LUẬN VĂN:
Ngân hàng Thương mại và hoạt
động huy động vốn của Ngân hàng
Chương I
Những vấn đề mang tính lí luận về Ngân hàng Thương mại và hoạt động huy
động vốn của Ngân hàng.
1. Tổng quát về Ngân hàng Thương mại.
1.1 Khái niệm
Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn. Doanh
nghiệp Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc thù. Chất liệu kinh doanh chủ yếu
của loại hình này là " Quyền sử dụng" các khoản kinh tế Ngân hàng vừa là nguồn
"cung cấp" đồng thời cũng là nguồn "tiêu thụ" đồng vốn của khách hàng. Tất cả
những hoạt động mua "bán này" thường thông qua một số công cụ, nghiệp vụ Ngân
hàng. Là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn Ngân hàng Thương mại ln tìm
cách tối đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay để cho vay.
Để thu hút tiền vào Ngân hàng đưa ra những điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền.
ở Việt Nam, khái niệm về Ngân hàng Thương mại đã được ghi rõ trong
"Pháp lệnh Ngân hàng về NHTM, HTX tín dụng và Cơng ty tài chính" ban hành
tháng 5 năm 1990 như sau:
"Ngân hàng Thương mại là tổ chức tín dụng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ
mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán".Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại có
vai trị hết sức quan trọng trong lĩnh vực phát triển kinh tế đó là:
- Đảm bảo cho q trình sản xuất kinh doanh được liên tục.
- Là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
- Là nơi tích tụ và tập trung vốn.
- NHTM làm kích thích sản xuất và lưu thơng hàng hố.
- NHTM là cơng cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô kinh tế.
- NHTM là tổ chức thực hiện phân bổ vốn giữa các vùng qua đó tạo điều
kiện cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng khác nhau trong cùng một quốc gia.
- NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế, tạo điều
kiện cho nền kinh tế trong nước hoà nhập với nền kinh tế trong khu vực và nền kinh
tế trên thế giới.
- Các NHTM cịn có vai trị làm tăng khả năng sinh lời của đồng tiền và giảm
chi phí giao dịch, chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển tiền.
Với những vai trò trên Ngân hàng thực sự trở thành bộ phận khơng thể thiếu
đối với bất kì nền kinh tế của một quốc gia nào.
1.2 Chức năng của Ngân hàng Thương mại
Tầm quan trọng của Ngân hàng được thể hiện thơng qua các chức năng của
nó, chức năng của Ngân hàng Thương mại có thể được đưa ra dưới nhiều khía cạnh
khác nhau, nhưng nhìn chung được nhiều nhà kinh tế chấp nhận ở các chức năng
sau:
1.2.1 Trung gian tài chính:
Đây là chức năng cơ bản nhất, đặc trưng nhất của NHTM. Nó có ý nghĩa
quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là hoạt động
cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những nơi nhàn rỗi
sang những nơi có thể sinh lợi hay nói cách khác NHTM đã thiết lập
mối quan hệ tín dụng giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng sang chủ thể cần tiêu để
phục vụ kinh doanh.
Thực hiện chức năng này một mặt NHTM đi huy động và tập trung các
nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế hình thành nguồn
vốn cho vay. Mặt khác trên doanh số vốn đã huy động được Ngân hàng cho vay để
đáp ứng các nhu cầu sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng… của các chủ thể kinh tế. Góp
phần đảm bảo cho sự vận động liên tục của bộ máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Như vậy NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay hay nói
cách khác hoạt động tín dụng Ngân hàng là đi vay để cho vay.
Ngày nay quan niệm vai trị trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn, sự phát
triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của chức năng
này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa các Công ty (khi phát hành cổ
phiếu ) với những nhà đầu tư, chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng
khoán, đảm nhận việc mua bán trái phiếu Công ty… theo cách này Ngân hàng làm
trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên thị trường.
Như vậy thông qua chức năng này NHTM đang thực hiện chức năng xã hội
của mình làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng, từ đó
góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cải thiện đời sống nhân dân.
1.2.2 Trung gian thanh toán.
Ngân hàng là thủ quỹ của các doanh nghiệp, tức là Ngân hàng tiến hành thu
thập tiền vào tài khoản hay chi trả theo lệnh của chủ tài khoản. Một trong những
hoạt động của Ngân hàng có nguồn gốc xa xưa đó là hoạt động thanh tốn hộ cho
khách hàng của mình. Hoạt động này làm cơ sở cho hoạt động tín dụng ngày nay.
Khi một khách hàng thiếu tiền để thanh toán Ngân hàng sẽ trả hộ và khoản trả đó sẽ
trở thành khoản vay của khách hàng. Chức năng trung gian thanh tốn gắn bó chặt
chẽ và hữu cơ với trung gian tín dụng, Ngân hàng dùng số tiền gửi của người này để
cho người khác vay. Xuất phát từ chức năng là thủ quỹ của nền kinh tế xã hội có
được điều kiện thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng.
Khi các khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng họ sẽ được bảo đảm an toàn trong việc
cất giữ, thực hiện thu chi nhanh chóng thuận lợi, nhất là đối với khoản thanh tốn có
giá trị lớn ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém, khó khăn,
khơng an tồn…
Hiện nay séc và thẻ tín dụng đang dần dần được sử dụng rộng rãi ở nước ta.
Điều này được gọi là thanh tốn khơng dùng tiền mặt được thực hiện bởi các
NHTM. Việc phát hành séc để rút tiền chuyển khoản trong cùng một Ngân hàng chỉ
đơn thuần là sự chuyển vốn từ tài khoản này sang tài khoản khác. Nếu chỉ hai Ngân
hàng trong cùng một thành phố thì tiến hành trao đổi séc trực tiếp, nhưng nếu nhiều
Ngân hàng trong cùng một thành phố thì sự trao đổi sẽ được tiến hành thơng qua
các phiên giao dịch tiến hành thanh tốn bù trừ do Ngân hàng Nhà nước chủ trì.
Quá trình trở nên phức tạp mất thời gian và tốn kém khi việc thanh toán bù trừ diễn
ra giữa các Ngân hàng khác nhau của cùng đất nước, công việc thanh tốn sẽ được
tiến hành thường xun thơng qua hệ thống liên Ngân hàng, các Ngân hàng có thể
kết hợp hai hình thức thanh tốn: liên hàng trước, bù trừ sau hoặc bù trừ trước, liên
hàng sau, Như vậy các NHTM đã tạo ra sự vận động linh hoạt của đồng vốn, thúc
đẩy quá trình sản xuất xã hội.
