Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

QUẢN lý CHUỖI CUNG cấp TOÀN cầu CHƯƠNG II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.4 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

BÀI TẬP NHĨM
Mơn học:
QUẢN LÝ CHUỖI CUNG CẤP TỒN CẦU CHƯƠNG
II
NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA LOGISTICS
Giáo viên giảng dạy : TS. Nguyễn Văn Nghiến
Học viên thực hiện : Trần Ngọc Anh
Lê Thị Mai Anh
Nguyễn Hồng Anh
Nguyễn Ngọc Ánh
Hà Vân Ánh
Lớp:

2014B QTKD2

Hà Nội, tháng 11 năm 2015
CHƯƠNG II


NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA LOGISTICS
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau khi đọc chương này , bạn sẽ có thể nắm được các kiến thức như sau :
-

Hiểu được vai trò và tầm quan trọng của logistics trong các tổ chức tư nhân và
công cộng.
Thảo luận về tác động của logistic cho nền kinh tế và hiệu quả của quản lý logistics
góp phần vào sức sống của nền kinh tế.


Hiểu được vai trò giá trị gia tăng của logistíc trên cả tầm vĩ mơ và vi mơ.
Giải thích hệ thống logistics từ một số quan điểm .
Hiểu được mối quan hệ giữa logistics và các các lĩnh vực chức năng quan trọng
khác trong một công ty , bao gồm sản xuất , tiếp thị và tài chính.
Thảo luận về các hoạt động quản lý quan trọng trong chức năng logistics.
Phân tích hệ thống logistics từ những quan điểm khác nhau để đáp ứng các mục
tiêu khác nhau.
Xác định tổng chi phí và hiểu được các chi phí thương mại trong một hệ thống
logistics từ quan điểm tĩnh và động.
1-TÌNH HUỐNG CƠNG TY JORDANO
Susan Weber, phó TGĐ về logistíc cho cơng ty thực phẩm Jordano, vừa hoàn
thành Tin nhắn e-mail cho các thành viên khác trong Ban điều hành của cơng ty.
THƠNG ĐIỆP E-MAIL
Tơi vừa trở về từ một cuộc họp dài với Sue Pur-dum, Giám đốc điều hành
của SAB Distribution. Sue đang chịu sức ép rất lớn từ ban giám đốc của mình để
nâng cao lợi nhuận của SAB. SAB đã nhận được một đề nghị từ nhà phân phối
khác mua lại công ty, và một số thành viên của hội đồng quản trị SAB đã khuyến
cáo rằng các đề nghị có thể được chấp nhận. Sue Purdum cảm nhận mạnh mẽ rằng
SAB có thể "quay trở lại", có nghĩa là, lợi nhuận và tăng trưởng có thể được cải
thiện. Cơ gặp gỡ tất cả các nhà cung cấp lớn và các khách hàng của SAB để đề
nghị thêm cách tiếp cận chuỗi cung ứng tương tác nhiều hơn trong hoạt động cung
ứng của họ.
Tôi không chắc rằng tôi hiểu rõ tất cả các phương diện của việc quản lý
chuỗi cung ứng, nhưng ý tưởng của Sue Purdum có ý nghĩa với tơi. Cơ cảm thấy
rằng nếu cơ ấy có thể làm việc gắn bó hơn với các nhà cung cấp lớn của SAB
(chúng tôi là nhà cung cấp lớn thứ 6 của họ) và những khách hàng lớn ( trong số
15-20 khách hàng đứng đầu), thì sẽ giảm được chi phí một cách đáng kể. Cô ấy


