Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự tăng trưởng nhanh bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.91 KB, 11 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Hoàn

Đề bài: Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự tăng trưởng nhanh bền vững

Họ và tên
Mã sinh viên
Lớp tín chỉ

:
:
:

Lớp chuyên ngành

:

Tạ Thị Thúy Nga
11183523
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
(119)_31
QTKD Quốc tế 60A

Hà Nội, tháng 10/2019



I.

MỞ ĐẦ

Việc phát triển kinh tế xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài nguyên
thiên nhiên, vốn, v.v. Tuy nhiên, những nguồn lực này đều có hạn và có thể
bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vơ hạn, có
khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ
khơng được sử dụng có hiệu quả nếu khơng có những con người đủ trí tuệ và
năng lực khai thác chúng
Lịch sử phát 2 triển xã hội đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn, con
người là yếu tố đóng vai trị quyết định sự phát triển của xã hội. “Trong tính
hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”(1).
Điều này có nghĩa là, nguồn lực con người là điều kiện tiên quyết cho sự
thành, bại của một quốc gia. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “vơ
luận việc gì cũng đều do con người làm ra...”. Con người và công việc đối
với con người được coi là quốc sách hàng đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh
và được Người căn dặn trong Di chúc viết tay tháng 5-1968 rằng: “Đầu tiên
là công việc đối với con người”(3). Từ “con người” được Bác gạch chân
bằng bút màu đỏ và đây cũng là vấn đề được Người viết dài nhất, gần 2 trang
trong 4 trang của bản di chúc viết tay năm 1968.
Nhận thức rõ nguồn lực con nguời là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất,
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm là “phát huy nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Bài luận sẽ phân tích, làm rõ quan điểm trên, đồng thời thấy được định
hướng của Đảng trong việc phát triển nguồn lực con người. Trong khuôn khổ
cho phép, bài viết có thể chưa mang lại cái nhìn tồn diện hoặc cịn nhiều
thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của cơ.
II.

NỘI DUNG
1. Khái niệm:
 Nguồn lực con người: Dưới dạng tổng quát, nguồn lực con người là khái
niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với các
đặc điểm của nó trong sự phát triển xã hội. “Nhân tố con người là tổng thể các yếu
tố có liên quan đến con người, là sự thống nhất biện chứng giữa các mặt chủ quan và khách
quan để tạo nên năng lực, phẩm chất và trí tuệ của con người được hình thành và phát huy tác
dụng vào trong thực tiễn sản xuất vật chất hay quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
cộng đồng, quốc gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định” - Phạm Công Nhất (2007): Phát
huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.25.


 Phát huy nguồn lực con người là phát huy tất cả các khả năng, trí tuệ và
phẩm chất tinh thần của con người, là nâng cao vai trò của nguồn lực con
người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, qua đó làm tăng những
giá trị đích thực và ý nghĩa lớn lao của nguồn lực này.
 Sự phát triển bền vững: Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm
định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong xã hội hiện tại mà vẫn phải
bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện
đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ
dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để
hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó. Mục tiêu của PTBV
là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự
bình dẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa
con người và tự nhiên, thể hiện ở 4 khía cạnh: PTBV về kinh tế, PTBV về
xã hội, PTBV về mơi trường, An Ninh Quốc phịng.
Vậy giữa nguồn lực con người và sự phát triển bền vững của một quốc
gia có mối liên hệ như thế nào?
2. Cơ sở lý luận

 Theo CN mác-lenin: khẳng định sự phát triển của xã hội không phải do
bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào, mà chính con người đã sáng tạo nên
lịch sử của mình - lịch sử xã hội loài người. Với tư cách là thực thể xã
hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn
tác động vào thế giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh
tồn và phát triển của mình.
 Theo tư tưởng HCM về vai trị của con người: “Con người là vốn quý
nhất, nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng”, “con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi trọng,
chăm sóc, phát huy nhân tố con người” hay “trong bầu trời khơng gì q
bằng nhân dân, trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của
nhân dân”
3. Cơ sở thực tiễn
 Trong nước: Theo đường lối CM của Đảng: Đại hội XI chỉ rõ: “Phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột
phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ…”
 Các nước: Theo các chuyên gia kinh tế thế giới, có 3 nguồn lực chính để
tạo nên sự phát triển của một quốc gia, đó là: nguồn lực thiên nhiên
chiếm 15%, nguồn lực sản xuất chiếm 15% và nguồn lực con người
chiếm tới 70%. Điều này đã được chứng minh ở nhiều quốc gia phát triển
trên thế giới.


