Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

TIỂU LUẬN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC đề tài Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.31 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

MÃ ĐỀ: 10

TIỂU LUẬN MÔN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Tên đề tài: Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay

Họ và tên: Nguyễn Đức Minh
Mã sinh viên: 20810310439
Lớp: D15QTANM

Hà Nội, 10/2021


Mục lục
Mở đầu………………………………………………………………………………...1
I. Cơ sở lý luận…………………………………………………………………....…..2
1. Quan niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam…………………...2
2. Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam………...………3
II. Vận dụng…………………………………………………………………………...3
1. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta …………..3
2. Một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay ………………………………………………………………………6
Kết luận ………………………………………………………………………………
10
Tài liệu tham khảo

1




Mở đầu
Việt Nam là một đất nước có nền văn hiến lâu đời, nơi mà Nhà nước và pháp
luật cũng đã có từ ngàn xưa, nơi mà đạo đức, phong tục tập qn đóng vai trị rất quan
trọng trong việc điều tiết các quan hệ xã hội. Việc hình thành, xây dựng và phát triển
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là hồn tồn có cơ sở. Hiện nay đã có những tiền
đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, …, cho việc bắt đầu xây dựng một Nhà nước pháp
quyền, nhưng q trình đó khơng thể nóng vội, mà nó là sự nghiệp lâu dài của nhiều
thế hệ người Việt Nam. Vì vậy, em đã chọn đề tài: “Nhà nước pháp quyền và vấn đề
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” để nghiên cứu phần
nào và muốn hiều rõ hơn về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

1


I. Cơ sở lý luận
1. Quan niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Theo quan niệm chung, nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp luật,
nhà nước hướng tới những vấn đề phúc lợi cho mọi người, tạo điều kiện cho cá nhân
được tự do, bình đẳng, phát huy hết năng lực của mình. Trong hoạt động của nhà
nước pháp quyền, các cơ quan của nhà nước được phân quyền rõ ràng và được mọi
người chấp nhận trên nguyên tắc bình đẳng của các thế lực, giai cấp và tầng lớp trong
xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, cách tiếp cận và những đặc trưng về nhà nước pháp
quyền vẫn có những cách hiểu khác nhau. Song, từ những cách tiếp cận đó, nhà nước
pháp quyền được hiểu là nhà nước mà ở đó, tất cả mọi công dân đều được giáo dục
pháp luật và phải được hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật phải đảm bảo
tính nghiêm minh, trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phải có sự kiểm sốt
lẫn nhau, tất cả vì mục tiêu phục vụ nhân dân.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những nội dung khái quát liên quan đến nhà nước
pháp quyền: Đề cao vai trò tối thượng của Hiến pháp và pháp luật, đề cao quyền lợi
và nghĩa vụ của công dân, đảm bảo quyền con người, tổ chức bộ máy vừa đảm bảo
tập trung, thống nhất, vừa có sự phân cơng giữa các nhánh quyền lực, phân cấp quyền
hạn và trách nhiệm giữa các cấp chính quyền nhằm đảm bảo quyền dân chủ của nhân
dân, tránh lạm quyền. Nhà nước có mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân
dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có
cơ chế và biện pháp kiểm sốt, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng
quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Tổ chức và hoạt động
của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền
lực, có phân cơng, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung
ương.
Theo tiến trình của cơng cuộc đổi mới đất nước, nhận thức của Đảng ta về Nhà
nước pháp quyền ngày càng sáng tỏ. Với chủ trương: “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân”. Đảng ta xác định: Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ
chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Nhận thức điều đó là tiền đề để Đại hội XII của
Đảng làm rõ hơn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
2


2. Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, có thể thấy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam ở nước ta có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân.

Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của Hiến pháp và
pháp luật. Trong tất cả các hoạt động của xã hội, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng
để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng rõ ràng, có cơ chế
phối hợp nhịp nhàng và kiểm soát giữa các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, phù hợp với điều 4 Hiếp pháp năm 2013. Hoạt động của Nhà
nước được giám sát bởi nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” thông qua các tổ chức, các cá nhân được nhân dân ủy nhiệm.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trọng quyền
con người, coi con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển. Quyền dân chủ của
nhân dân được thực hành một cách rộng rãi, nhân dân có quyền bầu và bãi miễn
những đại biểu không xứng đáng”, đồng thời tăng cường thực hiện sự nghiêm minh
của pháp luật.
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân cơng, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, những bảo đảm
quyền lực là thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Như vậy, những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Việt
Nam chúng ta đang xây dựng đã thể hiện được các tinh thần cơ bản của một nhà nước
pháp quyền nói chung. Bên cạnh đó, có cịn thể hiện sự khác biệt so với các nhà nước
pháp quyền khác Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang bản chất
giai cấp cơng nhân, phục vụ lợi ích cho nhân dân, nhà nước là công cụ chủ yếu để
Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
II. Vận dụng
1. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
3


