin, chỉ cần chậm một bước
trong việc nắm bắt thông tin cũng có thể trả giá đắt như thua lỗ, mất bạn hàng,
thiệt hại, thậm chí đến phá sản.
Bởi vậy khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một đặc
trưng cơ bản của nền sản xuất hiện đại, đồng thời điều đó cũng chứng tỏ rằng,
khoa học công nghệ ngày càng gắn bó và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội.
2: Khoa học và công nghệ - lực lượng sản xuất hàng đầu trong công cuộc đổi
mới nền kinh tế ở VN
2.1 Khoa học và công nghệ - lực lượng sản xuất trực tiếp trong quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
2.1.1Vai trò của khoa học và công nghệ đối với nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, cơ sở vật chất – kỹ thuật thấp kém. Vì vậy, trong cuộc đổi mới nền kinh tế đất
nước, công nghiệp hoá hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi bắt đầu quá trình đổi mới, Đảng và nhà nước ta
đã quan tâm hoàn thiện và đổi mới quan điểm, các chủ trương, chính sách trong
lĩnh vực khoa học và công nghệ. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị (khóa VI) đã nêu
rõ: "Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, coi khoa học và công
nghệ là một động lực mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế- xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, coi những người làm khoa học là đội ngũ đáng tin cậy, quý báu
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ". Nếu khoa học và công nghệ ở các giai đoạn
phát triển trước đây là yếu tố gián tiếp của lực lượng sản xuất, đứng ngoài qua
trình sản xuất trực tiếp, theo cái nghĩa là từ khoa học và công nghệ đến sản xuất
phải trải qua một thời gian biến đổi, thì ngày nay, nhìn chung, chúng đã và đang
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp giữ vai trò động lực cho sự phát triển của
công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam.Vai trò động lực của khoa học và công
nghệ được thể hiện ở những mặt cụ thể sau:
Thứ nhất :khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định trong quá trình
trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại, tiên tiến cho nền sản xuất xã hội nói
riêng và cả các ngành kinh tế quốc dân nói chung.Trên thực tế, nước ta đã tiến
hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX.
Nhưng vẫn tiếp tục để cho lực lượng sản xuất trong tình trạng lạc hậu, các trang
thiết bị máy móc phần lớn là thủ công, thủ công bán cơ giới. Do vậy, mà cả năng
suất lao động và chất lượng các sản phẩm do nền sản xuất xã hội tạo ra vẫn còn rất
thấp so với mặt bằng chung của thế giới ,và trong khu vực .Chỉ có trên cơ sở thay
đổi các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại mới có thể đẩy mạnh được sản xuất, nhất là
trong những ngành sản xuất mũi nhọn như bưu chính viễn thông, năng lượng, vật
liệu, chế biến.
Thứ hai, khoa học và công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc
đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn
lực trí tuệ – một nguồn lực to lớn, có tính chất quyết định đối với sự nghiệp CNH,
HĐH ở nước ta hiện nay. Bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau,
chúng ta đang thực hiện quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ cho tất cả các
ngành kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, điều quan trọng và có tính chất quyết định bậc
nhất ở đây là cần phải có những con người có tri thức và năng lực để có thể khai
thác, sử dụng hiệu quả nhất các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại.Từ chỗ có tri thức
về khoa học và công nghệ, con người và xã hội Việt Nam sẽ chuyển dần từ chỗ
chủ yếu là lao động chân cơ bắp, thủ công với những trang thiết bị kỹ thuật cũ kỹ,
thô sơ, lạc hậu sang lao động trí tuệ, lao động công nghiệp với máy móc, trang bị
thiết bị kỹ thuật hiện đại.
Thứ ba, khoa học và công nghệ giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi
trường và thị trường thông tin – một môi trường mới đầy sức mạnh và quyền lực
đối với sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng, đối với sự phát triển xã hội, nói
chung. Thông tin trong lĩnh vực khoa học và công nghệ có liên quan hết sức chặt
chẽ đến việc nắm bắt các bí mật, bí quyết công nghệ, được thể hiện qua các
phương pháp, các thiết bị, dữ liệu khoa học và công nghệ mới nhất. Thông tin như
một người hướng dẫn nắm trong tay chiếc chìa khoá thần diệu, giúp chúng ta mở
được những “cánh cửa làm ăn” một cách đúng lúc, đúng cách, giúp ta tìm kiếm
nhưng cơ hội những lĩnh vực làm ăn hiệu quả, và biết rút lui đúng lúc khi tiềm
năng lĩnh vực đó đã cạn. Công nghệ thông tin có vai trò cực kỳ quan trọng trong
quá trình xây dựng kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu về kinh tế của Việt Nam.