1.2.3 Tạo tiền.
Một trong những khả năng chủ yếu của NHTM là khả năng tạo tiền. Chức
năng này được thể hiện thơng qua hoạt động tín dụng và đầu tư của các NHTM
trong mối quan hệ với tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN. Sức mạnh của hệ thống
NHTM nhằm tạo bút tệ mang ý nghĩa kinh tế to lớn. Hệ thống tín dụng năng động
là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế theo một hệ số tăng trưởng vững
chắc. Nền tín dụng Ngân hàng khơng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình
sản xuất và những hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp sản xuất khơng thực
hiện được và nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận và từ những nguốn khác sẽ bị hạn chế,
hơn nữa các đơn vị có thể phải gánh chịu tình trạng ứ đọng vốn ln chuyển vốn
khơng được sử dụng trong quá trình sản xuất nhưng trong các thời kì cao điểm
mang tính thời vụ các hoạt động doanh nghiệp lại không đủ vốn để phục vụ nhu cầu
sản xuất kinh doanh nên thực tế cần một số cung tiền tệ vừa đủ và không được phép
vượt nếu tiền cung ứng tăng quá nhanh, tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện kèm theo là
những hậu quả kinh tế, xã hội mà quốc gia đó sẽ phải gánh chịu.
* Hệ số tạo tiền của NHTM:
m= 1/ (tỷ lệ dự trữ bắt buộc + tỷ lệ dự trữ tiền thừa + tỷ lệ thanh toán tiền mặt)
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHNN ấn định để phục vụ cho chính sách quản lí vĩ mơ
của mình.
- Tỷ lệ tiền thừa = ( tỷ lệ tiền mặt trong két/ huy động vốn) *100%
- Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt: phản ánh lượng tiền ra khỏi Ngân hàng.
Như vậy với chức năng này NHTM đóng vai trị như một kênh dẫn quan
trọng để chính phủ thực hiện mục tiêu chính sách tài chính và tiền tệ.
1.2.4 Dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác.
Ngồi các chức năng trên Ngân hàng cịn có chức năng dich vụ tài chính
khác như dịch vụ uỷ thác, dịch vụ kinh kỷ...
2. Hoạt động huy động vốn của NHTM.
2.1 Cơ cấu nguồn vốn của NHTM.
Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, Ngân hàng muốn hoạt động
được trước hết phải có vốn. Nhưng vì mặt hàng kinh doanh của Ngân hàng rất đặc
biệt "kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ" cho nên nhu cầu về vốn của NHTM là rất lớn.
Chính vì vậy cấu trúc nguồn vốn của các NHTM khá phong phú bao gồm các loại
vốn sau đây:
2.1.1 Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng ( vốn tự có ).
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập được, thuộc
sở hữu của Ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của
Ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi mới bắt đầu thành lập một
Ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, Ngân hàng có thể chủ
động sử dụng vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, tạo tài sản
cố định phục vụ cho bản thân Ngân hàng, đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên
doanh. Mặt khác với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo gây
lịng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân
hàng gặp nhiều thua lỗ. Nó cịn là một trong những căn cứ quyết định đến quy mô
và khối lượng huy động vốn của Ngân hàng. Theo luật các tổ chức tín dụng vốn tự
có là yếu tố cơ bản để xác định các chỉ tiêu an toàn của một NHTM. Như vậy quy
mơ và sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và sự phát triển của
NHTM.
Vốn tự có của NHTM bao gồm hai loại:
- Vốn điều lệ:
Là nguồn vốn ban đầu khi Ngân hàng thành lập do Nhà nước cấp nếu là
NHTM quốc doanh, do đóng góp của cổ đơng nếu là NHTM cổ phần hoặc do phần
đóng góp của các bên nếu là Ngân hàng liên doanh với mức độ tuỳ theo quy mơ của
NHTM đó được pháp lệnh Ngân hàng quy định cụ thể. Vốn điều lệ có thể cao hay
thấp nhưng mức tối thiểu phải bằng mức quy định của pháp luật.
- Vốn tự có bổ sung:
Vốn tự có của NHTM khơng ngừng được tăng lên theo thời gian nhờ có
nguồn vốn bổ sung. Vốn tự bổ sung bao gồm
+ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Được trích từ lợi nhuận rịng hàng năm
của NHTM theo một tỷ lệ nhất tuỳ từng Ngân hàng nhằm mục đích tăng cường vốn
tự có ban đầu.
+ Quỹ dự trữ đặc biệt: Để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng nhằm bảo vệ vốn điều lệ.
+ Ngoài ra vốn tự có bổ sung vốn điều lệ cịn bao gồm lợi nhuận chưa phân
bổ hoặc các quỹ lợi nhuận khác như quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng…
2.1.2 Vốn huy động:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp
vụ tín dụng, thanh tốn, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng để kinh
doanh.
Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng mà khơng có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả
đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi đến kì hạn ( đối với tiền gửi có kì hạn ) hoặc khi họ có
nhu cầu rút vốn để chi trả ( đối với tiền gửi khơng kì hạn ). Chính vì thế vốn huy
động ln biến động, nên Ngân hàng khơng được phép sử dụng hết số vốn đó vào
kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán.
Vốn huy động đóng vai trị hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng. Vốn huy động bao gồm:
+ Tiền gửi của khách hàng.
+ Vốn đi vay.
+ Vốn phát hành các chứng từ có giá.
2.1.3 Các nguồn vốn khác.
- Vốn tiếp nhận: gồm vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác chương
trình, dự án xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước hay trợ giúp cho đầu tư phát
triển những chương trình, dự án có mục tiêu kinh tế, xã hội riêng. NHTM cho vay
theo chỉ định của chủ nguồn vốn để hưởng hoa hồng.
- Các loại nguồn vốn khác: được hình thành trong quá trình hoạt động của
nghiệp vụ và được sử dụng theo quy định của Nhà nước.
2.2 Vai trò của nguồn huy động trong hoạt động, kinh doanh của NHTM.
Nguồn vốn huy động giúp Ngân hàng tự chủ trong kinh doanh.