cũng bị thuyết phục rằng những tiết kiệm về chi phí này khơng phải là phí dịch

vụ. Trong thực tế, cơ ấy đã cho ví dụ về vị trí các cơng ty trong một chuỗi cung
ứng đã giảm chi phí và cải thiện dịch vụ. Tôi quan tâm về việc làm thế nào tiết
kiệm được chi phí. Sue Purdum bảo đảm với tơi rằng đó là sự tiếp cận đơi bên
cùng có lợi. Cơ ấy cảm thấy chắc chắn rằng hầu hết các khoản tiết kiệm nên theo
hướng giảm giá để làm cho chuỗi cung ứng của chúng ta cạnh tranh hơn. Năng lực
cạnh tranh được cải thiện sẽ dẫn đến doanh số bán hàng tăng lên đối với tất cả các
thành viên của chuỗi cung ứng, từ đó sẽ cải thiện lợi nhuận của chúng ta.
Một cách tiếp cận khác Sue Purdum đề cập trong thông điệp là các thành
viên trong chuỗi cung ứng lớn không chỉ phải cải thiện hệ thống logistics nội bộ
mà còn phải cố gắng phối hợp các hoạt động logistics của họ bằng cách hợp tác và
chia sẻ thơng tin thích hợp.
Tơi sẽ u cầu Paul Durkin, quản lý kho, Tracie Shannon, quản lý hàng tồn
kho, Sue Kolbe, quản lý vận chuyển, và Jean Beierlein, phó giám đốc dịch vụ
chăm sóc khách hàng, để tạo thành một nhóm làm việc. Chúng ta sẽ tổ chức cuộc
họp hàng tuần và sẽ cập nhật tất cả các giám đốc và quản lý trên cơ sở hàng
tháng. Thông tin đầu vào của mỗi người sẽ là một phần quan trọng của chương
trình này.
2- BỐI CẢNH CƠNG TY THỰC PHẨM JORDANO
Công ty thực phẩm Jordano được thành lập vào năm 1950 tại Lewistown,
Pennsylvania, bởi hai anh em, Luigi và Mario Jordano. Cha mẹ của 2 anh em điều
hành một nhà hàng ở Burnham, Pennsylvania, về ẩm thực Ý. Marie Jordano nổi
tiếng về kỹ năng nấu nướng. Bà phát triển các cơng thức về nấu nước sốt mì ống
của riêng mình, thịt viên, mì ống tươi và khơ,... Luigi và Mario đã làm việc trong
nhà hàng trước khi thành lập Công ty thực phẩm Jordano. Họ thấy rằng họ có thể
tận dụng trên cơng thức nấu ăn của gia đình bằng cách bán mì ống, nước sốt, và
một số sản phẩm liên quan đến thức ăn Ý tới các nhà hàng khác trong các thị
trường lân cận ở trung tâm Pennsylvania.
Liên doanh ban đầu của họ đã thành công đến nỗi họ mở rộng dây chuyền
sản phẩm và bắt đầu bán sản phẩm của họ cho các nhà bán buôn nhỏ và vừa và các
nhà phân phối trên khắp Pennsylvania. Họ xây dựng một nhà máy ở Lewistown,

Pennsylvania, để sản xuất các sản phẩm thực phẩm và sau đó xây dựng một nhà
máy khác ở Elizabethtown, Pennsylvania và một nhà kho ở Mechanicsburg,
Pennsylvania.
3- THỰC TRẠNG


Những năm 1980 và 1990 là thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ đối với công ty
thực phẩm Jordano. Mario và Luigi vẫn cịn làm việc trong cơng ty với vai trò là
chủ tịch/giám đốc điều hành và kiêm chủ tịch hội đồng quản trị. Doanh số bán
hàng hiện tại đã vượt trên 300 triệu USD mỗi năm và đã xây dựng nhà máy thứ ba
ở phía tây Pennsylvania gần Uniontown. Cơng ty đã đào tạo một nhóm chun
nghiệp để phụ trách các bộ phận chức năng chính. Susan Weber đã được tuyển
dụng vào năm 1995 để phụ trách về lĩnh vực logistics, trước đó bộ phận này khơng
được chú ý nhiều cho tới khi Susan được tuyển dụng. Sự nghiệp của cô ấy tại P&G
đã đem lại cho cô ấy nhiều kinh nghiệm tại tất cả các giai đoạn của logsticss. Đó là
kinh nghiệm của cơ ấy với hệ thống lập kế hoạch, điều đó đã đặc biệt thu hút Mario
Jordano khi phỏng vấn.
Việc thay đổi cho một công ty tương đối nhỏ là thách thức đầu tiên đối với
Susan nhưng tới thời điểm này cô ấy vẫn rất hài lịng với vai trị của mình. Dưới sự
lãnh đạo của cô, một số sáng kiến về quản lý kênh phân phối và hàng tồn kho đã
được thực hiện. Cô đã rất ủng hộ cách tiếp cận hợp tác của Sue Purdum. Cô ấy dồn
tâm sức vào nỗ lực hợp tác bước đầu của P&G với các bên cung cấp. Cô muốn
nhóm làm việc của mình phân tích làm thế nào họ có thể cải thiện hệ thống
logistics đầu vào và logistic đầu ra của họ không chỉ để hoạt động hiệu quả hơn mà
còn cung cấp dịch vụ tốt hơn cho các nhà máy của họ (đầu vào) và khách hàng của
họ, chẳng hạn như nhà phân phối SAB (đầu ra).
Weber nhận ra những nhóm chức năng được cơ bổ nhiệm cần phải hoạt động
trên một quan điểm hệ thống, thêm vào đó cả nhóm phải phối hợp với bộ phận sản
xuất/chế biến và bộ phận marketing. Cô ấy quan tâm tới việc phối hợp giữa sản
xuất và marketing bởi vì theo cách truyền thống những bộ phận này hoạt động rất

