Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bài thảo luận dân sự 5 nhóm 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.04 KB, 15 trang )

Khoa Luật Dân sự
Lớp Luật Dân sự 46A2

BUỔI THẢO LUẬN THỨ 5
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ

Giảng viên: Nguyễn Nhật Thanh
Nhóm: 03
Thành viên
1
2
3
4
5
6
7
8

Mai Đức Hồng
Phạm Thị Hồng
Nguyễn Hữu Minh
Huy
Nguyễn Đồn Tấn
Khoa
Phạm Hoàng Long
Rơ Lan Lý
Nguyễn Anh Minh
Vũ Thị Kim Ngân

2153801012086
2153801012088


2153801012091
2153801012102
2153801012121
2153801012125
2153801012130
2153801012143

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày … tháng 4 năm 2022


*Di sản thừa kế
Câu 1:
Điều 612 BLDS 2015 xác định: Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Di sản có bao gồm cả nghĩa vụ về tài sản của người quá cố, điều này được nhắc đến
trong điều 615 “Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” của BLDS 2015:
- Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi
di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được
người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi
di sản do người chết để lại.
- Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
- Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Câu 2:
Khi tài sản của người quá cố để lại bị thay thế bởi một tài sản khác thì tài sản này
khơng được xem là di sản vì di sản được xác lập ngay tại thời điểm mở thừa kế, nếu
tài sản của người quá cố bị thay thế thì sẽ khơng đúng với ý chí ban đầu của người để

lại di sản và tài sản thay thế đó cũng khơng thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản
trong khi đó luật có quy định “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”
Câu 3:
Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố
không nhất thiết cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại khoảng 1 điều 188 Luật Đất đai 2013, trường hợp người sử dụng đất
chết để lại di sản là bất động sản khi chưa được cấp Giấy chứng nhận mà có thừa kế,
thì vẫn xác định di sản thừa kế nhưng cần căn cứ vào các yếu tố như người sử dụng
đất đã có loại giấy tờ nào, có sử dụng đất ổn định khơng, có tranh chấp hay khơng…
để xác định đất đó có thuộc vào di sản thừa kế hay không. Cụ thể:

1


“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền
sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 186 và trường hợp
nhận thừa kế quy định tại Khoản 1 Điều 168 của Luật này.
b) Đất khơng có tranh chấp.
c) Quyền sử dụng đất khơng bị kê biên để bảo đảm thi hành án.
d) Trong thời hạn sử dụng đất.”
Câu 4:
Trong Bản án số 08, Tồ án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản thể hiện ở đoạn nhận định của tòa án:
“từ lập luận trên, có căn cứ để xác định tài sản của ơng Hịa và bà Mai gồm: ½ giá trị
nhà và sân tường bao loan…85m2 chưa được cấp giấy chứng nhận sau khi trừ đi
nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước 1.966.500.000…” và “đây vẫn là tài sản của ơng
Hịa, bà Mai tuy nhiên đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, nếu

không xác định là di sản thừa kế thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự.”
Câu 5:
Theo em, hướng giải quyết trên của tòa là hợp lý do phần đất kể trên là do gia đình
ơng Hòa và bà Mai sử dụng sau khi trạm điện của nhà nước được di dời, hộ ơng Hịa
đã quản lý, sử dụng ổn định nhiều năm nay, các hộ liền kề đã xây dựng mốc giới rõ
ràng, khơng có tranh chấp, không thuộc diện đất quy hoạch phải di dời, vị trí đất tăng
nằm tiếp giáp với phía trước ngơi nhà và lán bán hàng của hộ ơng Hịa. Ngồi ra trong
bản án có đề cập việc ơng Hịa có thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với phần đất chưa
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhà nước nên quyết định của tịa án là
hợp tình hợp lý.
Câu 6:
Ở án lệ 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của ông Phùng Văn N để
là ½ trong tổng diện tích đất, tức 189 m2. Vì tài sản này hình thành trong thời kì hơn
nhân.
Căn cứ pháp lý: Điều 612 BLDS 2015
Câu 7:
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K không
được coi là di sản, không đưa tài sản đã bán vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tịa
án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã
2


bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không đúng. Vì tài sản ở lúc mở thừa kế là di
sản, tuy nhiên phần di sản này đã được bán trong sự đồng ý của của các đồng thừa kế,
cho nên nó khơng cịn là di sản mà những người thừa kế nữa được hưởng nữa, vì nó
đã được chuyển giao quyền sử hữu cho người khác, khơng cịn nằm trong khối tài sản
được coi là di sản còn lại nên không thể mang ra chia .
Câu 8:
Suy nghĩ của em về hướng giải quyết trong án lệ liên quan đến phần đất chuyển

nhượng cho Ông Phùng Văn K là hồn tồn tồn thuyết phục. Phần đất mà Ơng K
được chuyển nhượng nằm trong khối di sản nhưng đã được chuyển nhượng theo đúng
quy định pháp luật, đáp đứng đầy đủ các điều kiện của giao dịch dân sự. Diện tích đất
được chuyển nhượng cho ơng K được xác lập với người thừa kế, đồng thời cũng là
người quản lý di sản theo quy định của pháp luật với mục đích là để chăm lo cho cuộc
sống của các người thừa kế là bà Phùng Văn G, đã được sự đồng ý của các thừa kế
khác. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
diện tích 267,4m2. Nay ơng Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, hướng giải quyết của án lệ và thuyết phục và
phù hợp với pháp luật .
Câu 9 :
Trong trường hợp bà Phùng Văn G chuyển nhượng đất không phải để chăm lo cho
cuộc sống của các con mà dùng tiền đó cho cá nhân thì số tiền đó vẫn được coi là di
sản . Vì căn cứ vào Điều 612 BLDS 2015: Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Tài sản 398m2
này hình thành trong thời kỳ hơn nhân nên đó là tài sản chung của ông N và bà G, dĩ
nhiên khi bà G bán một phần đất thành tiền thì tiền đó cũng là tài sản chung. Vậy nên
số tiền bà G bán được từ 131m2 trong 398m2 cũng được coi là di sản để chia .
Câu 10:
Ở thời điểm bà G chết thì di sản cịn lại của bà trong mảnh đất chung của vợ chồng là
133,5m2 ứng với 267m2 , được thấy trong bản án ở đoạn “Do đó, phần di sản của bà
Phùng Thị G để lại là khối tài sản được chia theo di chúc …”
Câu 11:
Việc Tòa án quyết định phần còn lại di sản của bà G là 43,5 m2 là thuyết phục dựa
trên 2 yếu tố :
+ bà G đã để lại di chúc về 90m2 trong tài sản 133,5m2 cho chị H theo bản án và được
coi là hợp pháp theo điều 630 BLDS 2015.
+ vì trong di chúc thì sau khi định đoạt 90m2 trong 133,5 m2 tài sản của bà thì vẫn
cịn lại 43,5 m2 chưa được định đoạt thì dựa trên điều 650 khoản 2a BLDS2015 để
chia thừa kế theo pháp luật.


3


Đây là nội dung Án lệ 16 thể hiện ở đoạn trích: ” Bà Phùng Thị G chỉ có quyền định
đoạt ½ diện tích đất trong tổng 267m2 đất chung của vợ chồng. Do đó phần di sản của
bà G là ½ tài sản ( 133,5m2) được chia theo di chúc là 90m2, còn lại là 43,5m2 được
chia theo cho 5 kỷ phần cịn lại …. Nên phần diện tích đất này ai đang quản lý, sử
dụng thì được tiệp tục quản lý, sử dụng”. Ta thấy phiên tịa Gíam đốc thẩm nhận định
vụ việc và đưa ra hướng giải quyết như trên là thuyết phục theo quy định của pháp
luật.
Câu 12:
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43.5m2 đất là
không thuyết phục.
Căn cứ điều 651 BLDS 2015:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội,
ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng cịn ai ở hàng
thừa kế trước đó đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản
hoặc từ chối nhận di sản.”
Từ đấy dựa vào khoản 1 a) ta thấy phần di sản mà ông N để lại sẽ được chia đều 7

