Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

luận văn: Các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh và hạ thấp giá thành sản phẩm của công ty cổ phần Giầy Hưng Yên pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.63 KB, 92 trang )

1





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI: “Các giải pháp nhằm tiết kiệm
chi phí sản xuất kinh doanh và hạ thấp
giá thành sản phẩm của công ty cổ phần
Giầy Hưng Yên.”













2

LỜI NÓI ĐẦU

Trong năm 2006 vừa qua đất nước ta có một sự kiện kinh tế quan trọng
thu hút sự quan tâm của mọi tầng lớp dân cư đặc biệt là các doanh nghiệp. Đó


là ta đã kết thúc vòng đàm phán song phương với Mỹ về việc gia nhập WTO.
Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với doanh nghiệp nhất là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp phải có những chiến lược mục tiêu gì
để tồn tại trong môi trường cạnh tranh gay gắt này khi hàng hoá của các nước
bạn vào nước ta cũng sẽ không bị đánh thuế?
Để tạo ra lợi nhuận, doanh nghiệp có hai cách lựa chọn: Một là tăng
doanh thu từ các nguồn. Theo cách này doanh nghiệp phải tăng giá bán các
thành phẩm, tăng lượng thành phẩm bán ra. Hai là
doanh nghiệp phải tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh nhằm giảm chi
phí sản xuất kinh doanh, từ đó hạ giá thành sản phẩm. Trên thực tế việc tăng
giá bán phụ thuộc vào các điều kiện khách quan trên thị trường. Doanh nghiệp
cũng không thể tăng giá bán quá nhiều. Như vậy doanh nghiệp sẽ mất khả
năng cạnh tranh, mất thị phần. Như vậy để tăng lợi nhuận doanh nghiệp cần
tiết kiệm chi phí tối đa mà vẫn tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Có thể nói
rằng chi phí và tiết kiệm chi phí trong sản xuất kinh doanh là một vấn đề quan
trọng hàng đầu, buộc mọi doanh nghiệp, mọi bộ phận trong doanh nghiệp
phải quan tâm. Để chiếm được một vị trí nhất định và đứng vững trên thị
trường thì các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần Giầy Hưng Yên
nói riêng phải không ngừng đổi mới, tự hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế cho
phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế củat Nhà nước. Với vai trò là một công cụ
đắc lực của quản lý kinh doanh, kế toán tài chính cũng phải đổi mới theo. Đặc
biệt việc đổi mới hoàn thiện công tác thực hiện chi phí sản xuất kinh doanh và
giá thành sản phẩm là yêu cầu cấp bách .
Nhận thức được ý nghĩa vấn đề trên , qua quá trinh thực tập tại công ty
TNHH Giầy Hưng Yên với quá trình tìm hiểu lý luận cũng như thực tiễn công
3

tác kế toán tài chính tại công ty được sự hướng dẫn nhiệt tình của TS. Lê Thị
Kim Nhung cùng với sự giúp đỡ của các anh chị trong phòng kế toán tài chính
của công ty Cổ phần Giầy Hưng Yên đã giúp em thực hiện bài chuyên đề với

đề tài: "Các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh và hạ
thấp giá thành sản phẩm của công ty cổ phần Giầy Hưng Yên. Em hy vọng
bài chuyên đề sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa tình hình tổ chức thực hiện chi
phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm làm cơ sở cho việc tăng
cường hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty.
Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 chương
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về chi phí sản xuất kinh doanh,
giá thành sản phẩm và các giải pháp tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh
trong doanh nghiệp sản xuất
Chương II: Tình hình sử dụng và quản lý chi phí sản xuất kinh doanh
tại công ty Cổ phần Giầy Hưng Yên
Chương III: Một số giải pháp tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh tại
công ty Cổ phần Giầy Hưng Yên.

4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHI PHÍ SẢN
XUẤT KINH DOANH, GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VÀ CÁC
GIẢI PHÁP NHẰM TIẾT KIỆM CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH
DOANH TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT.

I. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, PHẠM VI VÀ PHÂN LOẠI CHI PHÍ SẢN
XUẤT KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT.
1. Khái niệm, nội dung về chi phí trong doanh nghiệp sản xuất.
Hoạt động kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp sản xuất là tổ chức sản
xuất sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm đó trên thị trường nhằm thu được lợi nhuận. Để
tiến hành các hoạt động kinh tế, doanh nghiệp cần huy động và tổ chức sử dụng các
nguồn lực: vật tư, tiền vốn, lao động và các yếu tố liên quan khác phục vụ cho quá
trình sản xuất kinh doanh.

Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với quá
trình chi trả và tiêu phí các nguồn lực đó, tất cả các khoản chi trả và các phí tổn về
vật tư, tiền vốn, lao động và các yếu tố khác đã tiêu dùng cho hoạt động kinh tế
trong một thời kỳ nhất định được gọi là chi phí của doanh nghiệp.
Chi phí của doanh nghiệp phát sinh hàng ngày, hàng giờ đa dạng và phức tạp
phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm, quy mô các hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường do mọi yếu tố của quá trình sản
xuất kinh doanh đều được biểu hiện thông qua chỉ tiêu giá trị, nên có thể hiểu: “Chi
phí của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của các phí tổn về vật chất, về lao động
và tiền vốn liên quan phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định”.
Các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ trước hết là các khoản chi phí
huy động các yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình kinh doanh trong doanh nghiệp
như: trả lãi tiền vay, trả tiền thuê các tài sản Trong quá trình sản xuất sản phẩm
doanh nghiệp phải bỏ ra các chi phí về các loại vật tư, nguyên nhiên vật liệu, hao
5

mòn máy móc, thiết bị, nhà xưởng, các công cụ dụng cụ phục vụ cho quá trình sản
xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải trả lương cho
công nhân trực tiếp sản xuất.
Sau khi sản xuất sản phẩm doanh nghiệp tiến hành tiêu thụ sản phẩm đó trên
thị trường để thu lợi nhuận. Quá trình tiêu thụ cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ ra
những khoản chi phí nhất định bao gồm: chi phí bao gói sản phẩm, vận chuyển, bảo
quản sản phẩm. Đây gọi là chi phí tiêu thụ trực tiếp. Để giới thiệu rộng rãi sản phẩm
cho người tiêu dùng như hướng dẫn người tiêu dùng, điều tra khảo sát thị trường
nhằm có những quyết định đối với việc sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải bỏ
ra các chi phí về nghiên cứu thị trường, tiếp thị quảng cáo, giới thiệu sản phẩm hay
bảo hành sản phẩm. Đó gọi là chi phí tiêu thụ gián tiếp. Cả chi phí tiêu thụ gián tiếp
và chi phí tiêu thụ trực tiếp gọi chung là chi phí tiêu thụ hay chi phí lưu thông sản