Thứ tư, khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện
cơ chế tổ chức, quản lý sản xuất nhằm thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá .Trong
sản xuất nói riêng, trong mọi hoạt động xã hội nói chung nếu không có một cơ chế
tổ chức quản lý điều hành quản lý thì chắc chắn không thể mang lại kết quả tích
cực. Điều đó cũng giống như một dàn nhạc lớn, chỉ có các nhạc công mà không có
nhạc trưởng thì troóng đánh xuôi, kèn thổi ngược, không thể hoà tấu bất kỳ bản
nhạc nào.
2.1.2 Sự phát triển khoa học và công nghệ trong công cuộc đổi mới nền kinh tế
Việt Nam giai đoạn hiện nay .
Trên cơ sở lý luận vai trò cơ sở và động lực của khoa học đối với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam nói
chung là rất rõ ràng. Tuy nhiên, đấy mới chỉ là về mặt nhận thức lý luận. Còn
trong thực tế thì sao? Qua việc tìm hiểu thực trạng khoa học và công nghệ trong
điều kiện nước ta hiện nay và những mâu thuẫn giữa nhu cầu rất cao về khoa học
và công nghệ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá với thực trạng đó sẽ phần nào trả
lời được câu hỏi này.
Nếu xem xét thực trạng của khoa học công nghệ, thì ngoài khoa học với
toàn bộ những tri thức đã có của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy, còn phải
đề cập đến 4 yếu tố cấu thành của công nghệ: trong thiết bị máy móc (kỹ thuật), cơ
sở vật chất hạ tầng của sản xuất; nguồn lực con người; thông tin và tổ chức quản
lý. Khoa học cùng với 4 yếu tố của công nghệ tạo thành một tổ hợp khoa học và
công nghệ làm nền tảng và động lực cho cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại.
Yếu tố thứ nhất của công nghệ : trang thiết bị máy móc kỹ thuật. Theo
đánh giá của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trong những năm gần đây
thì, trình độ công nghệ ở nước ta nhìn chung còn thấp và lạc hậu so với khu vực và
thế giới. So với các nươc công nghiệp tiên tiến nhất, công nghệ của Việt Nam lạc
hậu khoảng 50 đến 100 năm. Xét về trang thiết bị kỹ thuật của nước ta so với mức
tiên tiến trung bình, lạc hậu từ 2-3 thế hệ, hoặc từ 5-6 thế hệ tuỳ theo từng lĩnh vực
chuyên ngành. Hệ số cơ giới hoá trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp của Việt
Nam chỉ đạt 50% so với thế giới, tức là còn ở giai đoạn đầu của cơ giới hoá; tỉ lệ
tự động hoá không đáng kể; nhiều khâu lao động trong công nghiệp vẫn còn thủ
công. Còn trong sản xuất nông nghiệp số người tham gia rất lớn với khoảng hơn
70% lao động cả nước, và với tỷ trọng áp đảo trong nền kinh tế quốc dân, nhưng
cho đến nay chủ yếu vẫn là lao động thủ công và bán cơ giới , vẫn sử dụng phổ
biến những công cụ thô sơ như cày, bừa, liềm, hái, cuốc, thuổng… đặc biệt ở các
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào thiểu số. Tuy công nghệ của ta về cơ bản vẫn
còn quá lạc hậu như vậy, nhưng hệ số đổi mới công nghệ của ta lại quá chậm chạp,
trung bình hàng năm chỉ đạt 8-10%, nghĩa là phải mất hơn một thập niên, ta mới
thay được một thế hệ trang thiết bị máy móc mới. Trong khi nhiều nước trong khu
vực quanh ta, tốc độ đổi mới công nghệ nhanh gấp đôi ta (từ 15-20%/ năm). Với
tốc độ đổi mới công nghệ như thế này thì khoảng cách lạc hậu của công nghệ của
nước ta so với các nước trong khu vực càng ngày càng xa hơn. Đây là điều báo
động rất đáng lo ngại. Không chỉ tốc độ đổi mới công nghệ chậm, mà cả hệ số sử
dụng các trang thiết bị máy móc ở nước ta hiện nay cũng còn rất thấp, chỉ mới đạt
khoảng 25 – 30%. Mức tiêu hao nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm còn quá
lớn vì vậy giá thành sản phẩm cao, sức cạnh tranh kém.