phần gồm bà G và 6 người con. Phân di sản của ơng N là ½ diện tích cịn lại 267m2,
tức là 133.5m2. Phần này chia cho 7 đồng thừa kế, như vậy mỗi người nhận 19,07m2
đất. Do đó, tổng diện tích đất mà bà G sở hữu sau khi nhận thừa kế là 62,57m2.
Đây không là nội dung của Án lệ số 16 vì nội dung án lệ số 16 là để công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa
kế chuyển nhượng.
*Quản lý di sản
Câu 1:
Trích bản án: Quyết định của Toà:
4


Giao cho anh Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản thừa kế của ông Phạm Tiến Đ
và bà Đoàn Thị T gồm nhà, đất và tài sản trên đất mang tên bà Đoàn Thị T số
0010/QSDĐ/323/QĐUB do UBND huyện M cấp ngày 02/4/2004 tại Tiểu khu C, thị
trấn nơng trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. (Có sơ đồ trích đo hiện trạng khu đất kèm
theo).
Việc xác định của Tồ như vậy là thuyết phục. Vì theo em, số đơng hàng thừa kế thứ
nhất đều nhất trí cử ông H là người quản lý di sản.
(Theo khoản 1 điều 616 BLDS 2015.)
Câu 2 :
Trước khi chấp hành án, ông Thiện là người quản lý di sản. Vì ông Thiện là người
đang trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, tiếp tục quản lý di sản của ông bà Đ T. Căn cứ
khoản 2 điều 616 BLDS 2015 thì đây là di sản không chỉ định người quản lý và những
người thừa kế chưa cử được người quản lý (ơng Thiện khơng nhất trí với những người
thừa kế cử ông H là người quản lý) nên ông Thiện vẫn là người quản lý di sản.
Câu 3 :
Việc Toà án giao cho anh H quyền quản lý di sản là thuyết phục. Vì căn cứ điều 616
BLDS 2015 :”1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do
những người thừa kế thỏa thuận cử ra.

2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế
chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản
tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di
sản.
3. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quản lý.”
Thì thứ tự người quản lý di sản là:
1.Được chỉ định trong di chúc;
2.Những người thừa kế thoả thuận cử ra;
3.Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý cho đến khi những
người thừa kế cữ được người quản lý.
Theo hàng thừa kế thứ nhất (trừ anh T) đã nhất trí cử anh H là người quản lý nên dựa
trên quyền hạn của mình Tồ đã giao quyền quản lý di sản cho anh H.
Câu 4:

5


Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản khơng có quyền tơn tạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11. Vì ơng Đ và bà T chết không để lại di chúc nên căn cứ
vào điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015 được thừa kế theo pháp luật và hưởng thừa
kế ở đây là theo thứ tự hàng thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi người chết, theo Bản án số 11 người hưởng thừa kế theo pháp
luật sẽ là gồm 7 người con trong đó có anh H và anh T. Căn cứ khoản 1 Điều 616
BLDS 2015 thì người quản lý di sản là người được chỉ định trong di sản hoặc do
những người thừa kế thỏa thuận cử ra mà ở đây anh H được những người thừa kế
chọn ra làm quản lý di sản nhưng căn cứ Điều 617 BLDS 2015 thì khơng nêu mà chỉ
u cầu bảo quản, không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định
đoạt tài sản.

Cơ sở pháp lý: Điều 618,651 BLDS 2015; điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015.
Câu 5:
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản khơng có quyền giao lại cho người
khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai). Vì căn
cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 thì giao lại di sản theo yêu cầu của
người thừa kế và anh T không phải người quản lý và chưa được sự đồng ý của các
đồng thừa kế về việc giao lại cho con trai là anh N.
Cơ sở pháp lý: Điều 616,651 BLDS 2015.
Câu 6:
Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý khơng có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục Vì căn cứ vào điểm b khoản
1 Điều 617 BLDS 2015 thì người quản lý tài sản là ơng Nhỏ khơng có quyền định
đoạt tài sản khi chưa có sự đồng ý của những người thừa kế.
Cơ sở pháp lý: Điều 616, điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS 2015.

* Thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế
Câu 1:.
Ở Điều 623 BLDS 2015 đã cho ta biết ở Việt Nam có ba loại thời hiệu thừa kế, điều
luật này quy định như sau:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10
năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc
về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp khơng có người thừa kế đang
quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236
của Bộ luật này;
6


b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu khơng có người chiếm hữu quy định tại điểm a
khoản này.

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại
là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Câu 2:
Ở từng quốc gia khác nhau, họ sẽ có những quy định về thời hiệu yêu cầu chia di sản
khác nhau. Với BLDS của Pháp thì họ khơng áp dụng thời hiệu cho việc chia di sản,
thể hiện qua Điều 815 của Bộ luật này, khi họ cho rằng sự phân chia tài sản có thể
được thực hiện ở bất cứ thời điểm nào trừ trường hợp bị đình chỉ theo phán quyết hoặc
thỏa thuận. Còn ở BLDS của Lào, Điều 608 lại quy định: “Việc đòi thừa kế được thực
hiện trong thời hạn ba năm, kể từ ngày chủ sở hữu di sản chết”.

Câu 3:
Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là thời điểm mà cụ chết đó là năm 1972.
Ở phần nhận định của Tòa án, Tòa đã cho rằng: “Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự
năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự
năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-012017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ
luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T
cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật”. Việc Tòa áp dụng khoản 4
Điều 36 Pháp lệnh thừa kế 1990, đã cho thấy Tòa ghi nhận thời điểm mở thừa kế đối
với di sản của cụ T là vào năm 1972, trước thời điểm công bố Pháp lệnh Thừa kế.

Câu 4:
- Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của
cụ T có cơ sở văn bản, đó là tại quy định khoản 1 điều 623 của BLSD năm 2015 đã
nêu rõ thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản,
kể từ thời điểm mở thừa kế.
- Theo em là thuyết phục. Vì việc quy định thời hiệu 30 năm đối với bất động sản này
là hợp lý như việc trong quy định trong Điều 236 BLDS 2015, mà di sản của cụ T đa

phần là bất động sản, đây là một tài sản có giá trị lớn nên việc chia thừa kế phải cần có
7


một khoảng thời gian dài mà thời hiệu 30 năm là vô cùng hợp lý. Việc kéo dài thời
hiện là 30 năm đó sẽ giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người hưởng thừa kế một
cách tốt nhất.
Câu 5:
- Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của
cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được cơng bố
chưa có cơ sở văn bản.
Cụ thể là căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS 2015: “Thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời
điểm mở thừa kế”. BLDS lấy thời hiệu 30 năm bắt đầu kể từ thời điểm mở thừa kế và
không hề đề cập đến thừa kế mở trước khi ban hành Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990
thì có áp dụng thời điểm bắt đầu là kể từ thời điểm mở thừa kế hay kể từ ngày cơng bố
Pháp lệnh trên.
-Theo em thì thuyết phục. Vì Nội dung Án lệ là sự kết hợp giữa BLDS 2015 và khoản
4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế 1990. Như vậy, thời điểm bắt đầu tính thời hiệu yêu cầu
chia di sản thừa kế từ ngày Pháp lệnh thừa kế năm 1990 công bố ngày 10/9/1990. Với
quy định trên thời hiệu chia di sản thừa kế vẫn cịn, được Tịa án kéo dài thêm nhằm
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thừa kế, người dân cũng sẽ dễ
tiếp cận được với cơng lý và có thể u cầu tịa án giải quyết tranh chấp về thừa kế.
Câu 6: .
- Án lệ số 26/2018/AL cho ta cái nhìn về thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản. Cho thấy đây là một vấn đề hết sức phức
tạp đặc biết khi có sự thay đổi giữa các thế hệ dẫn tới áp dụng sự thay đổi của luật
pháp tạo sự khó khăn trong quá trình xác định. Các quyết định của Tòa án đưa ra hầu
hết phải xem xét trên nhiều khía cạnh để mang tính thuyết phục. Đây có thể xem là
một Án lệ hay vì tính thực tế thường xun xảy ra của nó.