phẩm.
Cuối cùng là chi phí liên quan đến quản lý doanh nghiệp như : chi phí quản
lý hành chính, quản lý kinh doanh, các khoản phí, lệ phí, thuế phải nộp ở khâu mua
hàng hoá, dịch vụ (không kể thuế giá trị gia tăng được khấu trừ đối với doanh
nghiệp nộp VAT theo phương pháp khấu trừ), chi phí sử dụng đất và chi phí khác.
Như vậy từ góc độ của doanh nghiệp chi phí bao gồm các bộ phận: chi phí
sản xuất sản phẩm, chi phí tiêu thụ sản phẩm và các chi phí khác liên quan đến các
hoạt động kinh tế của doanh nghiệp trong một thời kỳ cụ thể.
Chi phí trong kỳ của doanh nghiệp phát sinh hàng ngày, hàng giờ, đa dạng và
phức tạp tác động đến nhiều mặt hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Tuỳ thuộc
vào mục tiêu quản lý chi phí người ta có thể chia chi phí trong kỳ của doanh nghiệp
thành những bộ phận khác nhau.
- Theo loại hình hoạt động thì chi phí của doanh nghiệp bao gồm 2 bộ phận
cơ bản:
- Chi phí sản xuất kinh doanh (SXKD): chi phí SXKD mà biểu hiện bằng
tiền của các chi phí về vật chất, về lao động và về tiền vốn liên quan, phục vụ trực
tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động SXKD thông thường của doanh nghiệp trong một
thời kỳ nhất định. Đây là bộ phận chi phí gắn liền với quá trình mua bán hàng hoá,
cung cấp dịch vụ và hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Bộ phận chi phí này bao
6

gồm giá vốn của hàng hoá, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí
trả lãi tiền vay và các chi phí liên quan đến hoạt động sử dụng tài sản sinh lời khác
của doanh nghiệp trong kỳ… Đây là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi
phí của doanh nghiệp trong kỳ. Doanh nghiệp cần phải tổ chức quản lý tốt, phấn
đấu giảm chi phí, hạ thấp giá thành của sản phẩm để tăng sức cạnh tranh của doanh
nghiệp.
- Chi phí khác là các chi phí phát sinh ngoài các chi phí SXKD của doanh
nghiệp đã nêu ở trên như: chi phí về thanh lý nhượng bán tài sản cố định, các khoản
tiền phạt về vi phạm hợp đồng kinh tế, vi phạm luật…. Đây là những khoản chi phí

phát sinh không thường xuyên trong kỳ, doanh nghiệp khó có thể lượng hoá được.
Tuy vậy doanh nghiệp cũng cần phải quản lý tốt bộ phận này nhằm giảm chi phí cần
thiết để tăng cường lợi nhuận cho doanh nghiệp.

2. Phạm vi của chi phí sản xuất kinh doanh :
* Ý nghĩa của việc xác định phạm vi chi phí SXKD:
Chi phí SXKD là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí của một
kỳ hạch toán của doanh nghiệp phục vụ hoạt động SXKD của doanh nghiệp trong
thời kỳ đó. Xác định đúng đắn phạm vi chi phí SXKD của doanh nghiệp có ý nghĩa
quan trọng không chỉ với công tác tài chính của doanh nghiệp mà còn đối với công
tác quản lý Nhà nước về kinh tế.
- Đối với doanh nghiệp: Việc xác định đúng phạm vi chi phí SXKD là căn cứ
quan trọng để doanh nghiệp tiến hành công tác kế hoạch hoá chi phí, tập hợp và
hạch toán các chi phí phát sinh trong kỳ vào tổng chi phí SXKD một cách chính
xác, trên cơ sở đó xác định lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính khác như:
+ Làm cơ sở để tập hợp các chi phí phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp
thương mại vào giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã thực hiện ở kỳ, trên cơ sở
đó tính toán sự phải bù đắp, tính toán đúng đắn lợi nhuận và kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
+ Làm cơ sở để xác định giá bán cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại để
mở rộng doanh thu, tăng sức cạnh tranh của mình trên thị trường. Mặt khác xác định
đúng đắn phạm vi chi phí SXKD còn là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp tiến
7

hành kiểm tra, phân tích, đánh giá công tác quản lý chi phí, tìm ra được giải pháp
tốt nhất nhằm tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Đối với Nhà nước: Phạm vi chi phí SXKD là cơ sở để Nhà nước kiểm tra,
thanh tra hoạt động của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế nói chung và các
doanh nghiệp nói riêng, xác định đúng đắn nghĩa vụ tài chính và đảm bảo quyền
bình đẳng của các doanh nghiệp đó là: thuế thu nhập doanh nghiệp, tránh thất thu

thuế cho Nhà nước. Về nguyên tắc chi phí SXKD được ghi nhận trong báo cáo kết
quả hoạt động SXKD khi các khoản này làm giảm bớt lợi ích kinh tế trong tương lai
có liên quan đến việc giảm bớt tài sản hoặc tăng nợ phải trả và chi phí này xác định
một cách đáng tin cậy.
* Xác định phạm vi chi phí SXKD:
Yêu cầu cơ bản nhất của việc xác định đúng đắn phạm vi chi phí SXKD là
phải tập hợp đầy đủ, chính xác, kịp thời các chi phí phát sinh trong kỳ liên quan đến
hoạt động SXKD thông thường vào chi phí SXKD của doanh nghiệp ở kỳ đó. Về
nguyên tắc chi phí SXKD được bù đắp doanh thu của doanh nghiệp trong kỳ nên
mọi chi phí phát sinh trong kỳ không được bù đắp từ doanh thu của kỳ đó đều
không thuộc vào chi phí SXKD.
Các chi phí phát sinh trong kỳ thuộc vào chi phí SXKD trong kỳ bao gồm:
- Chi phí về vật tư (nguyên liệu, vật liệu, động lực…) biểu hiện bằng tiền của
nguyên, vật liệu, động lực đã sử dụng vào hoạt động SXKD thông thường của
doanh nghiệp trong kỳ.
- Chi phí tiền lương bao gồm: toàn bộ tiền lương, tiền công và các khoản chi
phí có tính chất lương trả cho nguồn lao động.
- Các khoản trích nộp theo quy định hiện hành của Nhà nước như: Bảo hiểm
xã hội, Bảo hiểm y tế, Chi phí công đoàn.
- Khấu hao tài sản cố định: đó là số tiền trích khấu hao tài sản cố định của
doanh nghiệp được tính vào chi phí SXKD của doanh nghiệp ở kỳ hạch toán.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là các chi phí phải trả cho các tổ chức, các nhân
bên ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ mà họ cung cấp theo yêu của doanh nghiệp
như: chi phí vận chuyển, tiền điện, tiền nước, chi phí kiểm toán, quảng cáo, hoa
hồng đại lý, môi giới, uỷ thác…
8