độc lập và dường như họ miễn cưỡng khi xem xét lời đề nghị mà cô đã đưa ra về
việc thắt chặt hơn mối quan hệ và thảo luận về sự cân bằng các bộ phận.
Weber đã cố gắng giữ một thái độ cởi mở. Cô nhận thấy rằng anh em
Jordano đã quản lý và phát triển bộ phận sản xuất và marketing trong suốt những
năm đầu thành lập và cả hai bộ phận này được coi là cơ sở cho sự thành công của
công ty. Logistics là một bộ phận mới đối với công ty JorDano Foods. Trong cơng
ty có những người hồi nghi về giá trị gia tăng của logistics mang lại lợi nhuận và
vị thế cạnh tranh cho công ty thực phẩm Jordano.
“Minh chứng” của Susan Weber đã thực sự "đầy đủ" với cả những thách
thức nội bộ và bên ngoài và áp lực để chứng minh tầm quan trọng của các chức
năng logistics. Trong suốt chương này sẽ xác định các bộ phận đối với cơng ty
Jordano food để cải thiện q trình Logistics của mình và mối quan hệ chuỗi cung
ứng với hệ thống phân phối SAB.
GIỚI THIỆU


Như đã chỉ ra ở phần trước, quản lý chuỗi cung ứng đã thu hút sự chú ý
và quan tâm của nhiều giám đốc điều hành cấp cao. Logistics chưa được hiểu đúng
và thường bị bỏ qua sự hào hứng xung quanh quản lý chuỗi cung ứng và tất cả
công nghệ liên quan đã được phát triển để hỗ trợ chuỗi cung ứng. “Glitter and
glitz” kết hợp với chuỗi cung ứng điện tử, bán lẻ điện tử, và thương mại điện tử,
dường như đã làm lu mờ tầm quan trọng của logistics trong công ty và sự cần thiết
phải hỗ trợ logistics hiệu quả trong chuỗi cung ứng. Logistics có thể được xem như
bình thường bởi một vài cá nhân và khi so với chuỗi cung ứng như là áp lực và trì
hỗn.
Những chun gia logistics và những nhà quản lý hiểu biết khác cũng nhận ra
được điều đó, mặc dù tất cả sự cường điệu về Internet, những công ty thành công
cũng phải quản lý thực hiện đơn hàng cho khách hàng của họ một cách hiệu quả để
xây dựng và duy trì lợi thế cạnh tranh và lợi nhuận. Nhiều câu chuyện về sự thất
bại của kênh bán lẻ điện tử trong mùa Giáng Sinh năm 1999 đã cung cấp bằng