Một Ngân hàng không thể hoạt động kinh doanh tốt nếu các hoạt động
nghiệp vụ của nó hồn tồn phụ thuộc vào vốn đi vay: vay để cho vay, vay để đầu
tư, vay để thanh toán. Ngược lại một Ngân hàng với nguồn vốn huy động dồi dào sẽ
hoàn tồn tự quyết trong hoạt động kinh doanh của mình, không bỏ lỡ cơ hội kinh
doanh. Nguồn vốn huy động dồi dào cũng làm tăng khả năng của Ngân hàng chủ
động đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro thu được lợi
nhuận cao nhất, đạt mục tiêu cuối cùng là an toàn sinh lời.
Nguồn vốn huy động ảnh hưởng quy mơ tín dụng và các hoạt động khác.
Vốn huy động có ảnh hưởng to lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng
tín dụng cũng như các hoạt động khác. Thông thường so với các Ngân hàng nhỏ,
các Ngân hàng lớn có khoản mục đầu tư cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối
lượng cho vay của các Ngân hàng này cũng lớn hơn. Trong khi các Ngân hàng lớn
cho vay ở thị trường trong nước thậm chí quốc tế thì các Ngân hàng nhỏ lại giới hạn
phạm vi hoạt động chủ yếu trong cộng đồng. Thêm vào đó, do khả năng vốn hạn
hẹp nên các Ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến động của
lãi suất, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và
các thành phần kinh tế. Nếu khả năng vốn của Ngân hàng đó dồi dào thì chắc chắn
Ngân hàng sẽ mở rộng và đáp ứng được nhu cầu vay vốn, có đủ điều kiện để mở
rộng thị trường tín dụng, tăng khả năng thanh tốn và các dịch vụ Ngân hàng.
Nguồn vốn huy động quyết định năng lực thanh tốn và đảm bảo uy tín của
Ngân hàng trên thị trường.
Thật vậy trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy
mô hoạt động địi hỏi Ngân hàng phải coi uy tín trên thị trường là điều quan trọng.
Uy tín đó trước hết phải thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách
hàng. Mà khả năng thanh toán của Ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của Ngân
hàng càng lớn. Với tiềm năng vốn lớn, nguồn huy động dồi dào, Ngân hàng có thể
hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành cạnh tranh có hiệu
quả vừa giữ chữ tín vừa nâng cao thanh thế của Ngân hàng trên thị trường.
Quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng:
Thực tế đã chứng minh: quy mơ trình độ nghề nghiệp, phương tiện kĩ thuật
hiện đại của Ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Khả năng vốn lớn là
điều kiện thuận lợi đối với Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các
thành phần kinh tế xét cả quy mơ, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian gia
hạn cho vay thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng, điều này sẽ
thu hút ngày cành nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của Ngân hàng tăng lên
nhanh chóng và Ngân hàng có điều kiện thuận lợi hơn trong kinh doanh.
Hơn nữa vốn của Ngân hàng lớn sẽ giúp cho Ngân hàng có đủ khả năng tài
chính, kinh doanh đa năng trên thị trường, khơng chỉ đơn thuần là cho vay mà cịn
mở rộng hình thức liên doanh, liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua… Và chính
những hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt
động kinh doanh và tạo thêm nguồn vốn cho Ngân hàng, đặc biệt là tăng sức cạnh
tranh của Ngân hàng trên thị trường.
2.3 Các hình thức huy động vốn của NHTM Việt Nam.
Để hiểu rõ hơn về hoạt động huy động vốn của NHTM ta có thể phân loại
nghiệp vụ huy động vốn theo sơ đồ sau:
Các nguồn huy động của
NHTM
Vốn đi vay
Tiền gửi
của khách
hàng
Tiền
gửi
khơn
g kì
hạn
T/gử
i
than
h
tốn
Tiề
n
gửi
có
kì
T/gử
i
khơn
g
k/hạ
n
Tiền
gửi
tiết
kiệm
Khơn
g kì
hạn
Vay
ngâ
n
hàn
g
Có
kỳ
hạn
Vay
các
TCTD
Vốn phát
hành các
chứng từ có
Phá
t
hàn
h
kỳ
phi
Phá
t
hàn
h
trá
i
Các
loạ
i
khá
c
2.3.1 Huy động thơng qua tài khoản tiền gửi.
Tiền gửi tại NHTM bao gồm tiền gửi khơng kì hạn và có kì hạn.
* Tiền gửi khơng kì hạn:
Là khoản tiền gửi mà người sử dụng có thể rút ra sử dụng bất kì lúc nào và
Ngân hàng phải thoả mãn u cầu đó của khách hàng. Tiền gửi khơng kì hạn có
mức lãi suất thấp hoặc khơng được trả lãi tuỳ theo chính sách quản lý lãi suất của
NHTW mỗi nước hoặc trình độ cạnh tranh của mỗi Ngân hàng và bao gồm hai loại
sau đây:
+ Tiền gửi thanh tốn: Đó là các khoản tiền gửi khơng kì hạn trước hết được
sử dụng để tiến hành thanh toán chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các
khoản chi phí khác phát sinh trong kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và
thuận tiện. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại Ngân hàng trên hai loại tài
khoản: Tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản tiền gửi vãng lai. Đối với các
khoản tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường được
thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục
đích đảm bảo khả năng thanh toán và sử dụng thuận tiện dễ dàng đồng vốn khi cần.
Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có. Với tài khoản này khách
hàng cịn có thể được Ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong những khoảng thời
gian nhất định. Đứng trên góc độ Ngân hàng, tiền gửi khơng kì hạn là khoản nợ mà
Ngân hàng ln phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên xét
tại một thời điểm nhất định nào đó, do có sự khơng khớp nhau giữa xuất và nhập
trên mỗi khoản tiền gửi thanh toán tạo nên những tồn khoản và Ngân hàng được
phép sử dụng vào kinh doanh.
+ Tiền gửi khơng kì hạn thuần t:
Là khoản tiền kí gửi với mục đích an tồn tài sản, khơng mang tính chất phục
vụ thanh tốn, khi cần khách hàng có thể đến Ngân hàng rút ra để chi tiêu. Khác với
tiền gửi thanh toán ở trên với loại tiền gửi này khách hàng không được sử dụng các
công cụ thanh tốn khơng dùng tiền mặt.