- Chi phí bằng tiền khác như: thuế môn bài, thuế tài nguyên, chi phí tiếp tân,
hội họp, đi nước ngoài.
- Chi phí dự phòng: là các khoản trích dự phòng giảm giá vật tư, hàng hoá,

nợ khó đòi được hạch toán vào chi phí trong kỳ của doanh nghiệp theo quy định.
- Chi phí phát sinh từ các hoạt động tài chính như: chi phí trả lãi tiền vay,
thuê tài sản, mua bán chứng khoán, liên doanh liên kết, chiết khấu thanh toán trả
cho người mua khi họ thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ trước hạn và các chi phí
hoạt động tài chính khác.
Các chi phí không thuộc phạm vi chi phí SXKD của doanh nghiệp bao gồm:
- Chi phí đầu tư dài hạn của doanh nghiệp như: chi phí xây dựng cơ bản, mua
sắm tài sản cố định, đào tạo dài hạn, nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, nâng
cấp tài sản cố định, nhóm chi này được bù đắp từ nguồn vốn đầu tư dài hạn của
doanh nghiệp, nên không phải là chi phí của doanh nghiệp trong kỳ
- Chi phí phúc lợi xã hội: Chi phí phục vụ văn hoá thể thao, y tế vệ sinh, tiền
thưởng, ủng hộ nhân đạo …Những khoản chi này được bù đắp từ nguồn vốn chuyên
dùng vào các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp nên cũng không phải là chi phí
của doanh nghiệp
- Các khoản tiền phạt do vi phạm luật, nếu do cá nhân hay tập thể gây ra thì
người đó phải nộp phạt, phần còn lại phải lấy từ lợi nhuận sau thuế để bù đắp
- Các khoản chi vượt định mức cho phép theo quy định của pháp luật như chi
phí giao dịch, tiếp khách vượt mức quy định, …
3.Phân loại chi phí SXKD
Phân loại chi phí SXKD phù hợp với đặc điểm tình hình SXKD là mục
tiêu quản lý kinh tế của doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được xu
hướng hình thành kết cấu chi phi SXKD trong từng thời kỳ khác nhau đồng thời là
cơ sở cho công tác kế hoạch hoá, kiểm tra, phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế
hoạch chi phi SXKD của doanh nghiệp. Nhờ đó mà tìm ra được các biện pháp tốt
nhất cho doanh nghiệp
Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh, các tiêu chuẩn kinh doanh khác nhau và
mục tiêu quản lý chi phí SXKD khác nhau trên thực tế cũng như trên lý thuyết có
nhiều phương phân loại chi phí khác nhau
9


Đối với doanh nghiệp sản xuất có thể phân loại chi phí SXKD theo các tiêu
chí sau:

3.1. Phân loại chi phí SXKD
Theo tính chất các khoản chi phí phát sinh, chi phí SXKD của doanh nghiệp
trong kỳ bao gồm:
+Tiền lương, tiền công, phụ cấp lương… trả cho người lao động
+Tiền trả về cung cấp dịch vụ, lao vụ cho các ngành kinh tế khác như: Cước
phí vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá, tiền thuê kho bãi, điện thoại , nước, lãi vay trả
cho các tổ chức tín dụng
+ Hao phí vật tư, tài sản: chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí nguyên vật
liệu, …
+Hao hụt tự nhiên của hàng hoá: là các chi phí biểu hiện giá trị của vật tư
hàng hoá bị hao hụt do điều kiện tự nhiên gây ra trong quá trình vận chuyển, bảo
quản và tiêu thụ
+Chi phí khác bao gồm: chi phí giao dịch, hội họp tiếp khách, đồ dùng văn
phòng…
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp theo dõi và quản lý các khoản mục chi
phí theo tính chất của chi phí tạo điều kiện tốt cho quá trình kiểm soát từng bộ phận
chi phí cho doanh nghiệp
3.2 Căn cứ vào các khâu kinh doanh của doanh nghiệp
Chi phí SXKD của doanh nghiệp được chia làm các bộ phận chủ yếu sau:
+ Chi phí phát sinh ở khâu mua hàng hoá, dịnh vụ bao gồm các chi phí như:
Trị giá mua của hàng hoá, dịch vụ mua vào, các khoản phí , lệ phí, thuế phát sinh ở
khâu mua, chi phí vận chuyển từ nơi mua hàng đến kho của doanh nghiệp và các chi
phí khác có liên quan tính đến thời điểm đưa hàng hoá vào nhập kho của doanh
nghiệp. Toàn bộ những chi phí này hình thành nên giá vốn của hàng hoá nhập kho
+ Chi phí ở khâu dự trự: Là các chi phí phát sinh liên quan đến quá trình tổ
chức dự trữ hàng hoá trong kỳ của doanh nghiệp như: Bao bì , vật liệu đóng gói,
khấu hao tài sản cố định phục vụ công tác dự trữ hàng hoá, lương của công nhân

viên quản lý kho và các chi phí bằng tiền khác phát sinh ở khâu dự trữ hàng hoá
10

+ Chi phí ở khâu tiêu thụ hàng hoá: Là các chi phí phát sinh liên quan đến
quá trình tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ trong kỳ như chi phí về vật chất tiền
lương của nhân viên bán hàng, khấu hao tài sản cố định, chi phí vận chuyển hàng
hoá từ kho của doanh nghiệp đến tay người tiêu dùng, chi phí quảng cáo, giới thiệu
sản phẩm, chi phí bảo hành, các chi phí dịch vụ mua ngoài khác như chi phí sửa
chữa tài sản thuê ngoài, hoa hồng đại lý, uỷ thác và các chi phí khác phát sinh ở
khâu tiêu thụ đã nêu ở trên
Phân loại chi phí theo khâu kinh doanh giúp doanh nghiệp quản lý chi phí
phát sinh theo từng khâu kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở đó mà tiết kiệm
được chi phí, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp
3.3 Căn cứ vào cơ chế quản lý tài chính và chế độ hạch toán hiện hành, chi phí
SXKD của doanh nghiệp
Cơ chế quản lý tài chính và chế độ hạch toán hiện hành, chi phí SXKD của
doanh nghiệp trong kỳ được chia thành các khoản mục chi phí sau:
- Chi phí mua hàng hoá: Là những chi phí phát sinh liên quan đến số lượng
hàng hoá mua vào nhập kho để bán của doanh nghiệp trong kỳ, thuộc nhóm này bao
gồm trị giá mua của hàng hoá và chi phí khác liên quan ở khâu mua hàng như: phí
vận chuyển, bốc dỡ, tiền thuê kho bãi, thuế, lệ phí, chi phí bảo hiểm hàng hoá,
lương cán bộ chuyên trách ở khâu mua
Chi phí mua hàng hoá phát sinh đối với hàng hoá đã tiêu thụ trong kỳ của
doanh nghiệp gọi là giá vốn hàng hoá đã tiêu thụ.
- Chi phí bán hàng là toàn bộ những chi phí phát sinh từ hoạt động phục vụ
bán hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trong kỳ như:
+ Chi phí về vật tư (nguyên, nhiên vật liệu) phục vụ quá trình sản xuất, dự
trữ, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp trong kỳ.
+ Chi phí dụng cụ, đồ dùng phục vụ quá trình tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ như:
dụng cụ đồ dùng, phương tiện làm, phương tiện tính toán…

+ Chi phí khấu hao tài sản cố định ở bộ phận bảo quản và tiêu thụ hàng hoá
như: kho tàng, cửa hàng, phương tiện vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá.
11