Yếu tố thứ hai của công nghệ là con người – là nguồn nhân lực. Đó là
những người lao động có nghề nghiệp, được đào tạo khoa học - kỹ thuật. Về mặt
số lượng: Hiện nay nước ta đang đứng thứ 13 về quy mô dân số thế giới trong hơn
200 nước trên thế giới, đứng thứ 7 tong số 42 nước thuộc khu vực Châu á Thái
Bình Dương, thứ hai trong khối ASEAN.Tốc độ gia tăng dân số còn khá cao. Đây
vừa là thuận lợi đồng thời cũng là khó khăn của chúng ta trong quá trình CNH,
HĐH. Trình độ phân công lao động còn kém. Lao động trong lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp chiếm tới hơn 70%, số còn lại thuộc các lĩnh vực khác. Lực lượnglao
động được đào tạo kỹ thuật nghề nghiệp còn rất thấp. Số người làm việc trong lĩnh
vực nông – lâm – ngư nghiệp chiếm tới hơn 70% số lao động cả nước nhưng số
người được đào tạo chỉ chiếm 24% trong số lao động được đào tạo. Đội ngũ cán
bộ khoa học và công nghệ tính đến năm 2000, nước ta đã có khoảng 2 triệu công
nhân kỹ thuật; trên 1.300.000 người có trình độ đại học, cao đẳng, trên 10.0000
thạc sĩ và tiến sĩ khoa học, trong đó tiến sĩ khoa học là 610 người. Như vậy là đã
có 190 cán bộ khoa học và công nghệ trên 10.000 dân. Tuy nhiên số liệu này vẫn
còn thấp so với các nước trong vùng, các nước công nghiệp phát triển và nhu cầu
của sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước.
Vi
ệt
Hàn Qu
ốc
Đài Loan
Nh
ật Bản
Hoa
Nam Kỳ
Số sinh viên 1992
(trong 100.000
dân)
250 4.000 2.110 2.200 5.600
Số cán bộ KH-
CN
(trong 10.000
dân)
7 16,4 17 55
Kinh phí nghiên
cứu KH- CN(%
TSPXH)
< 0,2
NS
{NS 16 %
2,2{DN 84%
{NS 14%
1,16 {DN
86%
{NS 17%
3,0 {DN
86%
2,64
Yếu tố thứ ba của công nghệ hiện đại là thông tin. Từ những năm 80 của
thế kỷ XX, công nghệ thông tin đã bắt đầu xâm nhập vào nước ta, và đến nay đã
phổ biến, nhất là ở các thành phố lớn. Chúng ta đã có mạng lưới bưu chính viễn
thông rộng rãi trong cả nước, đã nối mạng máy tính – Internet toàn cầu, đã có
mạng truyền hình cáp ở các thành phố lớn…Đối với nước ta lĩnh vực thông tin nói
chung còn rất mới mẻ. Hầu hết các trang thiết bị kỹ thuật của thông tin chúng ta
đều nhập từ nước ngoài, tuy rằng chúng ta đang sử dụng những trang thiết bị rất
hiện đại. Do đó có thể nói, về thực trạng công nghệ, xét theo yếu tố thông tin, tuy
hiện nay ta mới bắt đầu phát triển để hội nhập trong quá trình toàn cầu hoá, nhưng
đã có những tín hiệu đáng mừng hứa hẹn một tiềm năng lớn, một sự nghiệp phát
triển nhanh trong tương lai.
Yếu tố thứ tư của công nghệ là tổ chức quản lý. Từ ngày đất nước bước vào
đổi mới (1986) trong lĩnh vực tổ chức, quản lý ở tầm vĩ mô toàn xã hội ở nước ta
đã đang có những chuyển đổi cơ chế quản lý đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Đó
là bước chuyển từ cơ chế quản lý tập trung hành chính, quan liêu, bao cấp sang cơ
chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế những năm vừa qua, về
mặt tổ chức quản lý các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, chúng
ta gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là về cơ chế quản lý cả ở tầm vi mô lẫn vĩ mô.