* Tiền gửi có kì hạn:
Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách hàng và Ngân hàng về
thời gian rút tiền. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về
bản chất chúng được gửi với mục đích hưởng lãi. Đây là nguồn tiền gửi tương đối
ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì
vậy, các NHTM ln tìm cách đa dạng hóa loại tiền giửi này bằng cách áp dụng
nhiều kì hạn khác nhau vơí các mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của
mọi khách hàng.
ở các nước trên thế giới, nhất là các nước cơng nghiệp hố phát triển tiền tiết
kiệm là loại tiền có số lượng lớn thứ hai trong số các loại tiền gửi vào Ngân
hàng.Đặc điểm của loại tiền này là người gửi tiền được giao cầm sổ tiết kiệm, sổ
này được coi là giấy chứng nhận việc gửi tiền vào Ngân hàng của khách hàng. Xét
về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử dụng cho
tiêu dùng. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một cách an tồn và
hưởng lãi từ số tiền đó. Hiện nay trong các NHTM ở Việt Nam tiền tiết kiệm chiếm
tỷ lệ lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động ( khoảng 60% - 70%). Tiền gửi tiết
kiệm có các loại chủ yếu sau:
* Tiết kiệm khơng kì hạn: người gửi tiền có thể rút ra một phần hay toàn bộ
vào bất cứ lúc nào theo nhu cầu nhưng không được sử dụng các công cụ thanh tốn
để chi trả cho người khác.
* Tiết kiệm có kì hạn: Đây là loại tiền được gửi vào Ngân hàng trên cơ sở có
sự thoả thuận về thời hạn, lãi suất giữa khách hàng và Ngân hàng. Như vậy theo
nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn. Tuy nhiên để khuyến khích
người dân gửi tiền, Ngân hàng vẫn cho phép khách hàng được rút tiền trước kì hạn.
Khi đó khách hàng thường phải chịu một mức lãi suất thấp hơn.
Với loại tiết kiệm này, mục đích của người gửi là sinh lợi cho nên vấn đề lãi
suất là rất quan trọng. Còn đối với Ngân hàng thì đây là nguồn vốn khá ổn định.
Nhằm mục đích sử dụng cho các nhu cầu khác nhau của khách hàng cũng như nhu
cầu về vốn của Ngân hàng, các Ngân hàng thường áp dụng các loại tiết kiệm với kì
hạn 3,6,9 tháng, 1 năm, 2 năm… Với mỗi thời hạn, áp dụng các mức lãi suất thích
hợp với từng thời kì theo ngyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
* Các loại tiết kiệm khác nhau như tiết kiệm xây dựng nhà ở: Tiết kiệm xây
dựng nhà ở là một hình thức tiết kiệm của các tầng lớp dân cư do Nhà nước áp dụng
nhằm hỗ trợ cho người dân sớm có nhà ở, rút ngắn thời gian chờ đểi đủ vốn góp
phần vào việc thực hiện chính sách nhà ở của Đảng và Nhà nước. Đối với Ngân
hàng loại tiết kiệm này tạo nguồn vốn ổn định, có thể phát triển thành những khoản
cho vay, đầu tư trung và dài hạn đối với các công trình phát triển nhà ở đơ thị hay
nơng thơn theo hướng quy hoạch của Nhà nước. Ngoài ra qua sản phẩm này Ngân
hàng còn phát triển hàng loạt hoạt động nghiệp vụ như tín dụng thuê, mua, tư vấn
về kinh doanh, đầu tư bất động sản… Cùng với hình thức này, Nhà nước cũng sẽ
khuyến khích được q trình hình thành các quỹ nhà ở trong xã hội giải quyết phần
nào sức ép phát sinh từ vấn đề phát triển đô thị hiện nay với nguồn tài lực huy động
từ dân cư là chính, dành được vốn ngân sách và vốn vay nước ngồi cho việc đầu tư
các cơng trình trọng điểm thuộc chiến lược phát triển quốc gia.
Theo hình thức này mọi cơng dân có nhu cầu mua sắm, cải tạo nâng cấp nhà
cửa đều có thể gửi tiền tiết kiệm có thời hạn ít nhất một năm trở lên và được Ngân
hàng cho vay vốn để cùng với số tiền tiết kiệm tạo được để làm nhà ở. Tiền gửi tiết
kiệm được Ngân hàng trả lãi. Lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay dựa trên ngun
tắc bình đẳng đảm bảo cho lợi ích của người gửi và chi phí của Ngân hàng. Người
gửi tiền và Ngân hàng kí hợp đồng gửi tiền tiết kiệm và vay vốn xã hộ xây dựng nhà
ở để thực hiện việc gửi vốn, rút vốn, vay vốn. Người gửi tiết kiệm có thể vay vốn
với mức vốn tối đa bằng số dư tiền gửi tiết kiệm tại thời điểm xin vay.
2.3.2 Huy động thông qua các thị trường.
Vốn đi vay và quan hệ vay mượn giữa NHTM và NHTW, hoặc giữa các
NHTM với nhau hay các tổ chức tín dụng khác. Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ
sung vào vốn hoạt động của mình khi mà Ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng
mà vẫn không đủ vốn hoạt động. Trong trường hợp Ngân hàng đã vay trên thị
trường tiền tệ liên hàng của các NHTM hay các tổ chức tín dụng mà vẫn khơng đáp
ứng được nhu cầu sử dụng vốn của mình thì Ngân hàng sẽ đi vay của NHNN. Tuỳ
theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay của NHNN sẽ được chia
thành các loại: Vốn vay để thanh toán và vay tái cấp vốn.
* Vốn vay để thanh toán: các NHTM vay NHNN để bù đắp thiếu hụt tạm
thời trong thanh toán ( thời hạn vay thường ngắn hạn ).
* Vay tái cấp vốn: NHNN cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các
chứng từ này phải đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp, đảm bảo an tồn. Tái cấp vốn
gồm hai hình thức:
+ Tái chiết khấu: NHNN nhận các chứng từ có giá mà các NHTM đã chiết
khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như các NHTM đã làm. Tuy nhiên
việc tái chiết khấu đối với các NHTM đã được giới hạn trong mức cho phép ( hạn
mức tái chiết khấu ) để thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN.
+ Cho vay có đảm bảo: Là hình thức các NHTM đem các giấy tờ có giá đến
các NHNN để làm vật bảo đảm xin vay vốn. Că cứ trên tổng mệnh giá các chứng từ
có giá làm vật đảm bảo, NHNN sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo việc điều
hành chính sách tiền tệ của Nhà nước trong từng thời kì.