+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: chi phí sửa chữa tài sản cố định thuê ngoài, tiền
thuê kho bãi, vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá để tiêu thụ, hoa hồng đại lý bán hàng,
hoa hồng uỷ thác xuất khẩu.
+ Các chi phí khác.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp là tất cả các chi phí phát sinh ở bộ máy quản
lý chung của doanh nghiệp bao gồm:
+ Chi phí nhân viên quản lý.
+ Chi phí đồ dùng văn phòng.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định ở bộ phận quản lý doanh nghiệp.
+ Thuế, phí, lệ phí.
+ Chi phí bằng tiền khác.
Chi phí quản lý doanh nghiệp là bộ phận chi phí gián tiếp của chi phí SXKD.
Tỷ trọng của bộ phận này trong tổng chi phí SXKD của doanh nghiệp phụ thuộc
vào đặc điểm hoạt động SXKD và trình độ tổ chức quản lý hoạt động SXKD của
doanh nghiệp.
- Chi phí hoạt động tài chính: là các chi phí phát sinh có liên quan và phục vụ
cho việc đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp tổ chức tốt quá trình hạch toán chi phí
của doanh nghiệp phù hợp với chế độ hạch toán kế toán và kiểm toán hiện hành của
Nhà nước, thuận lợi cho việc kiểm soát chi phí phát sinh ở từng khâu SXKD của
doanh nghiệp trong kỳ, tính toán các chỉ tiêu tài chính quan trọng được dễ dàng,
phát hiện được ưu, nhược điểm của công tác quản lý chi phí trong từng khâu kinh
doanh và bộ phận chi phí hoạt động tài chính riêng biệt.
3.4. Phân loại chi phí SXKD theo tính chất biến đổi của chi phí so với sự biến đổi
của doanh thu.
Chi phí SXKD của doanh nghiệp được chia thành 2 loại:

- Chi phí cố định là bộ phận chi phí phát sinh trong kỳ không thay đổi khi
doanh thu thay đổi, bắt buộc doanh nghiệp phải thanh toán, thậm chí cả khi doanh
nghiệp không có doanh thu trong kỳ. Thuộc loại này bao gồm: chi phí thuê văn
phòng, máy móc, thiết bị, lãi vay phải trả, lương cán bộ gián tiếp, khấu hao
TSCĐ…
12

- Chi phí biến đổi là những chi phí thay đổi khi doanh thu của doanh nghiệp
thay đổi như:
+ Chi phí nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm.
+ Chi phí bao bì, vật liệu đóng gói.
+ Lương trả theo sản phẩm.
Theo định nghĩa thì chi phí biến đổi bắt đầu bằng số 0 khi doanh thu bằng 0
và nó sẽ tăng lên khi doanh thu tăng lên. Điều đáng chú ý là tổng chi phí bằng chi
phí cố định + chi phí biến đổi, nên mức tăng của tổng chi phí SXKD khi doanh thu
tăng lên đúng bằng mức tăng của chi phí biến đổi (vì chi phí cố định không thay
đổi). Điều này rất quan trọng đối với việc ra quyết định sản xuất, quyết định đầu tư
của doanh nghiệp.
Ngoài những cách phân loại như trên, có thể tiến hành phân loại chi phí
SXKD theo những tiêu thức khác như: phân loại chi phí SXKD thành chi phí trực
tiếp, chi phí gián tiếp; chi phí định mức, chi phí thực tế, chi phí theo nhóm mặt hàng
hoá kinh doanh.
Phân loại chi phí SXKD có ý nghĩa lớn đối với việc quản lý chi phí tăng hiệu
quả sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp, tiết kiệm chi phí SXKD, tăng được
lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phân loại chi phí SXKD phù
hợp với mục tiêu quản lý và đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, còn
giúp doanh nghiệp hình thành được kết cấu chi phí tối ưu, phục vụ tốt công tác kế
hoạch hoá chi phí SXKD của doanh nghiệp.
II. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM:
Nghiên cứu chi phí cho ta biết được tổng chi phí của doanh nghiệp trong một

thời kỳ hạch toán cụ thể, từ đó tính được lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ. Tuy
nhiên lại không cho ta biết chi phí cho từng loại sản phẩm, dịch vụ cụ thể của doanh
nghiệp. Những điều này rất quan trọng đối với các quyết định đầu tư, quyết định lựa
chọn mặt hàng kinh doanh, lựa chọn chiến lược bán hàng của doanh nghiệp. Nhằm
phát huy mọi tiềm năng của doanh nghiệp, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho
doanh nghiệp, một chỉ tiêu tài chính quan trọng có cùng bản chất với chỉ tiêu chi phí
sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết được những vấn đề trên, đó là chỉ tiêu giá thành sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
13

1. Khái niệm giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp là toàn bộ chi phí mà doanh
nghiệp đã bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm
dịch vụ nhất định.
Giá thành sản phẩm, dịch vụ (gọi tắt là giá thành) của doanh nghiệp thể hiện
chi phí cá biệt của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại
sản phẩm , dịch vụ cụ thể.
Cùng một loại sản phẩm, dịch vụ giống nhau doanh nghiệp nào có trình độ tổ
chức quản lý SXKD tốt hơn, sử dụng trình độ công nghệ cao hơn thì giá thành của
doanh nghiệp đó thấp hơn. Nghĩa là giá thành phản ánh chất lượng và trình độ
SXKD của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra gay gắt doanh nghiệp nào có
chất lượng hàng hoá tốt hơn, giá thành thấp hơn sẽ có sức cạnh tranh cao hơn và
chiếm được thị phần cao hơn, đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển tốt, ngược lại
thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, thậm chí dẫn đến phá sản. Do giá thành được
định nghĩa từ khái niệm chi phí, nên giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau,
đồng thời cũng có sự khác nhau về quan điểm xem xét trong mối quan hệ với các
yếu tố khác nhau của quá trình SXKD trong doanh nghiệp.
- Giá thành và chi phí đều được biểu hiện bằng tiền của các phí tổn về nguồn
lực của doanh nghiệp trong quá trình SXKD. Tuy nhiên giá thành chỉ biểu hiện phí

tổn của nguồn lực đã tiêu dùng để hoàn thành việc sản xuất hoặc tiêu thụ một khối
lượng sản phẩm, dịch vụ nhất định, trong khi chi phí lại biểu hiện phí tổn của nguồn
lực trong một thời kỳ hạch toán của doanh nghiệp bao gồm cả các chi phí liên quan
đến hàng hoá tồn kho đầu kỳ, cuối kỳ của doanh nghiệp.
- Chi phí của doanh nghiệp trong kỳ là cơ sở để tập hợp, tính giá thành của
sản phẩm, dịch vụ, sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí của doanh nghiệp ảnh hưởng
trực tiếp đến giá thành. Vì vậy quản lý giá thành luôn luôn gắn với quản lý chi phí
của doanh nghiệp.
2. Phân loại giá thành sản phẩm.
Giá thành của doanh nghiệp được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Để
nâng cao hiệu quả công tác quản lý giá thành cần thiết phải phân loại giá thành:
14