- Nhưng bên cạnh đó thì vẫn có vấn đề bất cập chưa thực sự rõ ràng đó là:
+ Viện dẫn điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS 2015: “Thời hiệu được áp dụng theo quy
định của bộ luật này.” Nhưng khoản 1 Điều 688 được áp dụng đối với “giao dịch dân
sự”. Mà trong thừa kế thì có 2 loại đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo theo
pháp, trong khi đó chỉ có thừa kế theo di chúc là giao dịch dân sự vì di chúc là một
giao dịch dân sự, cịn thừa kế theo pháp luật thì khơng phải
=>Vậy nên viện dẫn điều này làm căn cứ pháp lý là bất hợp lý.
*Tìm kiếm tài liệu
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật về
thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2018 đến nay.
Khi liệt kê, yêu cầu theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải thỏa mãn những
8


thông tin theo trật tự sau: 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài viết để trong dấu ngoặc kép,
3) Tên Tạp chí in nghiêng, 4) Số và năm của tạp chí, 5) Số trang của bài viết (ví dụ: từ
tr.41 đến 51). Các bài viết được liệt kê theo alphabet tên tác giả (không nêu chức
danh).
- Những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật về thừa kế được công
bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2018 đến nay là:
1. Bạch Thị Nhã Nam, “Những bất cập của các quy định pháp luật về quyền lợi có thể
được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản”, Tạp chí Luật học, số 10/2018, trang 17-25.
2. Bạch Thị Nhã Nam, “Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản”, Tạp
chí Nghề luật, số 5/2018 – Năm thứ Mười Ba, trang 32-37.
3. Bùi Ngọc Thanh, “Haonf thiện các chế tài để công khai, minh bạch tài sản và thu
nhập”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 12 (364)/ Kỳ 2, tháng 6/2018, trang 35-40.
4. Bùi Thị Thanh Hằng, Nguyễn Anh Thư, “Ảnh hưởng của một số học thuyết pháp lý
đến chế định vật quyền trong Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 1/2017, trang 50-59.
5. Cao Anh Nguyên, “Di sản dùng vào việc thờ cúng – nhìn từ góc độ thực tiễn xét xử

và thi hành án (Kỳ 1)”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 1/2018, tr.39-41.
6. Cao Anh Nguyên, “Di sản dùng vào việc thờ cúng – nhìn từ góc độ thực tiễn xét xử
và thi hành án (Tiếp theo kì trước và hết)”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 2/2018, tr.4142.
7. Cao Thị Kim Trinh, “Bình luận các sai sót trong quá trình kê biên, xử lý tài sản thế
chấp để thi hành bản án, quyết định kinh doanh thương mại”, Tạp chí Nghề luật, số
09/2020 – Năm thứ Mười Lăm, tr.57-60.
8. Châu Thị Vân, “Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được
chủ sở hữu”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, số 1/2018, tr.33-42.
9. Chu Thị Thanh An, “Quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ của tổ chức
tín dụng”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2019, tr.25.
10. Đặng Ngọc Dư, “Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành án dân sự đối
với việc thu hồi tài sản về tham nhũng, thu hồi tài sản cho nhà nước, việc thi hành án
có liên quan đến tổ chức tín dụng”, Tạp chí Kiểm sát, số 24/2017, tr.33-40.
11. Đặng Phước Thông, “Đăng ký quyền sở hữu căn hộ chung cư theo yêu cầu và một
số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, số 3/2020, tr.3749.
12. Đặng Thu Hà, “Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam và một số nước trên
thế giới’, Tạp chí Nghề luật, số 5/2018 – Năm thứ Mười Ba, tr.85-90.
9