o Thí dụ, Nhật Bản là một nước khơng có nguồn tài nguyên thiên
nhiên dồi dào, chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai, tuy nhiên dưới
triều đại Hoàng đế Mutsuhito - thời kỳ Minh Trị, ơng đã có câu nói
rất nổi tiếng: “Nhật Bản muốn đi lên và phát triển khơng có con
đường nào khác ngồi con đường đầu tư cho phát triển giáo dục con
người”. Dưới sự dẫn dắt của Thiên hoàng Minh Trị, người Nhật Bản

đã tiến hành những cải cách bảo đảm mọi cơng dân đều bình đẳng
trước pháp luật, ơng xóa bỏ chế độ phong kiến, xây dựng một xã hội
Nhật Bản tập trung và có tổ chức đầu tiên sau nhiều thế kỷ. với
phương châm coi nguồn lực con người là trung tâm của mọi sự phát
triển, đã đưa ra chiến lược xây dựng nguồn nhân lực với hai hướng
chính là tập trung cho đầu tư giáo dục - đào tạo và thu hút nhân tài.
o Cịn đối với Singapore, một trong những chính sách quan trọng nhất
của Chính phủ nước này là chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đặc
biệt là nguồn nhân lực lao động chất lượng cao để từ đó đưa nền
kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững.
4. Phân tích:
Xét trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển kinh tế – xã hội,
nguồn lực con người ln đứng ở vị trí trung tâm, giữ vai trị quyết
định đối với sự phát triển xã hội. Vai trò của nguồn lực con người được
thể hiện vừa với tư cách là chủ thể, vừa với tư cách là khách thể của
các quá trình kinh tế - xã hội. Với tư cách là chủ thể, con người không
chỉ quyết định hiệu quả của việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên
và các nguồn lực khác hiện có mà cịn góp phần quan trọng vào sự phát
triển bền vững của tương lai. Với tư cách là khách thể, nguồn lực con
người trở thành đối tượng của sự khai thác, sử dụng, đầu tư và phát
triển. Trong từng thời kỳ, vai trò của nguồn lực con người đều được
khẳng định, mang lại sự phát triển bền vững cho quốc qua
4.1.

Con người – nhân tố quý nhất, động lực quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ bảo vệ đất nước

Điều này được thể hiện rõ nét trong tác phẩm “Dân vận” (15-10-1949),
Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân


Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã tới
chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do
dân tổ chức nên.
Dân vừa là chủ nhưng dân vừa thựchiện công việc làm chủ, vừa là chủ thể, vừa
là khách thể, vừa là lực lượng, động lực vừa là mục tiêu của cách mạng Việt
Nam. Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà,
xây
dựng đời sống mới, tiến lên xã hội chủ nghĩa đều phải bắt đầu từ vốn
con người, từ việc phát huy nhân tố con người. Nếu khinh dân, xem
khinh việc sử dụng và phát huy nhân tố con người sẽ là một sai lầm rất
to, rất có hại, có quan hệ mật thiết đến thành hay bại của sự nghiệp
cách mạng.
Vai trị con người chính là vai trị của quần chúng nhân dân, người
sáng tạo chân chính ra lịch sử chứ không phải “vài ba cá nhân anh
hùng nào”, thể hiện qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất: Lao động
sản xuất, đấu tranh chính trị – xã hội và sáng tạo các giá trị văn hóa tinh thần.
Hồ Chí Minh nói: “Tất cả của cải vật chất trong xã hội đều do công nhân và
nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội
mới sống còn phát triển”; quần chúng còn là người sáng tác nữa (các
giá trị văn hóa – tinh thần). Hồ Chí Minh giải thích cơ sở khoa học cho
vai trị đó xuất phát từ chỗ: “Lực lượng dân chúng nhiều vô cùng…
dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng,
đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn, nghĩ mãi
khơng ra”
4.2.