Chúng ta chưa có một cơ chế quản lý thông thoáng, đồng bộ, nhất quán; trong khi
đó luật pháp lại chưa hoàn thiện như luật doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài,
luật chuyển giao công nghệ… việc thi hành pháp luật và những quy định dưới luật
chưa nghiêm, chưa công bằng. Điều đó cản trở chúng ta trong công tác tổ chức,
quản lý, điều hành xã hội nói chung, trong việc phát triển sản xuất, phát triển kinh
doanh và dịch vụ nói riêng. Bộ máy quản lý của Nhà nước, của cơ sở kinh doanh,
sản xuất dịch vụ của Nhà nước, của các cấp bộ, ngành cũng như từng địa phương
còn rất cồng kềnh, số những người trong biên chế đông, hiệu suất làm việc thấp
mặc dù chúng ta đã ban hành chính sách cải cách hành chính, tinh giảm biên chế.
Vấn đề tổ chức quản lý vẫn đang là một trong những vấn đề phức tạp, nan giải
nhất.
Thông qua việc xem xét bốn yếu tố của công nghệ ,chúng ta thấy rằng, nến
sản xuất của nước ta bộc lộ những mặt yếu như phần cứng của công nghệ (máy
móc, trang thiết bị kỹ thuật, giao thông ,thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng…), về tổ
chức kỹ thuật quản lý đây là vấn đề nan giải nhất ,đòi hỏi chúng ta phải thực hiện
sủă đổi một cách nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Song cũng có những mặt đang
còn tiềm năng lớn như yếu tố con người ,con người Việt Nam với đức tính cần cù
chịu khó ,nhưng thực tế thì nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đáp ứng được về số
lượng ,về trình độ thì chưa được đảm bảo về mặt trình độ Để có thể đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá chúng ta phải đồng thời phát triển đồng bộ
cả 4 yếu tố cơ bản của công nghệ. Hiện nay, giữa thực trạng khoa học và công
nghệ và nhu cầu thực tế về khoa học và công nghệ của sự nghiệp CNH, HĐH ở
nước ta có nhiều mâu thuẫn gay gắt, đòi hỏi chúng ta phải xem xét và giải quyết
một cách nghiêm túc.
2.2. Giải pháp phát triển của khoa học và công nghệ ở VN hiện nay
Để thực hiện tốt quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nứơc đòi hỏi
chúng ta tìm cách phát triển khoa học và công nghệ. Hiện tại, xã hội loài người đã
và đang tiếp cận một nền văn minh mới, trong đó tri thức, trước hết là những tri
thức khoa học và công nghệ, sẽ chiếm ưa thế và trở thành phổ biến. Trong xu thế
đó, bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào nếu không xây dựng cho mình một thực lực
khoa học, công nghệ mạnh sẽ có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Tư tưởng đó
của Người, cho đến nay, vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục toả sáng. Yêu cầu
khách quan đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là phải tập trung đổi mới để nâng cao
tiềm llực, trình độ khoa học – kỹ thuật và công nghệ, nhanh chóng nắm lấy và làm
chủ các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Để đưa khoa học
và công nghệ đất nước ta thực sự trở thành nền tảng và động lực cho quá trinhfh
CNH, HĐH đất nước, trong giai đoạn tới, chúng ta cần tập trung vào thực hiện các
giải pháp cơ bản sau:
Về định hướng công nghệ trong giai đoạn trước mắt, cần thực hiện cơ cấu
công nghệ nhiều trình độ, nhiều quy mô, coi trọng quy mô nhỏ và vừa, kết hợp hài
hoà công nghệ vật liệu, công nghệ thiết bị, công nghệ sản phẩm và công nghệ quản
lý với tinh thần cơ bản là tranh thủ mọi khả năng đi thẳng vào những thế hệ công
nghệ tiên tiến phù hợp.
Việc chậm đi vào các công nghệ tiên tiến sẽ không đáp ứng được nhu cầu
cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, sẽ làm căng thẳng thêm những mặt
mất cân đối về đảm bảo nguyên liệu, năng lượng, kết cấu hạ tầng, và quan trọng
hơn là khó có thể tương hợp với môi trường kinh tế thế giới và khu vực đang biến
dổi rất năng động trong những thập kỷ tới.