2.1. Phân loại giá thành theo các giai đoạn của quá trình SXKD trong doanh
nghiệp.
Giá thành có hai loại:
* Giá thành sản xuất sản phẩm:
- Giá thành sản xuất sản phẩm là toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn
thành việc sản xuất một khối lượng sản phẩm nhất định. Giá thành sản xuất sản
phẩm có thể được tính cho một đơn vị sản phẩm hoàn thành hoặc cho một khối
lượng sản phẩm đã hoàn thành.
- Giá thành đơn vị sản xuất là toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn
thành việc sản xuất một đơn vị sản phẩm cụ thể.
- Giá thành sản xuất sản phẩm bao gồm:
+ Chi phí nhân công trực tiếp và chi phí nguyên vật liệu trực tiếp như: chi
phí tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp có tính chất lương trả cho công nhân
trực tiếp sản xuất ra sản phẩm đó, các nguyên nhiên liệu, vật liệu sử dụng trực tiếp
để tạo ra sản phẩm đó.
+ Chi phí sản xuất chung là các chi phí chung phát sinh ở phân xưởng, bộ
phận sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp như: tiền lương và phụ cấp có tính chất

lương, chi phí về vật liệu, công cụ, dụng cụ dùng cho sản xuất, chi phí khấu hao
TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác liên quan đến bộ phận sản
xuất sản phẩm.
* Giá thành toàn bộ của sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ:
Giá thành toàn bộ của sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ bao gồm:
- Giá thành sản xuất.
- Chi phí bán hàng.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp.
+ Chi phí bán hàng là toàn bộ các chi phí phát sinh từ hoạt động tiêu thụ sản
phẩm, dịch vụ (kể cả chi phí bảo hành sản phẩm).
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp là toàn bộ các chi phí phục vụ bộ máy quản
lý điều khiển doanh nghiệp và các chi phí khác liên quan đến quản lý doanh nghiệp.
Giá thành toàn bộ của doanh nghiệp được tính cho một đơn vị sản phẩm,
dịch vụ đã tiêu thụ được gọi là giá thành đơn vị của sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ.
15

2.2. Theo nguồn gốc số liệu chi phí để tổng hợp giá thành.
Giá thành sản phẩm, dịch vụ bao gồm ba loại:
- Giá thành định mức: là giá thành sản phẩm, dịch vụ được tổng hợp căn cứ
vào các định mức chi phí hiện hành do doanh nghiệp hoặc cơ quan quản lý quyết
định. Nó là một công cụ quan trọng giúp doanh nghiệp quản lý giá thành của mình
đạt được mục tiêu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp.
- Giá thành kế hoạch: được tính căn cứ vào kế hoạch doanh thu, kế hoạch sản
lượng và kế hoạch chi phí SXKD của doanh nghiệp. Giá thành kế hoạch là một
công cụ quan trọng để doanh nghiệp kiểm tra quá trình thực hiện kế hoạch giá thành
của mình.
- Giá thành thực tế: là loại giá thành được tập hợp tính toán căn cứ vào số
liệu phát sinh thực tế về chi phí SXKD trong kỳ của doanh nghiệp và số lượng thực
tế sản phẩm, dịch vụ để thực hiện được trong kỳ của doanh nghiệp đó. Giá thành

thực tế được sử dụng để phân tích, so sánh, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch
giá thành của doanh nghiệp trong kỳ hạch toán cụ thể, làm cơ sở cho việc hoạch
định chính sách tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Phương pháp xác định giá thành sản phẩm.
2.3. Xác định giá thành sản xuất của sản phẩm.
Có nhiều phương pháp khác nhau để tính giá thành của doanh nghiệp. Dưới
đây là một số phương pháp thường được sử dụng tại các doanh nghiệp để tính giá
thành sản xuất của sản phẩm.
* Phương pháp trực tiếp (giản đơn):
Theo phương pháp này thì giá thành sản xuất của một loại sản phẩm nhất
định được xác định như sau:



Giá thành đơn vị
sản xuất
=
Tổng giá thành sản xuất sản phẩm trong kỳ
Tổng số lượng sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ

Tổng giá thnh
sản xuất sản
phẩm trong kỳ
Giá trị sản phẩm
dở dang cuối kỳ
Giá trị sản phẩm
dở dang đầu kỳ
Chi phí sản xuất
phát sinh trong kỳ
= + -

16

Phạm vi áp dụng: phương pháp này được áp dụng tại các doanh nghiệp vừa
và nhỏ hoặc số lượng mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp là ít như: nhà máy
điện, nước, khai thác khoáng sản
* Phương pháp tổng cộng chi phí
Theo phương pháp này giá thành sản xuất sản phẩm được tính bằng cách
tổng cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, các chi tiết khác nhau của bộ phận đó,
hoặc tổng cộng chi phí sản xuất của các giai đoạn, các bộ phận sản xuất cùng tạo ra
sản phẩm đó
Phương pháp này được áp dụng tại các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm
được thực hiện theo các công đoạn khác nhau, theo nhừng chi tiết, bộ phận của sản
phẩm
* Phương pháp hệ số
Theo phương pháp này, trước hết kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi sản phẩm
gốc để đưa toàn bộ các loại sản phẩm gốc (hay quy đổi)
Theo công thức sau
Tổng sản phẩm gốc
(đã hoàn thành)
=

i=1
n
Qi-Ki
Trong đó:
Qi: Số lượng sản phẩm loại i đã hoàn thành
Ki: Hệ số quy đổi sản phẩm loại i thành sản phẩm gốc, hệ số này do doanh
nghiệp quy định căn cứ vào đặc điểm tính chất của các loại sản phẩm mà doanh
nghiệp kinh doanh
Bước tiếp theo:

Tính giá thành đơn vị sản phẩm gốc: (Zđv)

Z
đv
=
Tổng chi phí sản xuất các loại sản phẩm
Tổng sản phẩm quy đổi (gốc)

Tổng chi phí sản xuất
của các loại sản phẩm
(hoàn thành)
=
Giá trị sản phẩm
dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất
sản phẩm phát sinh
thực tế trong kỳ
-
Giá trị sản phẩm
dở dang cuối kỳ


Cuối cùng tính giá thành đơn vị của từng loại sản phẩm i theo công thức
Zi = Zđv x Ki
17

Trong đó: Zi là giá thành đơn vị của sản phẩm i
Phạm vi ứng dụng: Phương pháp này được áp dụng khi doanh nghiệp có
nhiều đối tượng tính giá thành nhưng lại có cùng một công nghệ sản xuất và cùng

một loại nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu đầu vào, do đó đối tượng hạch toán chi phí
sản xuất trong trường hợp này là toàn bộ chi phí sản xuất sản phẩm của doanh
nghiệp đó, không phân biệt sản phẩm nào
* Phương pháp tỉ lệ (tính giá thành sản xuất của sản phẩm)
Nội dung của phương pháp này như sau:
-Trước hết doanh nghiệp phải xây dựng chỉ tiêu giá thành kế hoạch cho từng
loại sản phẩm cụ thể của mình
-Căn cứ vào tổng giá thành thực tế và tổng giá thành kế hoạch tính theo số
lượng sản phẩm thực tế đã hoàn thành để tính tỷ lệ điều chỉnh giá thành theo công
thức
Tỷ lệ điều chỉnh
giá thành
=
Tổng giá thành thực tế