Con người là trung tâm của thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.

Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH, HĐH, yếu tố con người được coi
là cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là vốn, KHCN, con
người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước, trong đó, con người
đóng vai trị là yếu tố quyết định
Thứ nhất, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đảng ta đã khẳng định: đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm hướng tới mục tiêu “tăng
trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” [19,


tr.89]. Như vậy, trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN,
CNH, HĐH là phương tiện, phương thức để đạt đến mục tiêu cao cả, đó là vì
cuộc sống hạnh phúc ngày càng tốt đẹp của con người, vì sự giải phóng và phát
triển tồn diện của con người.
Phát triển NLCN được coi là một bộ phận quan trọng hàng đầu trong chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Bởi vì, con người là động lực cơ bản của
sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Khi nói con người là động lực của q trình CNH, HĐH là chủ yếu nói đến sức
mạnh, năng lực sáng tạo to lớn của con người trong việc thực hiện CNH, HĐH
và thúc đẩy q trình này phát triển.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ khơng thể thành cơng nếu thiếu vai trị động
lực của con người. Chính con người với tri thức, trí tuệ, có khả năng hoạch định
chiến lược, đề ra mục tiêu, lựa chọn phương thức tiến hành CNH, HĐH cho phù
hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình. Con người cịn sáng tạo ra những
thành tựu KH-CN hiện đại và ứng dụng chúng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, sản xuất vật chất, quản lý kinh tế, xã hội. Trong quá trình CNH, HĐH,
những giải pháp do con người đề ra cho phép điều chỉnh và giải quyết các mâu
thuẫn phát sinh, cũng như dự báo những nguy cơ, hậu quả có thể xảy ra và
khuynh hướng phát triển trong tương lai để từ đó thúc đẩy q trình CNH, HĐH
tiến lên.
Thứ hai, con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNH, HĐH đặt ra yêu cầu khách quan đối với việc phát triển NLCN ở trình độ
ngày càng cao, bởi vì con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, của xã hội vừa là
chủ thể cải biến tự nhiên và xã hội, đồng thời, là chủ thể của các quá trình phát
triển kinh tế-xã hội.
Xét dưới gốc độ kinh tế, xã hội hay kỹ thuật, công nghệ, yếu tố con người vẫn
ln là chủ thể của q trình CNH, HĐH. Từ thực tế cho thấy, q trình CNH,
HĐH sẽ khơng thể thành công nếu thiếu NLCN với số lượng và chất lượng
ngày càng cao, cơ cấu hợp lý. Bởi vì, chính con người là lực lượng duy nhất có
khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung, hình thức, bước đi và những
giải pháp thích hợp để tiến hành CNH, HĐH. Từ thực tiễn của các nước đi trước
cũng như ở nước ta đã cho thấy, quá trình CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh
hay chậm, đạt hiệu quả cao hay thấp là do sự quy định của nhiều yếu tố, trong
đó, trước hết và chủ yếu tuỳ thuộc vào năng lực của con người, vào chất lượng
của NLCN. Vì vậy, phát triển NLCN trở thành yếu tố quan trọng nhất có tính
chất quyết định đối với sự thành bại của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện
nay.


Thực tế cho thấy, mặc dù nước ta hiện nay khơng cịn là một nước thuần nơng,
nhưng có lẽ cịn khá xa so với những tiêu chí, đặc trưng của một xã hội công
nghiệp hiện đại. Trong điều kiện ấy con người Việt Nam còn chịu ảnh hưởng
nặng nề bởi tư duy, thói quen của người sản xuất nhỏ tiểu nơng. Vì thế, tiến
hành CNH, HĐH là tiền đề, điều kiện vật chất cần thiết để từng bước cải biến