Tuy nhiên, trong điều kiện giàu nguồn lao động, thiếu vốn, cơ sở hạ tầng hạ
tầng chưa phát triển… không phải mọi công nghệ tiên tiến đều phù hợp với hoàn
cảnh nước ta. Bởi vậy, khi lựa chọn các giải pháp công nghệ cần xem xét đầy đủ
tính phù hợp và tính hiệu quả của chúng.
Về chuẩn cứ lựa chọn ưu tiên đầu tư công nghệ tiên tiến. Do nguồn lực hạn
chế, nền kinh tế quốc dân chỉ có thể đầu tư có chọn lọc, có trọng điểm, được xem
xét trên những tiêu chuẩn sau đây:
Nâng cao chất lượng sản và dịch vụ đáp ứng đòi hỏi của thị trường quốc tế
và đẩy lui hàng ngoại trên thị trường trong nước.
Cải tiến trang thiết bị, công cụ, hệ thống thông tin, liên lạc…
Đảm bảo yêu cầu tương hợp với quốc tế.
Thúc đẩy việc hình thành một số ngành công nghệ có hàm lượng cao.
Tư tưởng chọn lọc không chỉ vận dụng để xem xét giữa các ngành, các sản
phẩm mà còn phải cân nhắc giữa các khâu, giữa các công đoạn của dây
chuyền sản xuất.
Về nguồn công nghệ. Để nhanh chóng đáp ứng được yêu cầu của nền kinh
tế quốc dân, cần mạnh dạn thực hiện chiến lược chuyển giao công nghệ có chọn
lọc. Yêu cầu “chọn lọc” ở đây cần được lưu ý trên một số phương diện sau:
“Chọn lọc” về mặt công nghệ cần được xem xét một cách đầy đủ, không
nên chỉ thuần tuý xem xét về mặt kinh tế.
Mặt khác, không phải tất cả những gì tiên tiến đều phù hợp với hoàn cảnh
cụ thể nước ta và có thể đưa lại hậu quả mong muốn. Hơn thế nữa, tuỳ theo
yêu cầu sử dụng, trong một giai đoạn sử dụng nhất định, nhiều loại công
nghệ không thuộc các thế hệ nới nhất lại có thể thích hợp với trình độ phát
triển của ta trong giai đoạn trước mắt.
Từ phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng việc xây dựng một năng lực
công nghệ nội sinh đủ mạnh cũng là một mục tiêu quan trọng của chính sách công
nghệ quốc gia.
Về sự lựa chọn các vấn đề ưu tiên trong công tác nghiên cứu – triển khai.
Yêu cầu này có thể được giải quyết theo các hướng sau:
Ung hộ các đề án nghiên cứu thăm dò của các tập thể khoa học ở các khoa,
bộ môn ở các trường đại học.
Gửi các cán bộ trẻ có tài năng tới học tập và làm việc ở các trung tâm khoa
học mạnh của thế giới về những lĩnh vực mà ta quan tâm.
Hình thành các trung tâm quốc gia với các trang thiết bị hiện đại dùng
chung cho nhiều ngành…
Về đảm bảo cơ sở hạ tầng cho khoa học và công nghệ. Cũng như đối với
kết cấu hạ tầng sản xuất, muốn đẩy nhanh nhịp độ phát triển và đổi mới công
nghệ, không thể không phát triển với hệ số vượt trước hợp lý cơ sở hạ tầng cho
khoa học và công nghệ. Điều này có liên quan tới hệ thống các thiết chế đào tạo và
đào tạo lại lực lượng khoa học và công nghệ; các cơ quan hoạch định chính sách
và điều hoà phối hợp các hoạt động nghiên cứu – triển khai, các cơ quan tài chính
và ngân hàng chuyên dụng, mạng lưới các cơ quan thông tin…
Về vai trò tác động của nhà nước. Nhà nước có vai trò điều tiết cơ chế thị
trường, đầu tư cho việc tăng cường kết cấu hạ tầng cho khoa học và công nghệ,
giành nguồn lực cho các nhiệm vụ khoa học ưu tiên quốc gia… Một mặt, phải tăng
cường vai trò định hướng điều tiết của nhà nước ở tầm quản lý vĩ mô, mặt khác,
phải thực hiện mở rộng quyền chủ động của các đơn vị khoa học – công nghệ và
của những người làm công tác khoa học và công nghệ ở tầm quản lý vĩ mô.