Tổng giá thành kế hoạch
với sản lượng thực tế
x 100%
Cuối cùng là:
Giá thành sản xuất thực tế
của sản phẩm loại i
=
Giá thành kế hoạch
sản phẩm loại i
x
Tỷ lệ điều chỉnh
giá thành

Điều kiện áp dụng: Phương pháp này được áp dụng khi doanh nghiệp xây
dựng được kế hoạch giá thành đơn vị sản phẩm cho từng loại sản phẩm của mình

* Phương pháp loại trừ
Phương pháp này được áp dụng khi doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản
xuất vừa chế tạo sản phẩm chính vừa chế tạo sản phẩm phụ, nhưng doanh nghiệp
chỉ tính giá thành sản phẩm chính, vì vậy phải loại trừ giá trị của sản phẩm phụ
Cách tính như sau:
Tổng giá thành
sản phẩm chính
đầu kỳ
=
Giá trị
sản phẩm dở dang
trong kỳ
+
Tổng chi phí
sản xuất thực tế
phát sinh
-
Giá trị sản phẩm
dở dang cuối kỳ
-
Giá trị
sản phẩm phụ


Trong đó giá trị sản phẩm phụ có thể tính theo giá bán kế hoạch hoặc giá bán
thực tế
* Phương pháp liên hợp
18

Là phương pháp tính giá thành bằng cách kết hợp các phương pháp tính giá

thành đã nêu ở trên. Phương pháp này được áp dụng tại các doanh nghiệp có tổ
chức sản xuất kinh doanh phức tạp, kinh doanh nhiều loại sản phẩm, dịch vụ khác
nhau, trên một quy mô lớn, đòi hỏi phải tính giá thành sản phẩm cho nhiều loại sản
phẩm dịch vụ khác nhau với những quy trình công nghệ độc lập
3.Tính giá thành toàn bộ của sản phẩm đã tiêu thụ
Để tính giá thành toàn bộ của sản phẩm đã tiêu thụ sử dụng các công thức
sau:
Giá thành toàn bộ
của sản phẩm
đã tiêu thụ
=
Giá thành
sản xuất
của sản phẩm
+
Chi phí
bán hàng
của sản phẩm
+
Chi phí
quản lý doanh nghiệp
của sản phẩm

Trong đó:
-Giá thành sản xuất của sản phẩm được tính theo một trong các phương pháp
đã nêu ở trên
-Chi phí bán hàng của sản phẩm là: bộ phận chi phí bán hàng đã phân bổ cho
khối lượng sản phẩm đã tiêu thụ tương ứng
-Chi phí quản lý doanh nghiệp của sản phẩm:là bộ phận chi phí quản lý phân
bổ cho khối lượng sản phẩm đã tiêu thụ tương ứng

Việc xác định các loại chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cho
khối lượng sản phẩm theo công thức trên trong trường hợp doanh nghiệp kinh
doanh nhiều loại sản phẩm dịch vụ khác nhau là rất phức tạp gắn liền với việc phân
bổ chi phí chung cho khối lượng sản phẩm đã tiêu thụ và không có cách phân bổ
nào là có giá trị khoa học nổi bật.Vì vậy tuỳ thuộc vào chiến lược SXKD, tình hình
thị trường, chiến lược tiếp thị mà doanh nghiệp lựa chọn cách phân bổ cho phù hợp
III. QUẢN LÝ CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH
1.Ý nghĩa và yêu cầu của công tác quản lý chi phí và giá thành
Chi phí và giá thành sản, dich vụ của doanh nghiệp gắn liền với quá trình
SXKD và có tác động trực tiếp đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp, đến mục
tiêu kinh tế trực tiếp của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa. Vì vậy tất cả các doanh
nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đều phải tổ chức tốt việc quản lý chi
phí và giá thành sản phẩm, dịch vụ của mình
19

Quản lý chi phí và giá thành của doanh nghiệp được hiểu là hoạt động có
mục tiêu của lãnh đạo doanh nghiệp, lãnh đạo tài chính doanh nghiệp nói riêng
trong việc sử dụng các công cụ, các cách thức, phương pháp và biện pháp quản lý
cần thiết nhằm tổ chức quá trình sử dụng nguồn lực (vật tư, tiền vốn, lao động) của
doanh nghiệp phục vụ tốt nhất cho quá trình hoạt động kinh tế của doanh nghiệp
Mục tiêu cơ bản nhất của quản lý chi phí và giá thành là tiết kiệm chi phí, hạ
giá thành sản phẩm, dịch vụ trên cơ sở thực hiện tốt nhất quá trình SXKD của
doanh nghiệp
Chính vì những lý do nêu ở trên, nên có thể khẳng định công tác quản lý chi
phí và giá thành sản phẩm , dịch vụ của doanh nghiệp có ý nghĩa kinh tế to lớn đối
với doanh nghiệp, biểu hiện qua nhừng mặt cơ bản sau:
-Quản lý tốt chi phí và giá thành sẽ giúp doanh nghiệp thực hiện kế hoạch
SXKD với hiệu quả cao nhất, do đó tiết kiệm được chi phí hạ được giá thành sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau:
+Tổ chức phân công, phân cấp quản lý chi phí và giá thành đúng đắn phù

hợp với tình hình, đặc điểm SXKD của doanh nghiệp
+Làm tốt công tác kế hoạch hoá chi phí và giá thành (bao gồm lập kế hoạch,
tổ chức thực hiện kế hoạch, phân tích đánh giá tình hình thức hiện kế hoạch, tìm các
giải pháp biện pháp quản lý tốt để tiết kiệm chi phí và hạ thấp giá thành ngay cả
trong quá trình thực hiện kế hoạch cũng như cho kỳ kế hoạch tới)
Trong công tác kế hoạch hoá, kế hoạch chi phí và giá thành là một công cụ
quan trọng phục vụ cho việc quản lý chi phí và giá thành.Kế hoạch này được lập ra
nhằm phục vụ cho việc hoàn thành kế hoạch SXKD một cách tốt nhất, đồng thời
phải quán triệt mục tiêu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm , dịch vụ của doanh
nghiệp .Vì vậy thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá chi phí và giá thành đồng nghĩa
với việc thực hiện tốt kế hoạch SXKD , tiết kiệm được chi phí, hạ được giá thành
sản phẩm , dịch vụ của doanh nghiệp. Mặt khác do tiết kiệm được chi phí, hạ được
giá thành sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp nên sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp có sức cạnh tranh cao trên thị trường về giá, nếu doanh nghiệp thực hiện
chiến lựơc bán hàng với giá cạnh hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp tăng được doanh thu,
một tiền đề quan trọng giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận trong hiện tại và tương lai.
20

Ngoài ra việc loại bỏ những chi phí không cần thiết, chống được hiện tượng lãng
phí trực tiếp làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, đồng thời giải phóng được vốn
phục vụ đầu tư mở rộng SXKD cho doanh nghiệp. Từ đó nâng cao được hiệu quả
SXKD cho doanh nghiệp
+Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, quản lý tốt chi phí và giá thành
sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp còn rèn luyện được kỹ năng và tác phong lao
động công nghiệp cho từng tập thể lao động và toàn bộ doanh nghiệp, gắn liền với
lợi ích của người lao động với lợi ích của doanh nghiệp, khuyến khích người lao
động thực hành tiết kiệm, cải tiến công tác, có nhiều sáng kiến trong SXKD, tăng
năng suất lao động, tăng hiệu quả SXKD cho doanh nghiệp
Ngược lại, nếu doanh nghiệp tổ chức quản lý chi phí và giá thành không tốt
thì gây hậu quả rất nặng nề cho doanh nghiệp , thậm chí dẫn đến phá sản