chứng về sự cần thiết của hệ thống logistics cơ bản cho dịch vụ tốt. Sự tinh vi và
quyến rũ của hệ thống front-end không thể đứng một mình trong thị trường cạnh
tranh tồn cầu của ngày nay-cơng việc back office (hậu cần) lại là rất quan trọng
đem đến sự hài lòng của khách hàng. Thực tế, tốc độ đặt hàng thông qua Internet
và các công nghệ khác làm tăng thêm sự cần thiết đối với một hệ thống logistics
hiệu quả và điều đó có thể có thể triển khai phù hợp với mức độ hàng tồn kho, tốc
độ hoàn thành đơn đặt hàng tới khách hàng, và quản lý bất kỳ hàng hoá trả lại. Câu
khẩu hiệu thường được trích dẫn "Logistics tốt là sức mạnh kinh doanh " là rất
đúng đắn vì nó giúp xây dựng lợi thế cạnh tranh. Vì vào cuối ngày,nếu bạn khơng
giao được sản phẩm cho khách hàng của bạn, bạn sẽ không thể tồn tại lâu
được. Điều này không phải là để nói rằng bạn khơng cần sản phẩm có chất lượng
và marketing hiệu quả. Cả hai rõ ràng là rất quan trọng, nhưng chúng phải được kết
hợp hệ thống logistics một cách hiệu quả cho thành công lâu dài và khả năng tài
chính của mình.
Thách thức lớn được đặt ra ở đây làm thế nào để quản lý được toàn bộ hệ
thống logistic theo cách đáp ứng đầy đủ các yêu cầu và có lẽ vượt xa sự mong đợi
của khách hàng. Đồng thời, thị trường cạnh tranh đòi hỏi tính hiệu quả của việc
kiểm sốt vận chuyển và các chi phí khác liên quan đến logistics. Như đã được
thảo luận, chi phí và dịch vụ thương mại có thể được xem xét khi đánh giá mức độ
dịch vụ khách hàng và tổng chi phí liên quan đến logistics, nhưng cả hai mục tiêu:
Hiệu quả và sự cần thiết của logistics là rất quan trọng trong môi trường cạnh tranh
ngày nay.
Điều quan trọng là ngay từ đầu để phân biệt giữa quản lý logistics và quản
lý chuỗi cung ứng, hoặc thích hợp hơn, kết hợp hai khái niệm này với nhau. Trong
chương tiếp theo, quản lý chuỗi cung ứng được định nghĩa bằng cách sử dụng
một chuỗi tương tự với sự bắt đầu của chuỗi đại diện cho các nhà cung cấp ban


đầu và kết thúc của chuỗi là đại diện cho khách hàng cuối cùng (xem Hình 2-1).
Nói cách khác, nó là một chuỗi mở rộng của các doanh nghiệp từ nhà cung

cấp của nhà cung cấp đến khách hàng cuối cùng.
Một quan điểm khác về quản lý chuỗi cung ứng là nó là một mạng
lưới của hệ thống logistics và các hoạt động liên quan của tất cả các công ty tổ
chức cá nhân mà là một phần của một chuỗi cung ứng cụ thể. Hệ
thống logistics đơn lẻ rõ ràng đóng một vai trị trong sự thành cơng của cả chuỗi
cung ứng.Tổng thể sự phối hợp hay tích hợp của hệ thống logistics trong một
chuỗi cung ứng là một thách thức. Để đánh giá đầy đủ động lực của thách thức
này, cần thiết để kiểm tra và khảo sát một hệ thống logistics riêng lẻ. Trong trường
hợp công ty thực phẩm Jordano, Sue purdum cần phải hiểu các mối quan
hệ logistics trước khi cơ có thể đồng bộ hóa với toàn bộ chuỗi cung ứng SAB.
Trọng tâm của chương này là phương diện của hệ thống logistics riêng lẻ nhưng
phải nhìn nhận rằng khơng có tổ chức logistics nào hoạt động xa rời các tổ chức
khác. Ví dụ, phần đầu vào của hệ thống logistics của nhà sản xuất là đầu ra của hệ
thống logistics của nhà phân phối. Đầu ra của hệ thống logistics của nhà sản xuất là
đầu vào của hệ thống logistics của khách hàng.
Hình 2-1 Sơ đồ chuỗi cung ứng hiện đại