Quá trình xây dựng, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua (đặc biệt trong những năm đổi mới) đã

đưa lại nhiều kết quả tích cực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ III khoá VIII của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và các Văn kiện Đại hội Đảng khố IX, X đã khẳng
định cơng cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
những tiến bộ quan trọng:
Thứ nhất, nước ta đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ
bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hiến
pháp 1992 và nhiều Bộ luật, Luật, Pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp
lý để nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phịng... Đã có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây
dựng nhà nước và pháp luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ
chức hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ hai, nền ân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực.
Dân chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng
sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Dân
chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu các cơ quan dân cử, ở
chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, tại các cuộc thảo luận
của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật, trong hoạt động của báo chí...
Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trước hết là
của cơ quan hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá
trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã có bước đổi
mới, vừa bảo đảm tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm,
tính chủ động của các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước ta cũng đang bộc lộ
nhiều yếu kém:
Thứ nhất, bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh, tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu cịn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, hiệu lực quản lý,
điều hành chưa cao, kỷ cương xã hội cịn bị bng lỏng, làm giảm sút lòng tin của

nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta.
4


Thứ hai, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, chưa
phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị
trường. Đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí
và thất thốt nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp cịn có những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân cấp
trung ương
Địa phương còn một số mặt chưa cụ thể như về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức
bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ..., làm cho tình trạng tập trung quan
liêu cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn cịn tình trạng bng lỏng và bao
biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều
hành của bộ máy nhà nước.
Có nhiều nguyên nhân gây nên những yếu kém của hệ thống chính trị, của bộ
máy nhà nước, trong đó chủ yếu là:
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển
đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta cịn ít, có nhiều việc phải
vừa làm, vừa tìm tịi, rút kinh nghiệm.
Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ thể hoá nghị quyết của Đảng về xây dựng
nhà nước để có chủ trương kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn đổi
mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như tình trạng quan liêu,
lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy nhà nước, thiếu những biện
pháp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương kiên quyết, hợp lý và đủ mạnh để tạo
chuyển biến tích cực nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém.
Chưa kịp thời tổng kết thực tiễn và còn thiếu cơ sở khoa học khi quyết định một

số chủ trương về sắp xếp điều chỉnh tổ chức bộ máy ở trung ương và địa phương nên
khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế.
Các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm trong việc quán triệt và
tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, trong việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn, bảo
đảm sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động ở từng cơ quan, đơn vị.
5


Các đoàn thể quần chúng chưa chú trọng xây dựng các nội dung cụ thể, thiết
thực và đổi mới phương thức hoạt động để tổ chức vận động nhân dân phát huy quyền
làm chủ trong việc tham gia xây dựng chính quyền, giám sát hoạt động của cán bộ,
cơng chức nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, sống, làm việc theo hiến
pháp, pháp luật.
2. Một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay:
Có rất nhiều giải pháp để giải quyết vấn đề xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất, Xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân cơng rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà
nước. Giải pháp này xuất phát từ thực tế chúng ta còn lúng túng trong việc xác định
vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp. Mặt khác, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng đã tổng kết: “Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa được phát huy mạnh mẽ”.
Vì vậy, trong nội dung phương hướng, nhiệm vụ thứ 10 về tiếp tục xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII nhấn mạnh: “Xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”. Đây là nhiệm vụ, cũng là giải

pháp hết sức quan trọng, bởi thực hiện được giải pháp này thì chức năng của từng cơ
quan nhà nước sẽ rõ ràng, khơng chồng chéo, khơng bỏ sót, như vậy, hoạt động của
bộ máy nhà nước mới thống nhất và hiệu quả. Khi các chức năng lập pháp, hành pháp
và tư pháp được xác định rõ ràng thì việc phối hợp, kiểm sốt quyền lực mới hiệu quả,
tránh được tình trạng lạm quyền, lộng quyền, độc đốn hoặc bng lỏng quyền lực.
Tuy nhiên, quyền lực của Nhà nước Việt Nam là quyền lực của Nhân dân, do vậy
không thể dùng quyền lực của Nhân dân phân chia cho cơ quan, bộ phận nào của Nhà
nước. Quyền lực nhà nước của chúng ta về bản chất luôn là thống nhất.
Thứ hai là Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu
phát triển nhanh, bền vững. Giải pháp này cũng xuất phát từ thực tế việc xây dựng hệ
thống pháp luật còn chưa đầy đủ, thiếu kịp thời, nhiều điều luật thiếu tính khả thi. Nếu
6