2.3.3 Huy động thông qua phát hành những chứng từ có giá.
Vốn phát hành của Nhà nước thuộc loại " chủ đọng thu gom ". Thực chất cuả
hình thức chủ động huy động vốn này là Ngân hàng huy động vốn tiền tệ băng việc
phát hành những chứng từ có giá. Trong đó kì phiếu là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh
giá quy định, trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên
được Ngân hàng phát hành từng đểt, tuỳ theo mục đích với sự chấp thuận của
NHNN hoặc hội đồng chứng khoán Quốc gia.
Trong huy động vốn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, các
NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động. Nghiệp vụ này chỉ
được tiến hành khi Ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi
khơng đủ trang trải. Như vậy khi huy động vốn dưới hình thức này, các Ngân hàng
phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất và thời
hạn, phương pháp huy động. Khối lượng vốn này chỉ được huy động trong một thời
gian nhất định, khi đã huy động được đủ khối lượng theo dự kiến các Ngân hàng sẽ
ngừng việc huy động.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn của NHTM.
3.1 Kinh tế và chính trị.
Hoạt động của một Ngân hàng nói chung và hoạt động nguồn vốn nói riêng
khơng thể thốt ly khỏi mơi trường kinh doanh, đặc biệt là mơi trường kinh tế và
chính trị.
ổn định kinh tế là một nhân tố ảnh hưởng lớn tới khả năng khai thác các
nguồn vốn của NHTM. Nếu nền kinh tế không ổn định, thường xuyên có lạm phát
cao, dân chúng sẽ tìm cách đầu tư vào bất động sản, vàng và ngoại tệ mạnh. Trong
những trường hợp đó nếu các NHTM muốn huy động được nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí lớn. Nếu nền kinh tế thường xuyên ổn
định sẽ khuyến khích mọi người dân yên tâm và tạo điều kiện cho mọi nguồn vốn
có thể sử dụng vào đầu tư sinh lời.
ổn định chính trị trong nước sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, tăng
thêm thu nhập cho người lao động và có cơ hội cho mọi khoản vốn nhàn rỗi được
sung dụng vào đầu tư phát triển kinh tế. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng và
Nhà nước trong từng thời kì là một nhân tố tác động đến khả năng khai thác vốn của
các NHTM. Trong điều kiện nước ta hiện nay, mục tiêu của chiến lược phát triển
kinh tế là " dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Đường lối và chủ
trương thực hiện đường lối đúng đắn sẽ tăng thêm khả năng đầu tư cho nền kinh tế.
3.2 Yếu tố niềm tin
Trong điều kiện kinh tế thị trường, một điều quan trọng là các tổ chức kinh tế
phải tạo lập được uy tín trên thương trường. Uy tín đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố
song đối với một NHTM, thì tăng trưởng đều trong nhiều năm, phục vụ khách hàng
tận tình và đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của khách hàng sẽ lấy được lòng tin và tạo
điều kiện cho khả năng khai thác các nguồn vốn của Ngân hàng.
3.3 Yếu tố tiết kiệm trong nền kinh tế.
Như ta đã biết, vốn huy động của một NHTM chủ yếu được hình thành từ
nguồn huy động trong dân cư. Đây là lượng tiền tạm thời nhàn rỗi có được chủ yếu
là do tiết kiệm. Chính vì lẽ đó, cơng tác huy động vốn của một Ngân hàng chịu ảnh
hưởng rất lớn của yếu tố tiết kiệm. Nếu khơng có tiết kiệm sẽ khơng có vốn đầu tư
sản xuất do khơng huy động và tập trung được vốn. Ngược lại nếu tỉ lệ tiết kiệm
trong nước cao sẽ làm tăng khối lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội qua đó có thể làm
tăng quy mô và chất lượng công tác huy động vốn của NHTM. Tuy nhiên, bản thân
yếu tố tiết kiệm này lại chịu sự chi phối tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau
như:
+ Thu nhập của dân cư: dân cư có thu nhập cao thì khối lượng tiền dành cho
tiết kiệm có thể cũng càng nhiều, bởi vì với mức thu nhập lớn thì khả năng thoả
mãn các nhu cầu thiết yếu sẽ cao hơn và do đó sẽ có nhiều khoản tiết kiệm hơn.
+ Tâm lý tiêu dùng của dân cư: tâm lý tiêu dùng của dân cư rất khác nhau
giữa các vùng, các địa phương và các quốc gia. Có thể nói cùng một mức thu nhập,
cùng một mức giá sinh hoạt nhưng ở nơi này lượng tiền bỏ vào tiết kiệm rất lớn
nhưng ở nơi khác lại rất nhỏ do tâm lý thích tiêu dùng của dân cư ở đây. Chính vì
vậy thu nhập cao chưa hẳn tiết kiệm đã cao.
3.4 Tính đa dạng và tiện ích của các hình thức huy động vốn.
Hình thức huy động mà Ngân hàng đưa ra càng phong phú đa dạng, linh hoạt
và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn từ trong nền kinh tế càng lớn. Điều này xuất
phát từ sự khác nhau trong nhu cầu cũng như tâm lý của dân cư, chính sự đa dạng
hố các hình thức huy động của Ngân hàng sẽ giúp thoả mãn được hầu hết các nhu
cầu mong muốn đa dạng của dân cư vì mỗi người đều tìm được cho họ những hình
thức tiết kiệm mà họ ưa thích nhất. Tuy vậy mức độ đa dạng của mỗi hình thức huy
động mà Ngân hàng đưa ra còn phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm kinh tế của khu vực
và khả năng của Ngân hàng.
3.5 Các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp:
Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu được phục vụ của người dân càng
cao, người ta sẵn sàng bỏ ra một lượng tiền lớn hơn cần thiết để mua một sản phẩm
có dịch vụ đi kèm theo vì những dịch vụ kèm theo sản phẩm đó đem lại cho người
ta sự thuận lợi và thoải mái. Bản thân các hoạt động của Ngân hàng cũng là dịch vụ,
vì thế cho nên Ngân hàng nào tổ chức tốt công tác dịch vụ thì sẽ có khả năng thu
hút được nhiều khách hàng hơn và việc tổ chức tốt công tác dịch vụ kèm theo trong
cơng tác huy động vốn nói riêng và trong các hoạt động khác của Ngân hàng nói
chung được xem như là một trong những biện pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu
quả hoạt động của Ngân hàng.