13. Đinh Văn Quế, “Một số vấn đề về tội ‘Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản’ quy
định trong Bộ Luật Hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 18 năm 2017, tr42-47.
14. Đinh Văn Quế, “Phân biệt một số tội phạm có hành vi chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí
Kiểm sát, số 03/2021, tr.17-22.
15. Đồn Thị Phương Diệp, Nguyễn Thị Vy Quý, “Mối quan hệ giữa quyền hưởng
dụng và quyền sở hữu tài sản dưới góc nhìn so sánh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
20(420) – T10/2020, tr.3-9.
16. Đồn Văn Bình, “Giải pháp hồn thiện pháp luật về bất động sản du lịch ở Việt
nam”, Tạp chí Luật học, số 07/2019, tr.13-19.
17. Dương Anh Sơn, “Bảo lưu quyền sở hữu và hiệu lực đối kháng với người thứ ba”,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2018, tr.19-25.
18. Hồ Thị Vân Anh, “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong
tương lai”, Tạp chí Nghề luật, số 4/2018 – Năm thứ Mười Ba, tr.56-62.
19. Hoàng Giang Linh, “Thẩm quyền về bất động sản theo pháp luật cơng chứng,
chứng thực”, Tạp chí Nghề luật, số 4/2018 – Năm thứ Mười Ba, tr.52-55.
20. Hoàng Nam Hải, “Kiểm sốt tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn –
Điểm mới quan trọng của Luật phịng, chống tham nhũng năm 2018”, Tạp chí Nội
chính, số 69, tháng 8/2019, tr.29.
21. Hoàng Thị Hải Yến, “Về bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình trong giao dịch
thế chấp tài sản”, Tạp chí Kiểm sát, số 11/2020, tr.41-46.
22. Hoàng Thị Loan, “Những vấn đề lý luận về di chúc và hiệu lực của di chúc”, Tạp
chí Luật học, số 03/2018, tr.31-41.
23. Hoàng Thị Việt Anh, “Chế định cầm cố tài sản trong Bộ Luật Dân sự 2015 và bàn
luận về cầm cố tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng”, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn, số
43/2020, tr.12-20.
24. Lê Đăng Doanh, “Bàn về hành vi đồng phạm trong tội tham ô tài sản qua một vụ
án thực tế”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 1-2021, tr.41-43.
25. Lê Duy Tường, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí Kiểm sát, Số 17(tháng 9/2019), tr.25-30.
26. Lê Minh Thành, “Xử lý tài sản thế chấp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng”,
Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số 38/2019, tr.78-86.
27. Lê Quang Thắng, "Nguyên nhân và giải pháp hạn chế mức độ ẩn của tội phạm lừa
đảo chiếm đoạt tài sản", Tạp chí Kiểm sát, số 14/2018, tr.40-43.

10


28. Lê Thị Giang, "Quyền đối với bất động sản liền kề trong Bộ luật Dân sự năm
2015", Tạp chí Kiểm sát, số 16/2018, tr.12-18.
29. Lê Thị Giang, “Nhận diện hợp đồng tặng cho tài sản theo quy định của pháp luật

Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 09/2018, tr.14-22.
30. Lê Thị Giang, “Tặng cho tài sản trong Bộ luật dân sự Pháp”, Tạp chí Luật học, số
03/2018, tr. 92-104.
31. Lê Thị Ngọc Mai, “Kiểm soát đầu cơ bất động sản trong bối cảnh thu hút đầu tư
tại Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số đặc biệt/2019, 42-56.
32. Lê Thị Thảo, “Định giá tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân
hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 03/2020, tr. 67-79.
33. Lê Văn Quang, "Về điều kiện bảo vệ người thứ ba ngay tình khi mua được tài sản
bán đấu giá", Tạp chí Kiểm sát, số 17/2018, tr.23-27.
34. Lê Vĩnh Châu - Ngô Khánh Tùng, “Bàn về chia tài sản chung của vợ chồng trong
doanh nghiệp qua một vụ án ly hơn”, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 7-2021, tr.1-8.
35. Lị Thị Việt Hà, "Bình luận Điều 355 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 5/2018, tr.1-2.
36. Ngơ Hồng Oanh, Phạm Quỳnh Lan, “Một số vấn đề về biện pháp phong tỏa tài
sản của người có nghĩa vụ theo Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí Nghề luật,
Số 5/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.61-68
37. Ngô Quốc Chiến, “Bất khả kháng và nghĩa vụ hồn trả tài sản”, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 08(408)/Kỳ 2, tháng 4/2020, tr.51-55.
38. Ngô Thị Ánh Vân, Đặng Lê Phương Uyên, “Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, số 6/2019, tr. 24-36.
39. Nguyễn Đình Phước, “Tiền ảo có thể được xem là tài sản”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 21(421) - T11/2020, tr. 20-26.
40. Nguyễn Hà Thanh, “Khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng - kinh nghiệm
quốc tế và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11(411)/Kỳ 1,
tháng 6/2020, tr.59.
41. Nguyễn Hoài Thanh, Phạm Thị Thúy Hồng, “Thế chấp quyền tài sản phát sinh từ
hợp đồng mua bán nhà ở - Pháp luật và thực tiễn”, Tạp chí Nghề luật, Số 4/2018 Năm thứ Mười Ba, tr.46-51.
42. Nguyễn Hồng Hải, "Tiếp cận mới, cơ bản về quyền đối với tài sản trong Bộ luật
Dân sự năm 2015", Tạp chí Kiểm sát, số 13/2018, tr. 15-21.


11


43. Nguyễn Minh Hằng, Bùi Nguyễn Phương Lê, “Bàn về thi hành án có thay đổi
giá tài sản tại thời điểm thi hành”, Tạp chí Kiểm sát, số 07/2020, tr.27-33.
44. Nguyễn Minh Hằng, Nguyễn Thị Thu Hà, “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về
thừa kế tài sản”, Tạp chí Nội chính, số 79(7/2020), tr.24-28.
45. Nguyễn Ngọc Điện, “Tiêu chí nhận diện và hệ quả pháp lý của việc chiếm hữu, sử
dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản mà khơng có căn cứ pháp luật”, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 2+3(402+403)/kỳ 2 tháng 1 và kỳ 1 tháng 2/2020, tr.36-42.
46. Nguyễn Nhật Huy, “Hạn chế phân chia di sản thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm
2015 - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số
40/2019, tr.51-58.
47. Nguyễn Nhật Khanh, “Bảo đảm sự thống nhất trong các quy định về biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8 (360)/Kỳ 2, tháng 4/2018, tr.41-50.
48. Phan Trung Hiền - Chử Duy Thanh, “Pháp luật về lập vi bằng đối với bất động
sản”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 24(400)/Kỳ 2, tháng 12/2019, tr.41-46.
49. Hoàng Thị Loan, “Người lập di chúc và điều kiện luật định đối với người lập di
chúc”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 17 (393)/Kỳ 1, tháng 9/2019, tr.44-52.
50. Phan Thị Lan Phương, “Hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm soát thu nhập,
tài sản của người có chức vụ, quyền hạn”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8
(377)/Kỳ 2, tháng 4/2019, tr.32-37.
51. Nguyễn Tấn Hoàng Hải, “Bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm
- Kinh nghiệm từ pháp luật nước ngồi”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, số 8/2017, tr.3440.
52. Nguyễn Thanh Phúc, “Quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu theo quy định tại Điều
167 và 168 Bộ luật dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2020, tr.29-36.
53. Nguyễn Thanh Thư, “Hình thức di chúc miệng”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, số
2/2020, tr.23-31.
54. Nguyễn Thanh Tú, “Một số vấn đề pháp lý về quyền sở hữu tài sản từ góc độ tài