2.3Xu hướng phát triển khoa học – công nghệ đầu thế kỷ XXI và mặt trái của sự
phát triển đó
2.3.1. Xu hướng phát triển
Vào cuối thế kỷ XX, những đột phá của khoa học và công nghệ mới trong
kỷ nguyên công nghiệp đã làm đảo lộn hoàn toàn mọi phương diện chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội… của đời sống xã hội loài người và nền kinh tế công nghiệp.
Trong thế kỷ XXI, sự phát triển tiếp diễn như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, đang mở đường cho nhân loại tiến lên kỷ nguyên trí
tuệ, dưới những xu thế phát triển lớn. Các nước phát triển đang chuyển sang nền
kinh tế tri thức với đặc điểm là nền kinh tế biết khai thác, phát huy triệt để tiềm
năng của chất xám , của những ý tưởng sáng tạo và tri thức, về khoa học và công
nghệ phục vụ mục tiêu phát triển. Xu thế này thực sự đang mở ra cơ hội mới cho
nền kinh tế đang phát triển với điểm xuất phát thấp, cơ sở vật chất nghèo nàn,
nhưng quyết tâm đổi mới phương thức phát triển theo hướng thu hút và sử dụng tri
thức khoa học và công nghệ để tiến hành CNH, HĐH.
2.3.2. Mặt trái của phát triển khoa học và công nghệ
Bên cạnh những mặt tích cực của sự phát triển như vũ bão của khoa học và
công nghệ hiện nay, chúng ta cũng không thể không đề cập đến tác hại to lớn của
sự phát triển đó đối với nhân loại:
Nền văn minh hậu công nghiệp – với sự phổ biến rộng rãi của hệ thống tin
học- đã đem lại tính mong manh dễ đổ vỡ của hệ thống kỹ thuật áp dụng tin học.
Những sự cố kỹ thuật có thể xảy ra như vi-rút máy tính, sự cố Y2Kđe doạ toàn bộ
bộ máy và sự vận hành hệ thống kỹ thuật áp dụng tin học. Không ai phủ nhận tác
dụng tích cực của khoa học và công nghệ, công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học đối với đời sống, nhưng làm sao sử dụng công nghệ sinh học an toàn, có ích là
mối quan tâm nhiều năm qua của nhân loại tiến bộ. Liệu con người có can thiệp
quá sâu vào tự nhiên không? Việc tạo ra một con người hoàn chỉnh bằng phương
pháp nhân bản vô tính có phù hợp đạo đức? Việc giải mã bản đồ gen người lợi hay
hại? Loài người có thể tránh được nguy cơ một cuộc tiến công khủng bố huỷ diệt
bằng sử dụng công nghệ sinh học? Đó là những vấn đề luôn gây tranh cãi, liên
quan tới đạo đức của giới khoa học và thành quả của khoa học và công nghệ có thể
tác động đến đạo đức xã hội.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ trong điều kiện kinh tế thị trường
còn tác động mạnh mẽ đến nhân cách con người. Có thể nói, những thành tựu
trong lĩnh vực công nghệ thông tin là niềm tin hào của khoa học và công nghệ hiện
đại. Nó mở ra những khả năng to lớn, tạo điều kiện cho con người nhận thức thế
giới xung quanh, tạo cơ hội cho sự hiểu biết, hợp tác và xích lại gần nhau giữa các
dân tộc, quốc gia trên thế giới. Song cũng phải thừa nhận rằng công nghệ thông tin
đang gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đối với đạo đức. Sự ra đời của các
phương tiện thông tin đại chúng, nhất là văn minh màn hình đang làm cho thế giới
nội tâm của con người trở nên nghèo nàn, sự giao cảm giữa mỗi cá nhân với thế
giới bên ngoài trở nên hời hợt, những khoảng trống, những khoảng trống, sự thiếu
hụt trong cấu trúc nhân cách như mối đồng cảm, sự quan tâm đến người khác…
xuất hiện ngày càng nhiều. Khi quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng bị suy yếu,
lỏng lẻo, con người sẽ cảm thấy cô đơn, thậm chí chai lỳ trước đau khổ hay hạnh
phúc của đồng loại. Sự thâm nhập và tiếp cận văn hoá không lành mạnh thông qua
mạng Internet đã gây những vấn đề bức xúc về mặt đạo đức như chủ nghĩa thực
dụng, tâm lý hưởng thụ, sống gấp, chạy theo đồng tiền… của một bộ phận dân cư,
đặc biệt là trong tầng lớp thanh thiếu niên. Đến lượt mình, những biểu hiện có tính
phương Tây hoá đó sẽ gặm nhấm, làm mai một dần các giá trị định hướng nhân
cách mang bản chất dân tộc. Chính vì thế mà mới đây, Trung Quốc đã tiến hành
kiểm tra và quyết định đóng cửa gần 1000 quán cà phê có trang bị mạng Internet,
hy vọng có thể ngăn chặn sự thẩm thấu văn hoá độc hại làm suy thoái đạo đức
trong thanh thiếu niên.