2. Cơ sở của công tác quản lý chi phí và giá thành
Để đạt được mục tiêu của quản lý chi phí và giá thành cần thiết phải dựa vào
những cơ sở quan trọng sau đây:
- Cơ chế tài chính nói chung, quản lý chi phí và giá thành của Nhà nước nói
riêng. Yếu tố này tạo ra hành lang pháp lý, xác định rõ những nguyên tắc, những
quy định mang tính pháp quy trong việc tổ chức quá trình quản lý chi phí và giá
thành của doanh nghiệp, bắt đầu từ giai đoạn tổ chức hạch toán đúng đắn chi phí,
đến khâu hoạch định chính sách kiểm soát chi phí, xác định giá thành sản phẩm,
dịch vụ của doanh nghiệp. Vì vậy muốn quản lý tốt chi phí và giá thành đạt hiệu
quả cao nhất, trước hết cần phải chú ý đến yếu tố này
- Tình hình đặc điểm SXKD của doanh nghiệp cũng là một căn cứ quan
trọng của quản lý chi phí và giá thành. Yếu tố này bao gồm đặc điểm ngành nghề
kinh doanh, vùng lãnh thổ hoạt động, quy mô kinh doanh của doanh nghiệp và nó
tác động rất mạnh đến hoạt động sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Vì vậy
nó ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn cộng cụ, các phương pháp và giải pháp quản lý
chi phí và giá thành của doanh nghiệp, lựa chọn các định mức tiêu hao vật tư, tiền
vốn, lao động, những vấn đề quan trọng đặc biệt trong việc tổ chức quản lý chi phí
và giá thành để đạt được mục tiêu đề ra của doanh nghiệp
21

- Trình độ tổ chức quản lý tài chính và quản lý chi phí và giá thành của
doanh nghiệp. Suy cho cùng mục tiêu của doanh nghiệp có đạt được hay không do
con người quyết định. Nếu trình độ của cán bộ quản lý còn thấp, hiểu biết các kiến
thức về tình hình SXKD thì phải áp dụng mô hình quản lý chi phí và giá thành phù
hợp với năng lực tổ chức, trình độ tổ chức quản lý của họ, từng bước đào tạo, đào
tạo lại, bổ sung đội ngũ và hoàn thiện dần mô hình quản lý của doanh nghiệp cho
phù hợp. Ngược lại nếu áp dụng mô hình quản lý không phù hợp, thậm chí hiện đại
có thể không đạt được hiệu quả mong muốn, gây lãng phí lớn, cản trở hoạt động
SXKD của doanh nghiệp
3. Nội dung chủ yếu của công tác quản lý chi phí và giá thành

3.1. Quản lý chi phí SXKD
Theo cơ chế quản lý chi phí hiện hành của Nhà nước, thì chi phí SXKD của
doanh nghiệp là bộ phận chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động SXKD thông
thường của doanh nghiệp, bao gồm: chi phí hoạt động cung cấp sản phẩm (hàng
hoá) và hoạt động dịch vụ, chi phí hoạt động tài chính. Dưới đây sẽ đề cập đến việc
quản lý chi phí SXKD theo 2 loại trên
* Quản lý chi phí hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp
Đối với bộ phận chi phí này có thể tổ chức quản lý theo các khâu của quá
trình SXKD của doanh nghiệp hoặc các yếu tố chi phí, dưới đây là những nội dung
quản lý chi phí SXKD theo các yếu tố chi phí.
- Quản lý chi phí nguyên, nhiên vật liệu (gọi tắt quản lý chi phí vật tư).
Nguyên tắc chung là phải quản lý chặt chẽ cả hai yếu tố: Mức tiêu hao vật tư và giá
vất tư
+ Về mức tiêu hao vật tư: tất cả các loại vật tư được sử dụng vào hoạt động
SXKD thông thường doanh nghiệp đều cần phải quản lý chặt chẽ theo các định mức
tiêu hao vật tư mà doanh nghiệp đã quy định ở tất cả các khâu SXKD của mình,
đồng thời phải thường xuyên hoặc định kỳ kiểm tra phân tích, đánh giá tình hình
thực hiện các định mức đó. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu định mức về tiêu hao vật tư
cho phù hợp, tìm ra nhừng yếu tố tiêu cực để khắc phục và yếu tố tích cực để phát
huy nhằm động viên người lao động tích cực tiết kiệm trong SXKD của doanh
nghiệp
22

Hệ thống chỉ tiêu định mức tiêu hao vật tư do doanh nghiệp quyết định căn
cứ vào định mức quy định của cơ quan có thẩm quyền và tình hình sản xuất kinh
doanh thông thường của doanh nghiệp.
+ Về giá trị vật tư, để tính vào giá thành thực tế mua vào ghi trên chứng từ
hoá đơn theo đúng quy định của bộ Tài chính, sau khi đã trừ số tiền đền bù thiệt hại
do các cá nhân, tập thể gây ra, hao hụt định mức cho phép, giá trị phế liệu thu hồi,
số tiền giảm giá mua (nếu có).

- Quản lý chi phí dụng cụ công cụ lao động phục vụ SXKD, thông thường
doanh nghiệp căn vào thời gian sử dụng và giá trị của chúng để tiến hành phân bổ
dần vào chi phí trong kỳ cho phù hợp.
- Quản lý chi phí khấu hao tài sản cố định:
Quản lý chi phí bộ phận này phải gắn liền với cơ chế quản lý tài sản cố định
và khấu hao tài sản cố đình trong doanh nghiệp theo quy định hiện hành của bộ Tài
chính
- Quản lý chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương:
Nguyên tắc chung là quản lý chặt chẽ lao động gắn với việc trả lương cho
người lao động với kết quả SXKD. Phải xây dựng được hệ thống định mức cho các
loại lao động, kích thích người lao động phát huy sáng kiến, tiết kiệm trong SXKD
và tăng năng suất lao động cho doanh nghiệp.
- Quản lý chi phí BHXH, BHYT và các chi phí khácphải gắn với chế độ hiện
hành của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi người lao động đúng pháp luật.
- Quản lý chi phí dịch vụ mua ngoài: doanh nghiệp phải xây dựng được các
định mức cụ thể cho từng khoản mục chi phí thuộc khoản mục nào đặc biệt là khoản
hoa hồng đại lý, uỷ thác môi giới và tổ chức quản lý chặt chẽ chúng.
- Quản lý chi phí bằng tiền khác như: thuế môn bài, thuế tài nguyên, phí, lệ
phí…đặc biệt là chi phí tiếp tân, hội họp…phải tuân thủ đúng các quy đinh của pháp
luật Nhà nước.
* Quản lý chi phí hoạt động tài chính
Để quản lý tốt bộ phận chi phí này doanh nghiệp phải căn cứ vào kết quả của
từng hoạt động tài chính cụ thể và những quy định của pháp luật để tính toán và
23

kiểm soát các loại chi phí phát sinh của nó cho phù hợp nhằm giảm được chi phí
không cần thiết.
3.2. Quản lý giá thành toàn bộ của sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ
Như đã biết, giá thành toàn bộ (Ztb) của sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ bằng
giá thành sản xuất của nó cộng với chi phí bán hàng cộng chi phí quản lý