3.6. Chính sách lãi suất:
Đây là một trong những yếu tố qua trọng hàng đầu tác động trực tiếp đến tâm
lý của người gửi tiền, tuy nhiên không phải Ngân hàng cứ đưa ra lãi suất cao là có
thể thu hút được nhiều vốn nhàn rỗi trong dân cư mà vấn đề là ở chỗ với mức lãi
suất cụ thể mà Ngân hàng đưa ra sẽ đem lại cho người gửi tiêng mức lợi nhuận là
bao nhiêu. Điều đó có nghĩa là mức lãi suất mà Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với
quan hệ cung cầu về vốn và cần lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, mức lãi suất này
cũng khơng được q cao, vì nếu q cao sữ đẩy giá đầu ra lên cao hạn chế việc mở
rộng và nâng cao hiệu quả của cơng tác tín dụng. Chính vì thế, khi đưa ra mức lãi
suất huy động cụ thể, Ngân hàng phải căn cứ vào tình hình nền kinh tế, vào quan hệ
cung cầu về vốn, vào chính sách tín dụng và phương hướng phát triển kinh tế của
đất nước.
3.7 Một số yếu tố khác:
* Quy mơ vốn tự có: Vốn tự có là nguồn vốn quan trọng của Ngân hàng, nó
đảm bảo lòng tin của khách hàng đối với Ngân hàng cũng như gián tiếp quyết định
giới hạn tối đa của quy mô nguồn vốn.
* Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác huy động vốn: Đây là một trong
các nguồn lực quan trọng để Ngân hàng hoạt động hiệu quả. Đó là mạng lưới các
chi nhánh, các quầy giao dịch đặt ở vị trí có thuận lợi cho việc giao dịch không,
phương tiện làm việc của Ngân hàng hiện đại hay chậm chạp thô sơ…
* Tài sản vô hình của Ngân hàng: Nói đến tài sản vơ hình trước hết phải kể
đến uy tín, sự nổi tiếng của Ngân hàng, uy tín của các thành viên trong hội đồng
quản trị, trong ban giám đốc. Đây là tài sản vô cùng quý giá trong hoạt động huy
động vốn. Thuộc loại tài sản vơ hình cịn có mối quan hệ mà Ngân hàng đã tạo lập
được với các khách hàng hiện có và những khách hàng tiềm năng.
Ngồi những yếu tố trên, cơng tác huy động vốn cịn chịu ảnh hưởng bởi
chính sách của mỗi một Ngân hàng như: Chính sách khách hàng, chính sách sản
phẩm mới, chiến lược marketing…
4. Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn của NHTM
NHTM hoạt động theo nguyên tắc " đi vay để cho vay" do đó giữa hoạt động
huy động và hoạt động sử dụng vốn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Để có vốn
cho vay, Ngân hàng phải thực hiện công tác huy động. Tuy nhiên, số lượng vốn huy
động, cơ cấu, loại hình, thời hạn huy động phụ thuộc vào phương hướng kinh doanh
tức là vào chiến lược tín dụng của Ngân hàng. Trong trường hợp Ngân hàng không
muốn tăng doanh số cho vay mà vẫn muốn thay đổi tốc độ lợi nhuận thì lúc này
Ngân hàng phải có sự thay đổi trong cơ cấu huy động vốn, giảm bớt loại vốn huy
động có lãi suất cao, tăng cường huy động vốn có lãi suất thấp hơn, còn trong
trường hợp Ngân hàng muốn thu hẹp hoạt động tín dụng thì bắt buộc phải có sự
thay đổi tương ứng trong hoạt động huy động vốn nhằm giảm bớt một cách tương
ứng lượng tiền không cần thiết, nhờ đó tránh được những chi phí mà Ngân hàng có
thể phải gánh chịu nếu khơng có sự đồng bộ giữa huy động vốn và sử dụng vốn.
Ngược lại, hoạt động huy động vốn cũng có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của
Ngân hàng trong trường hợp khi mà Ngân hàng áp dụng đầy đủ các biện pháp như
thay đổi lãi suất, cải thiện công tác dịch vụ… nhưng cũng thể tăng được khối lượng
vốn huy động dẫn đến việc phải thực hiện chính sách tín dụng có lựa chọn, không
đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của khách hàng.
Tóm lại: giữa hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng có mối quan hệ
biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, để thực hiện tốt công tác này phải thực hiện
tốt công tác kia, không được xem nhẹ bất kỳ công tác nào, phải luôn hiểu rằng sự
hoạt động nhịp nhàng của hai hoạt động này là cở sở để đảm bảo hiệu quả trong
hoạt động kinh doanh của NHTM.
Kết luận:
Trên đây là những vấn đề mang tính lý luận chung về Ngân hàng và hoạt
động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế. Chương nay
nhằm cung cấp các lý luận cơ bản về hoạt động nguồn vốn của Ngân hàng, nó trả
lời cho các câu hỏi: Ngân hàng Thương mại là gì? Chức năng vai trị của nó đối với
nền kinh tế? Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng là gì?…Từ cơ sở lý luận trên
em xin đi sâu vào nghiên cứu cụ thể tình hình huy động vốn tại Ngân hàng Công
thương Đống Đa trong những năm qua và đặc biệt là trong năm 2000. Trên cơ sở
thực tế đó đánh giá kết quả đạt được những mặt tồn tại và nguyên nhân của tồn tại
ấy, từ đó sẽ cho em các cơ số để đưa ra các giải pháp chủ quan của mình.
Chương II
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng Cơng thương Đống Đa.
1. Tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn và ảnh hưởng đến công tác huy động vốn
của Ngân hàng Công thương Đống Đa
1.1. Khái quát quá trình phát triển kinh tế quận Đống Đa trong những năm gần
đây
Quận Đống Đa là một quận nội thành của thành phố Hà Nội, với tổng số
26 phường. Nói đến quận Đống Đa là nghĩ tới một địa bàn tập trung nhiều công ty
(bưu điện, điện lực, cung cấp nước...) doanh nghiệp, các công ty tư nhân...các địa
điểm trên tạo cho quận Đống Đa các tiềm năng về phát triển kinh tế – xã hội.