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu chuỗi cung ứng, Đại học bang Penn.
Như đã đề cập trong các phiên bản trước, logistics đã đi một chặng đường dài
từ những năm 1960. Các đánh giá ngày càng cao về giá trị liên quan tới logistics
tốt và sự quản lý cải tiến về hệ thống logistics đã dẫn đến thay đổi đáng kể và hiệu
quả đã được cải thiện. Để đạt được một số đánh giá cao về những tiến bộ đã được
thực hiện, điều đó rất hữu ích để kiểm tra chi phí liên quan đến logistics trong nền
kinh tế.
Logistics trong nền kinh tế: Một góc nhìn vĩ mơ


Có thể nói, chi phí tuyệt đối của logistics trên cơ sở vĩ mô sẽ tăng với sự
tăng trưởng của nền kinh tế. Nói cách khác, nếu chúng ta sản xuất và tiêu thụ hàng
hóa và dịch vụ nhiều hơn, thì tổng chi phí sẽ tăng liên quan đến tất cả hoạt động

logistics của mỗi và mọi tổ chức. Để xác định hiệu quả của hệ thống logistics,
chúng ta cần phải đo lường tổng chi phí logistics về tổng sản phẩm quốc nội, chỉ số
được chấp nhận rộng rãi và được sử dụng để đánh giá tỷ lệ tăng trưởng của nền
kinh tế.
Như đã chỉ ra trong hình 2-2, chi phí logistics như là tỷ lệ phần trăm trong
tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nó đã giảm kể từ năm 1980 từ 16% xuống dưới
10%. Trong thực tế, chi phí logistics chiếm gần 20% GDP vào đầu tới giữa những
năm 1970. Robert Delaney, phó chủ tịch của Cass logistics ở St Louis, đã phát triển
và công bố số liệu cấp độ vĩ mô logistics trong hơn mười năm. Báo cáo hàng năm
của ông là một thước đo được công nhận rộng rãi cho các chi phí logistics.
Hình 2-2 Logistics Chi phí Logistics trong phần trăm của GDP

Nguồn: Robert Delaney, Hệ thống thơng tin Cass
Như có thể dễ dàng nhìn thấy từ hình 2-2, chi phí logistics trên cơ sở tương
đối ( so với GDP) đã giảm trong quá trình hơn hai mươi năm qua. Đó là, đã có một
cải tiến đáng kể trong hiệu quả của toàn hệ thống logistics của các công ty
khác nhau hoạt động trong nền kinh tế. Sự giảm về chi phí tương đối này
giảm cho phép các cơng ty cạnh tranh hơn vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến chi
phí sản xuất hàng hố (COGS). Nó có thể được lập luận rằng thay đổi hồn
tồn đã xảy ra trong khả năng tồn tại kinh tế toàn cầu của Hoa Kỳ, là một phần
do sự cải thiện trong chi phí logistics. Những năm 1990 là hồn toàn trái ngược với


những năm 1970 và đầu những năm 1980, khi sự cạnh tranh trong kinh tế quốc gia
của chúng ta được đặt câu hỏi nghiêm túc trong mối quan hệ với các nước ở Tây
Âu và trên bờ Thái Bình Dương.
Một số hiểu biết thêm về logistics bằng cách kiểm tra ba loại chi phí chính
trong phương pháp đo lường của Delaney về logistics hàng năm: chi phí lưu
trữ, chi phí vận chuyển và chi phí quản lý. Nói một cách đơn giản, chi phí lưu trữ
là tất cả chi phí phát sinh khi lưu trữ hàng trong kho. Chi phí lưu trữ bao gồm chi

phí lãi vay (hoặc chi phí cơ hội liên quan đến đầu tư và hàng hoá trong kho), kho
bãi, chi phí liên quan đến rủi ro (lỗi thời, hư hỏng, thiệt hại) và các chi phí liên
quan đến dịch vụ (bảo hiểm, thuế). Chi phí vận chuyển là tổng số chi tiêu quốc
gia cho sự di chuyển của hàng hóa trong nước Mỹ. Chi phí thứ ba của logistics là
chi phí quản lý quan đến việc quản lý các hoạt động logistics
Hình 2 -3 mơ tả những loại chi phí logistics trong năm 1999