sản mã hóa trong bối cảnh cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư”, Tạp chí Khoa học
Pháp Lý, số 4/2020, tr.1-14.
55. Nguyễn Thế Đức Tâm – Lê Bảo Khanh, “Thừa kế theo pháp luật giữa anh chị em
cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha”, Tạp chí Tồ án nhân dân online,
09/4/2020.
56. Nguyễn Thị An Na, “Một số vấn đề cần lưu ý khi luật sư tham gia giải quyết tranh
chấp về quyền đối với tài sản”, Tạp chí Nghề luật, số 6/2019 – Năm thứ Mười Bốn,
tr23-29.
12


57. Nguyễn Thị Hạnh, Vũ Thị Hương, “Bình luận các sai sót trong giải quyết một vụ
án tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, Tạp chí Nghề luật, số 5/2019 - Năm thứ Mười
Bốn, tr.59-62.
58. Nguyễn Thị Hồng Vân, “Một số vấn đề về người làm chứng cho việc lập di chúc”,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 2(335)-2020, tr.9-15.
59. Nguyễn Thị Thu Trang, Châu Thanh Quyền, “Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về
tài sản đối với người thứ ba khi ly hơn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12(345) 2020, tr.50-54.
60. Nguyễn Thùy Trang, “Bình luận về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại và đảm bảo quyền đòi tài sản từ một vụ án cụ thể”, Tạp chí Nghề luật, số 3/2018 Năm thứ Mười Ba, tr.66-71.
61. Nguyễn Văn Hợi, Giáp Minh Tâm, “Hoàn thiện quy định về bảo lưu quyền quyền
sở hữu trong Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2019, tr. 1217.
62. Nguyễn Văn Tiến, "Quyền khởi kiện của Chấp hành viên trong việc xác định, xử
lý tài sản chung để thi hành án dân sự", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 2/2018, tr.30-32.
63. Nguyễn Văn Vân, “Tài sản và sở hữu - Kinh nghiệm pháp luật Liên bang Nga”,
Tạp chí Khoa học Pháp Lý, số 4/2020, tr.31-44.
64. Nguyễn Viết Giang, “Bàn về vấn đề thừa kế và thừa kế thế vị giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Tồ án nhân dân,
số 7-2020, tr.23-24.
65. hạm Văn Lợi, “Một số tranh chấp phổ biến liên quan đến tình trạng pháp lý của tài

sản thế chấp là quyền sử dụng đất từ thực tiễn giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân
dân tối cao”, Tạp chí Nghề luật, số 09/2020 – Năm thứ Mười Lăm, tr.3-6.
66. Phạm Xuân Việt, “Thực trạng công tác thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam,
nguyên nhân và một số giải pháp”, Tạp chí Nghề luật, số 3/2018 - Năm thứ Mười Ba,
tr.25-33.
67. Quách Hữu Thái, “Xác định di sản và phân chia di sản thừa kế trong Bộ luật Dân
sự 2015 - một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Tồ án nhân
dân, số 23-2020, tr.18-23.
68. Thiều Văn Thịnh, “Giải pháp hạn chế tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua các
nền tảng cơng nghệ số”, Tạp chí Kiểm sát, số 23 (tháng 12/2019), tr.28-34.
69. Trần Hồng Minh Phượng, “Có cơng chứng thừa kế tài sản thế chấp được hay
khơng?”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12(333)-2019, tr.52-55.
Yêu cầu 2:
13


Tìm kiếm: Tạp chí chun ngành luật => các tạp chí mà sinh viên luật cần biết.
Đọc : Tạp chí Luật học ; tạp chí Nghề luật ; tạp chí nghiên cứu Lập pháp ; tạp chí Nhà
nước và Pháp luật ;tạp chí Tịa án nhân dân ; tạp chí Khoa học và Pháp lý ; tạp chí
Kiểm sát ; tạp chí Nội chính ; tạp chí Pháp luật và Thực tiễn ; tạp chí Dân chủ và Pháp
Luật

14



×