Khi khoa học và công nghệ phát triển đã đặt ra một vấn đề cấp bách đó là
vấn đề môi trường. Do sự tác động của cách mạng khoa học – kĩ thuật, ở hầu hết
các nước công nghiệp có sự phát triển mạnh. Các chất thải công nghiệp cũng tăng
lên với tốc độ ngày càng lớn đã làm ô nhiễm môi trường, có ảnh hưởng trầm trọng
cho hệ sinh thái bề mặt trái đất và bầu khí quyển. Rừng bị phá huỷ ngày một
nhiều. Nồng độ ôzôn trong khí quyển bị suy giảm, gây ra mưa axít; nhiệt độ trái
đất nóng lên; mực nước biển trung bình tăng cao. Thực trạng về môi trường sống
của ngôi nhà chung thế giới hiện nay là vấn đề nan giải. Nó đã đem đến bao nỗi
nguy hiểm cho con người và sinh vật. Các bệnh hiểm nghèo chưa có cách chữa
như ung thư, đe doạ cuộc sống của con người. Đặc biệt là sự lan tràn các bệnh xã
hội, nhất là bệnh AIDS ngày càng tăng nhanh mà cả nhân loại đang quan tâm lo
ngại. Toàn bộ tình trạng đó đang là những hiểm hoạ đối với loài người, là nguy cơ
đe doạ hành tinh chúng ta.
Nước ta đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và dựa vào
khoa học và công nghệ hiện đại để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Bởi vậy, vấn đề đặt ra đối với chúng ta không phải chỉ là nhận diện những
tác động của khoa học và công nghệ hiện đại đối với công cuộc đổi mới nền kinh
tế. Điều quan trọng là làm sao để có phát huy tối đa mặt tích cực, giảm thiểu tiêu
cực của sự tác động đó. Nói cách khác, làm thế nào để khoa học và công nghệ hiện
đại, trong điều kiện kinh tế thị trường, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng
một xã hội mới, trong đó không những “dân giàu, nước mạnh”, mà còn là “xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Kết luận
Công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã và đang đi vào chiều sâu ,cùng với xu
thế hoà nhập với thế giới, đòi hỏi chúng ta phải đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá ,trong đó việc tiếp thu có chọn lọc ,và đẩy mạnh nghiên cứu
khoa học ,và vận dụng nó vào trong công cuộc đổi mới nền kinh tế sao cho có hiệu
quả là vấn đề cấp bách nhất .Trong xu hướng hiện nay nên cố gắng đẩy mạnh phát
huy nguồn nội lực , tránh hiện tưọng mua lại những kỹ thuật của nước ngoài
nhưng đã lỗi thời , không còn hiệu quả sử dụng . Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước
ngoài cả về vốn lẫn kỹ thuật , học hỏi về cả cách thức tổ chức sản xuất quản lý
Một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh , không chỉ là mông ươc cua Đảng
và nhà nước ,mà còn là mong ước của mọi người dân ,đòi hỏi chúng ta phải chung
sức để thực hiện tốt mong ước của Bác .
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác Lênin, NXB Chính trị quốc gia.
2. Giáo trình lịch sử kinh tế ,NXB đại học kinh tế quốc dân
3. GS – TS. Vũ Đình Cự: “Khoa học và công nghệ - lực lượng sản xuất hàng
đầu”, NXB Chính trị quốc gia.
4. Lý luận Chính trị, Số 11, năm 2004.
5. Tạp chí Cộng Sản, Số 6, năm 1999.
6. Tạp chí Cộng sản, Số 29, năm 2003.
7. Tạp chí Cộng Sản, Số 21, năm 2004.
8. Tạp chí Triết học, Số 3, năm 2002.
9. Tạp chí Triết học, Số 6, năm 2002.
10. Tạp chí Khoa học và công nghệ môi trường, Số 1, năm 2003.