Nguồn: Robert Delaney, Hệ thống thơng tin Cass
Tổng chi phí logistics được trình bày trong Hình 2-3 cho năm 1999 là
921USD tỷ dường như đã khơng phản ánh đầy đủ chi phí thực
sự của logistics trong nền kinh tế bởi vì nó đã không thể hiện bao gồm một số hoạt
động của logistics mà đã được thảo luận trong chương này. Tuy nhiên, dự
tốn chi phí được cung cấp bởi Delaney nắm bắt các loại chi phí lớn, nhưng, quan
trọng hơn, xu hướng mười năm của chi phí logistics của nền kinh tế được thể
hiện trong hình 2-3.


Xu hướng giảm chi phí logistics liên quan đến tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) chỉ ra trong hình 2-3 là rất quan trọng cần lưu ý. Sự suy giảm bắt đầu
vào đầu những năm 1980 và liên quan chặt chẽ đến bãi bỏ quy định vận
chuyển, cho phép sự linh hoạt nhiều hơn nữa cho các phương tiện để điều chỉnh tỷ
giá và dịch vụ nhằm đáp ứng cạnh tranh.Tóm lại tỷ lệ giá vận chuyển suy giảm để
đáp ứng trong thời kỳ mới mơi trường có ít quy định hơn.
Một yếu tố thứ hai góp phần vào xu hướng này là việc quản lý hàng tồn kho
đã được cải thiện. Đây là kết quả của việc tập trung đầu tư vào hàng tồn kho và các
công cụ quản lý tốt hơn về kỹ thuật để có quyết định hiệu quả hơn (Chương 7
và Chương 8 thảo luận về những công cụ này chi tiết hơn).
Trên cơ sở vĩ mô, Cục Dự trữ Liên bang công bố dữ liệu về tỷ lệ hàng tồn
kho phục vụ bán hàng (xem Hình 2-4). Nói cách khác, có bao nhiêu hàng tồn
kho cơng ty thực hiện để hỗ trợ doanh số bán hàng? Điển hình, người ta có

thể mong đợi lượng hàng tồn kho tăng cùng với doanh số bán hàng tăng. Hình 24 cho thấy một xu hướng rất thú vị của hàng tồn kho giảm tương đối để bán
hàng. Đây là một biện pháp hiệu quả và rõ ràng chỉ ra rằng các công
ty đang cải thiện việc quản lý hàng tồn kho của họ. Nhìn chung, các cơng ty hỗ
trợ để tăng trưởng doanh số bán hàng với một mức độ hàng tồn kho thấp hơn nhiều
trên cơ sở tương đối.
Hình 2-4 Tỷ lệ hàng tồn kho-Kinh doanh

Nguồn: Ngân hàng Dự trữ Liên bang St. Louis
Ngoài ra để tập trung quản lý hàng tồn kho và vận chuyển hiệu quả hơn, toàn
bộ hệ thống logistics cần nhận được nhiều sự quan tâm hơn nữa. Điều này chắc
chắn xảy ra khi các nhà quản lý Mỹ đã nhận ra sức mạnh của thông
điệp được gửi bởi Peter Drucker trong một bài báo viết cho tạp chí Fortune 1962:1
Phân phối là một trong những lĩnh vực bị lãng quên thật đáng buồn
nhất nhưng là lĩnh vực hứa hẹn nhất của doanh nghiệp Mỹ....Hiện nay chúng ta biết
rất ít về phân phối như hiểu biết của những người cùng thời Napoleon về Châu