Với lợi thế đó, trong năm qua, quận Đống Đa đã đạt được sự phát triển
đáng kể, các công ty tư nhân ngày càng tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thành
phần kinh tế tập trung tại các khu Kim Liên, Đường Tây Sơn, Nguyễn Lương Bằng,
các họ tư thương này hoạt động khá hiệu quả. Bên cạnh đó quận Đống Đa cịn có
trung tâm Thương mại Quốc tế là nơi trưng bày, quảng cáo, buôn bán các sản phẩm
danh tiếng. Các loại hình dịch vụ của quận càng phát triển các nhà nghỉ khách sạn
vẫn thu hút được rất nhiều khách, các trung tam giải trí, thể thao như
Starbowl...cũng đóng góp cho ngân sách Nhà nước một phần không nhỏ, mặt khác
thu nhập của dân cư trên địa bàn ngày càng tăng, tình trạng thiếu cơng ăn việc làm
tại đây rất ít.
Sự phát triển của quận Đống Đa đã tác động trực tiếp lên hoạt động của
Ngân hàng Công thương Đống Đa. Sự đa dạng hoá của các thành phần kinh tế, sự
phát triển của các thành phần kinh tế trên địa bàn là tiền đề để Ngân hàng Công
thương Đống Đa mở rộng phạm vi tín dụng, mở rộng khả năng nâng cao tiền gửi
của tổ chức kinh tế. Thu nhập của dân cư nâng lên làm cho lượng tiền dành cho tiết
kiệm cũng tăng.
Qua tổng quát tình hình phát triển của quận Đống Đa ta thấy Ngân hàng
Cơng thương Đống Đa đang có nhiều thuận lợi trong hoạt động cũng như cơng tác
tín dụng huy động vốn.
1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống
Đa.
1.2.1. Đặc điểm của Ngân hàng Cơng thương Đống Đa
1.2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa là một chi nhánh cấp II phụ
thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam, đặt trụ sở tại 187 Tây Sơn _ Đống Đa –
Hà Nội. Trước năm 1998 Ngân hàng Công thương Đống Đa là ngân hàng Nhà nước
quận Đống Đa trực thuộc Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội. Sau khi hệ thống
ngân hành nước ta chuyển thành hệ thống ngân hàng cấp một sang hệ thống ngân
hàng cấp hai thì Ngân hành Ngân hàng Nhà nước quận Đống Đa chuyển thành
Ngân hàng Công thương Đống Đa theo Nghị định 53/HĐBT nay là Chính phủ. Cho
đến ngày 1/4/1993 thì Ngân hàng Công thương Đống Đa chuyển thành Ngân hàng
Công thương khu vực Đống Đa trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Đống Đa là một quận có địa bàn rộng, với tổng số 26 phường là nơi tập
trung nhiều công ty, doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất và các hộ tư thương. Do đó
Ngân hàng Cơng thương khu vực Đống Đa có một lượng khách hành lớn, đa dạng,
phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng mở rộng quy mô, khối lượng hoạt
động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng.
Trải qua hơn 40 năm hình thành và phát triển Ngân hàng Công thương khu
vực Đống Đa đã không ngừng đổi mới các hoạt động kinh doanh, dịch vụ để thích
ứng với nền kinh tế tế thị trường. Tuy nhiên có nhiều thuận lợi song Ngân hàng
Công thương khu vực Đống Đa cũng gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh
doanh của mình, một địa bàn mang tính nội địa dễn đến sự kém phát triển của các
nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế.
Mặc dù vậy, Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa vẫn phát triển ổn
định trong nhiều năm qua. Từ chỗ cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu đến nay Ngân
hàng Công thương khu vực Đống Đa đã xây dựng cho mình được một nền tảng
vững chắc, cơng nghệ hiện đại đáp ứng được yêu cầu nghiệp vụ của ngân hàng.
Hiện nay Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa là một trong ba ngân
hàng hoạt động kinh doanh xuất sắc của ngành. Cùng với sự chuyển biến của đất
nước, hoạt động của Ngân hàng Công thương Đống Đa cũng ngày càng phát triển,
khơng ngừng nâng cao uy tín, vị thế của Ngân hàng trong nền kinh doanh.
1.2.1.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của các phòng ban
a) Cơ cấu tổ chức:
Bộ máy tổ chức của Ngân hàng Cơng thương Đống Đa được bố trí thành
10 phịng ban:
Ban giám
đốc
Phịng thơng
tin điện
P. Tổ
chức
hành
chính
Phịng
kinh
doanh
Phịng
tiền
tệ
kho
Quỹ
tiết
kiệm
Phịng kiểm
sốt
Phịng
nguồn
vốn
Phịng
giao
dịch
Quỹ
tiết
kiệm
Phịng
KD
đối
ngoại
Phịng
tài
chính
kế
Quỹ
tiết
kiệm
b) Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban:
- Giám đốc và ban điều hành bao quát điều hành và ra các quyết định đối
với mọi hoạt động của Ngân hàng. Là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước, có trách nhiệm
chi tiết hố các văn bản chính sách tiền tệ của Đảng và Nhà nước, thực hiện các văn
bản đó phù hợp với thực thế.
- Phòng kinh doanh trực tiếp cho các tổ chức kinh tế trong và ngoài quốc
doanh vay tiền làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cân đối về nguồn sử dụng vốn,
thực hiện chế độ thông tin báo cáo tổng hợp, phân tích lỗ lãi của Ngân hàng.
- Phịng kinh doanh đối ngoại: Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, dịch
vụ quốc tế, mua bán ngoại tệ.
- Phịng kế tốn: Quản lý tài sản, tiền gửi, tiền vay của các đơn vị tổ chức
kinh doanh, thực hiện hạch tốn khơng dùng tiền mặt trong hệ thống Ngân hàng
công thương trên địa bàn Hà Nội và trong phạm vi cả nước. Thực hiện cơ chế tài
chính của ngành theo văn bản chế độ hiện hành ( thanh toán giao dịch với khách
hàng khi khách hàng đến mở tài khoản, kế toán cho vay, kế toán thanh toán, kế toán
chi tiêu, theo dõi các tài khoản khi đến hạn thì báo cho các phịng ban liên quan, thu
lãi định kỳ với khách hàng)
- Ngồi ra phịng kế tốn cịn có bộ phận quản lý, theo dõi hàng chục quỹ
tiết kiệm nằm rải rác trên địa bàn Quận nhằm thu hút khách hàng và huy động tiền
gửi tiết kiệm có và khơng có kỳ hành của mọi tổ chức kinh doanh, cá nhân trong và
ngồi nước.