nếp nghĩ, cách làm vốn còn mang nặng dấu ấn tiểu nông, sản xuất nhỏ của một
bộ phận đáng kể trong lực lượng lao động xã hội. Chính sự hình thành và phát
triển của các yếu tố hiện đại trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là
trong sản xuất do đẩy mạnh CNH, HĐH, sẽ tạo nên một cuộc cách mạng đối với
lực lượng lao động xã hội, là tiền đề cho sự phát triển bền vững. Hơn nữa, trong
mỗi giai đoạn cũng như trong suốt tiến trình, CNH, HĐH vừa tạo ra điều kiện
và cơ hội phát triển, vừa đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với người lao
động, trước hết là ở trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng lao động
công nghiệp hiện đại. Điều này thể hiện ở chỗ, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH
sẽ tạo ra những điều kiện, cơ hội thuận lợi cho người lao động được tiếp cận với
những dịch vụ xã hội ngày càng đầy đủ và hồn thiện như giáo dục, đào tạo,
chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức sống… đồng thời, CNH, HĐH lại đặt ra
những yêu cầu mới về phương thức lao động, kỹ năng lao động, buộc người lao
động phải thường xun, khơng ngừng học tập, bồi dưỡng cả về trình độ học
vấn, chuyên môn kỹ thuật, nhân cách đạo đức, năng lực sáng tạo và khả năng
thích nghi với những điều kiện lao động mới. Như vậy, CNH, HĐH tạo ra mơi
trường mà ở đó con người được phát triển toàn diện, thể hiện năng lực sáng tạo
cũng như khẳng định vai trò quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội của mình.
Thứ ba, phát triển NLCN là vấn đề chiến lược hàng đầu của Đảng và Nhà
nước ta nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Trong lịch sử dân tộc, nhất là trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, ông
cha ta luôn thực hiện phương châm “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”.
Sức mạnh của Việt Nam là con người, do đó khâu then chốt là phải biết phát
huy trí tuệ con người. Chính tài năng trí tuệ, sự thơng minh và sức sáng tạo to
lớn của con người Việt Nam đã làm nên những thắng lợi vẻ vang trong lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước, ngày nay là trong sự nghiệp đổi mới. Vì vậy,
ngay khi khởi xướng cơng cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhấn mạnh tầm quan trọng
đặc biệt của nhân tố con người và xác định: “Con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội”. Ngày nay, để đẩy mạnh CNH, HĐH,
đi vào kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam càng phải đi lên

chủ yếu bằng con đường phát triển NLCN, bằng trí tuệ của con người Việt Nam
5. Định hướng của Đảng để góp phần nâng cao nguồn lực con người:
Chăm lo phát triển nguồn lực con người là một định hướng lớn trong chiến lược
phát triển đất nước thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.


Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân lực từ
các đại hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó
Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là
khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá đúng và trúng với hoàn
cảnh nguồn nhân lực nước ta hiện nay khi hội nhập quốc tế, cạnh tranh quyết
liệt và đòi hỏi của thời đại khoa học, công nghệ. Khâu đột phá trúng và đúng
này đã và đang tập trung nâng cao sức mạnh nội sinh - nguồn nhân lực, để tồn
tại và phát triển trong một thế giới năng động, thế giới của khoa học và công
nghệ. Để thực hiện chiến lược này, Đại hội XI cũng nêu rõ những giải pháp trực
tiếp cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đó là: “xây dựng và hồn thiện
giá trị, nhân cách con người Việt Nam”; “đổi mới căn bản và tồn diện nền
giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và
hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”; “Xây dựng và thực hiện chiến
lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam”.
Có thể thấy rõ những định hướng chiến lược của Đảng về phát triển nguồn nhân
lực trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Trước hết, gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội.
Chúng ta nhận thức rõ rằng, để có được những con người phát triển toàn diện,
đủ khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thì việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội để

ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động phải được
coi là nhiệm vụ cấp bách và mang tính quyết định. Vì thế, để có nguồn nhân lực
có chất lượng Đảng và Nhà nước ta đã và đang quan tâm đồng bộ tới những vấn
đề sau:
- Chăm lo đời sống vật chất đi đôi với đời sống tinh thần của người lao động.
Nâng cao đời sống vật chất cho người lao động trước hết thơng qua đường lối,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Điều này được thể
hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Cương lĩnh 1991): “Chính sách xây dựng đúng đắn vì hạnh phúc con
người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(10- Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây
dựng đất nưởc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1991,
tr. 13).

- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hơi. Tình
trạng phân hóa giàu nghèo nhanh chóng cùng với việc phát triển kinh tế thị
trường những năm đổi mới đã tạo ra những hệ lụy về mặt xã hội sâu sắc. Giải
quyết tình trạng này phải giữ vững nguyên tắc vừa bảo đảm kích thích sản xuất


phát triển vừa có chính sách xã hội để tạo nên sự công bằng trong xã hội ở thời
kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phải giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế. Điều
này giúp người lao động nước ta một mặt phát huy được tính tự tơn dân tộc,
quyết tâm phấn đấu cho nền kinh tế nước nhà phát triển sánh vai với các cường
quốc năm châu, mặt khác cũng tạo cơ hội để người lao động Việt Nam có thể
tiếp thu cơng nghệ tiên tiến của thế giới, bồi bổ nguồn nhân lực trong nước, đáp
ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
- Tạo thêm việc làm là trực tiếp phát triển nguồn nhân lực. Vấn đề hết sức áp
lực này phải được giải quyết theo “Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước

cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương
trình kinh tế - xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi người dân, mọi
nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động… Giảm đáng
kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”(11).
- Tăng cường công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất cho
người lao động và mọi người dân, đẩy mạnh kế hoạch dân số - kế hoạch hóa gia
đình là bảo đảm thể chất và tính ổn định của nguồn nhân lực.
- Ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội vừa trực tiếp bảo đảm thể chất cho nguồn
nhân lực của đất nước, vừa hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt Nam.
Thứ hai, gắn việc phát triển nguồn nhân lực với q trình dân chủ hóa, nhân
văn hóa đời sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống
và hiện đại. Đó là quan điểm tạo môi trường lành mạnh cho các giá trị sống của
nguồn nhân lực phát triển. Để có được mơi trường đó, trước hết phải coi trọng
giáo dục đạo lý làm người, ý thức, trách nhiệm công dân, tinh thần yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống văn hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc dân
tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền đồ của đất nước.
Thứ ba, nâng cao chất lượng sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công
nghệ. Đảng ta đã chỉ rõ: “Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí
thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, kể cả người Việt nam ở nước ngoài”(13(13) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng, Nxb. ). Giải quyết tốt vấn đề này là tạo được yếu tố nội sinh của nguồn

nhân lực, cơ sở bền vững cho phát triển và hội nhập. Chính phủ cần khuyến khích
và tạo điều kiện cho việc hình thành hệ thống giáo dục theo mơ hình doanh nghiệp,
liên kết đào tạo những lĩnh vực mà xã hội, doanh nghiệp cần, nhất là lực lượng lao
động có tay nghề cao, chuyên mơn giỏi, đồng thời khích lệ hoạt động sáng tạo của
người lao động để thích ứng với mọi điều kiện; rèn luyện tính tự lực, tự cường, tìm tịi
sáng tạo cùng với việc chú trọng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ các
nhà khoa học, nhà sáng chế, các chuyên gia nước ngoài để giảng dạy, truyền đạt và
tương tác trong lao động, trong giáo dục ở nước ta.


III.

KẾT LUẬN


Thực hiện vai trò chủ thể, động lực của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN, NLCN
nước ta phải đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng. Muốn vậy, phát triển NLCN phải
được xác định là vấn đề chiến lược và tập trung mọi nguồn lực để đầu tư mạnh vào “vốn con người”. Phải
xem đây là bước chuẩn bị quan trọng và là khâu đột phá để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế-xã hội
và thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu, thành tựu thu được ngày càng to lớn
và được khẳng định. Quan điểm về xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế được Đảng thể hiện sâu sắc với quyết tâm chính trị cao và sự đồng
thuận rộng lớn của toàn xã hội. Đó là những định hướng để nguồn nhân lực của
đất nước phát triển nhanh, lành mạnh, đúng hướng
Nhờ có những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trình độ dân trí ngày càng cao, đời sống
của người dân được cải biến rõ nét, con người được tạo điều kiện phát triển toàn diện, cả về thể chất
lẫn tinh thần; cả về thể lực, trí lực và tâm lực. Đảng ta luôn luôn thể hiện sự quan tâm, coi con người
là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người” đã luôn trở thành tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng
của Đảng ta.




×