Về nguyên tắc,toàn bộ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
trong kỳ được kết chuyển vào giá thành toàn bộ (Ztb) của sản phẩm dịch vụ đã tiêu
thụ trong kì đó. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp có chu kì sản xuất kinh doanh dài
hoặc doanh thu không tương ứng với chi phí bán hàng và chi phí quản lí doanh
nghiệp đã phát sinh, thì được phép phân bổ cho sản phẩm tồn kho và sản phẩm dở
dang theo một tỉ lệ thích hợp.
4. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá tình hình chi phí và giá thành sản phẩm :
4.1. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá tình hình chi phí sản xuất kinh doanh:
* Tổng chi phí sản xuất kinh doanh (F): là toàn bộ chi phí sản xuất kinh
doanh phát sinh trong kì được kết chuyển (phân bổ) cho hàng hoá, dịch vụ đã tiêu
thụ trong kì của doanh nghiệp. Nó phản ánh số phải bù đắp từ doanh thu để tính lợi
nhuận và các chỉ tiêu tài chính quan trọng khác của doanh nghiệp.
Tổng chi phí sản xuất kinh doanh là một số tuyệt đối tính bằng tiền phản ánh
quy mô của chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được bù đắp từ doanh thu
của doanh nghiệp trong kì hạch toán song chưa phản ánh được trình độ sử dụng
nguồn lực của doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh là cao hay thấp. Để khắc
phục điều đó ta sử dụng chỉ tiêu tỉ suất chi phí sản xuất kinh doanh.
* Tỉ suất chi phí sản xuất kinh doanh (F’):
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức: F' =
F
M
x 100%
Trong đó, F’ được tính bằng %. Về ý nghĩa kinh tế, nó phản ánh cứ một đồng
doanh thu đạt được trong kì doanh nghiệp phải mất bao nhiêu đồng chi phí.
F’ càng thấp thì hiệu quả kinh doanh càng lớn và ngược lại. Vì vậy, nó được
sử dụng để phân tích, so sánh, xác định thành tích quản lí chi phí sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
24

* Mức độ hạ thấp hoặc tăng tỉ suất chi phí sản xuất kinh doanh (∆F’) và được

tính theo công thức:∆F’ = F’1 – F’0
Trong đó, F’1 và F’0 lần lượt là tỉ suất chi phí sản xuất kinh doanh của kì so
sánh và kì gốc. Tuỳ thuộc mục đích nghiên cứu, có thể chọn kì so sánh và kì gốc
cho phù hợp.
Nếu ∆F’ < 0 thì biểu hiện mức độ hạ thấp của tỉ suất chi phí và ngược lại.
* Công thức tính:
δ =
∆F'
F'
0
=
F'
1
- F'
0
F'
0

Trong 2 doanh nghiệp đem ra so sánh, doanh nghiệp nào có tốc độ giảm
nhanh hơn thì doanh nghiệp đó quản lí chi phí tốt hơn.
* Số tiền tiết kiệm hoặc vượt chi do giảm hoặc tăng tỉ suất chi phí sản xuất
kinh doanh. Số tiền tiết kiệm hoặc vượt chi được tính theo công thức sau:
St = M1 x ∆F’
Trong đó, M1 là doanh thu kì so sánh
4.2. Các chỉ tiêu cơ bản về giá thành sản phẩm:
* Giá thành đơn vị sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp: giá thành đơn vị của
doanh nghiệp thấp phản ánh trình độ quản lí chi phí và giá thành của đơn vị là tốt.
* Mức độ hạ hoặc tăng giá thành sản phẩm dịch vụ so sánh được (chỉ phân
tích, đánh giá đối với những sản phẩm, dịch vụ so sánh được). Kí hịêu là ∆Z và
được tính theo công thức sau:

∆Z =

i=1
n
Q
i1
x(Z
i1
-Z
i0
)
Trong đó: Qi1 là số lượng sản phẩm dịch vụ loại i tính ở kì so sánh.
Zi1 và Zi0 lần lượt là giá thành đơn vị của sản phẩm, dịch vụ so sánh được ở
kì so sánh và kì gốc.
n là số lượng các loại sản phẩm, dịch vụ so sánh được
* Tỉ lệ tăng giá thành sản phẩm, dịch vụ so sánh được (T’z) được tính theo
công thức:
25

T'z =
∆Z


i=1
n
Q
i1
x Z
i0


Tỉ lệ này, trong trường hợp ∆Z < 0 có trị tuyệt đối càng lớn thì chứng tỏ việc
quản lí của doanh nghiệp càng tốt, ngược lại thì không tốt (tuy nhiên nếu T’z lớn
quá mức thì doanh nghiệp cần xem xét lại định mức giá thành của mình có hợp lí
hay không). Nếu ∆Z > 0 thì giá thành thực tế cao hơn giá thành kế hoạch.

IV. CÁC BIỆN PHÁP NHẰM TÍÊT KIỆM CHI PHÍ SXKD VÀ HẠ THẤP
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP:
1. Ý nghĩa của việc giảm chi phí SXKD và hạ thấp giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp:
Tiết kịêm chi phí và hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ có ý nghĩa kinh tế lớn
đối với doanh nghiệp, biểu hiện ở những mặt sau:
- Nếu doanh nghiệp hoàn thành tốt kế hoạch doanh thu trong kì thì tiết kiệm
được chi phí của kì đó, sẽ làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. ý nghĩa của việc
tiết kiệm chi phí không chỉ dừng lại ở đó, một doanh nghiệp quản lí tốt loại bỏ được
tất cả các chi phí không cần thiết cho hoạt động SXKD, chống được hiện tượng lãng
phí vật tư, tiền vốn và lao động trong quá trình SXKD thì cũng có nghĩa là giá thành
của doanh nghiệp hạ xuống. Trường hợp đó, doanh nghiệp có thể thực hịên chiến
lược bán hàng với giá bán cạnh tranh, chắc chắn doanh nghiệp sẽ tăng được khối
lượng sản phẩm dịch vụ. Từ đó làm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp đều
tăng lên.
- Tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp giảm được nhu
cầu về vốn lưu động song vẫn giữ được quy mô kinh doanh như cũ, do đó doanh
nghiệp sẽ giải phóng được một lượng vốn tương ứng có thể sử dụng, đầu tư, mở
rộng quy mô SXKD, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghịêp.
Tóm lại, tiết kiệm được chi phí, hạ được giá thành sản phẩm dịch vụ, doanh
nghiệp sẽ tăng được lợi nhuận, tăng được sức cạnh tranh, đảm bảo cho sự phát triển
ổn định, lâu dài của doanh nghiệp.

×