- Phịng tiền tệ – kho quỹ: thực hiện thu chi tiền mặt, ngân phiếu, ngoại tệ
của các đơn vị, tổ chức kinh doanh và khách hành qua ngân hàng nhanh chóng kịp
thời chính xác, đầy đủ.
- Phịng thơng tin điện tốn: Tập hợp những số liệu phát sinh trong và
ngoài mạng, xử lý và lập báo cáo hạch tốn.
- Phịng tổ chức – hành chính: quản lý nhân sự, lao động tiền lương, quản
lý về hành chính, quản trị, đào tạo...
- Phịng nguồn vốn: thực hiện huy động vốn cả nội và ngoại tệ với hình
thức chủ yếu là gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh doanh, huy
động qua bán các giấy nợ như kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng.
- Phịng kiểm sốt: kiểm tra, kiểm sốt mọi nghiệp vụ Ngân hàng theo văn
bản hiện hành (kiểm soát mọi thủ tục về kinh doanh , kế toán, ngân quỹ, thanh tốn
trong Ngân hàng...)
Ngồi chức năng nhiệm vụ cụ thể của mình , giữa các phịng ban đều có
mối quan hệ hợp tác, bổ sung cho nhau. Điển hình là phịng kinh doanh và phịng kế
tốn, những thơng tin về khách hành địi hỏi phải có sự liên hệ chặt chẽ và thơng
báo cho nhau kịp thời.
1.2.2. Tình hình hoạt động của Ngân hàng trong năm 2000
1.2.2.1. Công tác duy động vốn:
Tính đến 31/12/2000 tổng nguồn vốn huy động (bao gồm cả VND và
ngoại tệ) đạt 1.850 tỷ đồng, tăng so với 31/12/1999 là 332 tỷ, tốc độ tăng 10,8%
trong đó:
-Tiền gửi VND đạt 1380 tỷ bằng 114% so với cuối năm 1999 tăng 168 tỷ
đồng, chiếm tỷ trọng 75% tổng nguồn vốn.
- Tiền gửi ngoại tệ ( quy đổi) đạt 470 tỷ đồng, bằng 152% so với cuối năm
1999, chiếm tỷ trọng 25% tổng nguồn vốn , tăng 160 tỷ đồng.
- Tiền gửi doanh nghiệp đạt 650 tỷ đồng, bằng 104% so với cuối năm
1999, tăng 22 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 35% tổng nguồn vốn.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư đạt 1200tỷ, bằng 104% so với cuối năm
1999, tăng 47 tỷ, chiếm tỷ trọng 65% tổng nguồn vốn.
Đạt được kết quả trên đây là do:
- Mạng lưới huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư được mở rộng, có 14
quỹ tiết kiệm trên địa bàn đơng dân cư, có nhiều quỹ đạt số dư từ 100 tỷ đén 150 tỷ,
mặc dù lưu lượng khách rất đông nhưng các quỹ tiết kiệm vẫn đảm bảo thu chi kịp
thời, chính xác.
- Tổ chức thu lưu động ở các đơn vị có tiền mặt lớn như: thường xuyên có
một tổ thu tiền mặt tại Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu, tổ chức thu nhận tiền mặt vào
ngày nghỉ thứ 7 cho các đơn vị có nguồn tiền mặt lớn, tạo được tâm lý yên tâm và
tin tưởng gửi tiền vào Ngân hàng đáp ứng nhu cầu mở tài khoản của khách hàng
được giải quyết nhanh chóng kịp thời.
Năm 2000 nguồn vốn của chi nhánh không ngừng tăng trưởng đáng kể là
tiền gửi của một số doanh nghiệp mới mở tài khoản có hoạt độnghoạt động lớn.
Tiền gửi doanh nghiệp tăng 14% so với năm trước, chiếm tỷ trọng 35% tỏng nguồn
vốn (năm 1999 tỷ lệ này là 22%).Do vậy đã có sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn có
lợi thế cho hoạt động kinh doanh. Trong khi đó, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm dân cư
năm 1999 là 75%, năm nay chỉ còn 65%, giảm 10%. Nguồn vốn và sử dụng vón
tăng lên đáng kể. Nhưng nguồn vốn mới sử dụng hết 55% tổng số vốn, trừ tỷ lệ ký
quỹ còn lại được chuyển về Ngân hàng Cơng thương Việt Nam để điều hồ trong hệ
thống, nhưng do lãi suất điều hoà vốn giảm thấp, mặt khác tiền gửi tiết kiệm phần
lớn là tiền gửi có kỳ hạn, lãi suất cao nên bất lợi cho kinh doanh tiền tệ cho Chi
nhánh, nhất là trong điều kiện cạnh tranh và phát triển.
1.2.2.2. Đầu tư vốn tín dụng:
Doanh số cho vay cả năm 2000 đạt 1.410 tỷ, doanh số thu nợ đạt 1060 tỷ
đồng. Tính đến 31/12/2000 số khách hàng có quan hệ tín dụng là 167 khách hàng,
trong đó có 89 đơn vị quốc doanh. Dư nợ đến 31/12/2000 đạt 950tỷ, bằng 135,7%
so với 31/12/1999 tăng 250 tỷ đồng, so với kế hoạch Ngân hàng công thương Việt
Nam giao vượt 19%, trong đó:
- Dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 550 tỷ đồng, bằng 95,8% so với cuối năm
1999, chiếm tỷ trọng 58% tổng số dư nợ.
- Dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 400 tỷ đạt 317,4% so với cuối năm
1999, tăng 274 tỷ, chiếm tỷ trọng 42% tổng dư nợ.
Sử dụng vốn
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
1. Doanh số cho vay
1427
1850
1120
1410
Ngắn hạn
1402
1730
1070
1160
70
120
50
250
1. Doanh số thu nợ
1404
1565
1230
1060
Ngắn hạn
1351
1465
1211
1036
Dài hạn
53
100
19
24
3. Dư nợ
525
810
700
950
Ngắn hạn
450
715
574
550
Dài hạn
75
95
126
400
Dài hạn
Riêng dư nợ ngoại tệ đạt 360 tỷ (quy VND) bằng 310,3% so với cuối năm
1999, chiếm tỷ trọng 35,9%.
Dư nợ kinh tế quốc doanh đạt 800 tỷ bằng 240% so với cuối năm 1999
chiếm tỷ trọng 84% tổng dư nợ