thiếu cơ sở pháp lý, thiếu hệ thống pháp luật thì hoạt động quản lý nhà nước đối với
các lĩnh vực kinh tế, xã hội sẽ khó khăn, khơng hiệu quả. Do vậy, nhiệm vụ quan
trọng thứ hai trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, ổn định. Trong quá trình xây dựng pháp luật, phải lấy quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi
mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững làm mục tiêu. Đây vừa là
giải pháp, vừa là định hướng quan trọng trong xây dựng hệ thống pháp luật của Nhà
nước ta.
Thứ ba là tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội
thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân
chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội,
trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước

và giám sát tối cao. Để thực hiện được giải pháp này, chúng ta cần tiếp tục đổi mới,
nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hồn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm
đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê
chuẩn. thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân. Với Mặt trận Tổ quốc, cần thực hiện
tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đồn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Đối
với Nhân dân, phải thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Bên cạnh đó, chúng ta cần phải bảo
đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng
đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm đại biểu hoạt động ở các cơ quan hành pháp, tư
pháp.
Thứ tư là xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp
quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Để
thực hiện tốt giải pháp này ta cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ
theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa
lĩnh vực. Phát huy đầy đủ vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính
phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan
chấp hành của Quốc hội, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược,
7


quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích và đề xuất chính sách
dựa trên luận cứ khoa học và thực tiễn trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa
Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa
phương; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
Bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo,

tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành. Nâng cao chất lượng dịch vụ công;
tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo
đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả.
Thứ năm là tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại,
công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Để thực
hiện tốt giải pháp này ta cần đám bảo hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá
nhân. Bên cạnh đó, nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm
2045, trong đó có Chiến lược xây dựng pháp luật và cải cách tư pháp. Tiếp tục đổi
mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án
nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ
quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp. Giải quyết kịp thời, đúng pháp
luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu
quả với hoạt động tội phạm và vi phạm pháp luật. Trong đó tiếp tục: Thực hiện kiên
trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí.
Thứ sáu là tiếp tục hồn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa
bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định. Để
thực hiện điều này ta cần thực hiện tốt các giải pháp sau. Thực hiện và tổng kết việc
thí điểm chính quyền đơ thị nhằm xây dựng và vận hành các mơ hình quản trị chính
quyền đơ thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Bên cạnh đó, gắn kết
và đổi mới tổ chức, bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội ở các cấp. Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân
định rõ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ đạo của
ngân sách Trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương
Thứ bảy là tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất, năng
lực, uy tín, phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước. Tăng cường kỷ luật, kỷ
cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường, điều

kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển. Bên cạnh đó, phải có
cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ
dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám
8


đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
Cuối cùng phải có cơ chế sàng lọc thay thế kịp thời những người khơng hồn thành
nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật,
khơng cịn uy tín đối với Nhân dân.
Thứ tám là đảm bảo sự giám sát của người dân và quyền giám sát, phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội. Sự tham gia của Nhân dân
vào quản trị nhà nước không chỉ làm cho các quyết định của Nhà nước được ban hành
sát với thực tế, mà còn là cơ sở tăng cường sự minh bạch hoạt động của cơ quan nhà
nước và đội ngũ cán bộ, công chức trong quá trình thực thi cơng vụ. Vì vậy, cần đảm
bảo sự giám sát của người dân và quyền giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trên thực tế. Ngồi ra, cần phát huy vai trị của
báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng trong việc cung cấp thông tin về tổ
chức, hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, các cơ quan nhà nước nói riêng, tạo
diễn đàn tranh luận cho công chúng và tạo dư luận để thúc đẩy tiến trình, nội dung
minh bạch hóa hoạt động của bộ máy nhà nước.
Cuối cùng là gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp
luật. Để thực hiện tốt giải pháp này ta cần tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý
nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả
tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó,
ta cùng cần cải cách thủ tục hành chính, kiện tồn tổ chức, tinh giản hợp lý đầu mối,
bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế. Tích cực thúc đẩy xây dựng chính quyền điện
tử, tăng cường kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp,
giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp.


9


10


Kết luận
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang phải
đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Yêu cầu đặt ra là Đảng phải ln đảm bảo
được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin tưởng, sự cuốn
hút của Đảng đối với Nhân dân, tính hiệu quả trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của Nhân dân.

11


Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học
2. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN,
DO DÂN, VÌ DÂN (Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên cao cấp khối
Đảng, đoàn thể năm 2011)
3. Tạp chí tổ chức nhà nước



×