Phi. Chúng ta biết mấu chốt vấn đề nằm ở đó, và chúng ta biết đó là vấn đề lớn,
và đó là tất cả.... Hầu hết các khái niệm hiện nay của chúng ta tập trung vào sản
xuất hoặc trên các dịng tiền và tín dụng, chứ khơng phải là dịng chảy
của hàng hóa vật chất và đặc điểm kinh tế của nó....Để có được kiểm sốt phân
phối địi hỏi phải nhìn nhận và quản lý nó như là một chiều hướng khác biệt của
doanh nghiệp và là một tài sản của sản phẩm và q trình chứ khơng phải là tập
hợp các công việc kỹ thuật.
Nhân viên thu mua cơng nghiệp phải biết tình hình kinh doanh của
mình. . . .Anh ấy phải biết những sản phẩm hoặc sự cung cấp mà anh ta mua đóng
góp vào kết quả kinh doanh cuối cùng của cơng ty là gì. Mục đích của tơi chỉ ra
cơng việc phân phối như là một lĩnh vực nơi mà địi hỏi sự thơng minh và chăm chỉ
để có thể tạo ra kết quả đáng kể cho doanh nghiệp Mỹ. Trên tất cả, có nhu cầu cho
một định hướng mới đề cao tầm quan trọng của hoạt động phân phối trong thiết

kế kinh doanh, kế hoạch kinh doanh, và chính sách kinh doanh với chi phí đảm bảo
của nó.
Hai loại chi phí lớn nhất trong bất kỳ hệ thống logistics trong bất kỳ công
ty nào là chi phí vận tải và chi phí hàng tồn kho. Như đã chỉ ra, chi phí vận chuyển
thường là chi phí lớn nhất trong bất kỳ hệ thống logistics nào.
Vận tải hàng hóa với tổng chi phí là 450 tỷ USD so với 99 tỷ USD cho tất
cả các chi phí vận chuyển khác. Mức chi phí này phản ánh giá trị cho người gửi
hàng/người được sử dụng dịch vụ. Vấn đề này sẽ được thảo luận trong chương về
vận chuyển hàng hóa, nhưng cần được chú ý trong nội dung này vì quản lý
logistcis cần nhìn vào tổng chi phí của các hoạt động logistics, chứ khơng chỉ là
một chi phí như vận chuyển hàng hóa.
Cũng đáng chú ý là một trong những vẫn đề đánh đổi thường
xuyên nhất trong các hệ thống logistics trong một công ty là giữa chi phí vận
chuyển hàng hóa và chi phí hàng tồn kho. Ví dụ, một cơng ty có thể sẵn sàng
trả mức giá cao hơn nhiều cho dịch vụ vận tải hàng khơng bởi vì các khoản tiết
kiệm trong các chi phí liên quan đến hàng tồn kho. Trong việc đánh giá sự đánh
đổi này, nhiều công ty đang sử dụng một cách tiếp cận hệ thống (sẽ được đề
cập chi tiết hơn trong những phần sau) để đi đến tổng chi phí thấp nhất.

Logistics là gì?
Thuật ngữ logistics đã được biết đến rộng rãi hơn bởi những ngành dịch vụ
cơng cộng trong hai mươi năm qua. Ví dụ như quảng cáo truyền hình để nâng
cao tầm quan trọng của logistics. Công ty vận tải, đặc biệt là các công ty vận tải
đường bộ, thường xuyên dựa vào các tổ chức như các công ty logistics và in quảng
cáo bên hông các phương tiện vận tải của họ. Chiến tranh vùng Vịnh Ba


Tư có thể đóng góp vào thúc đẩy việc cơng nhận logistic vì các nhà bình luận tin
tức thường xuyên đề đến những thách thức của logistics với cái gọi là 7.000 dặm
“đường ống cấp" để hỗ trợ các nỗ lực chiến tranh ở các nước vùng Vịnh Ba Tư.

Một yếu tố khác góp phần cơng nhận tầm quan trọng của logistics đó là sự
nhạy cảm của chúng ta về cả chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ liên quan
đang tăng lên. Ví dụ, thất bại được đề cập đến trong suốt mùa Giáng sinh năm
1999 việc liên kết với các nhà bán lẻ trên mạng đã được công bố rộng
rãi và thường bị nhắc đến như là sự thất bại của hệ thống logistics. Nhưng ngay
cả trước khi thời gian đó, khi những cửa hàng khơng dự trữ một số mặt hàng chúng
ta muốn mua hay khi chúng ta đã không nhận được hàng vào khoảng thời gian
chúng ta mong đợi, chúng ta vẫn sẽ đổ lỗi cho hệ thống logistics.
Ngay cả việc công nhận thuật ngữ logistics được tăng lên thì vẫn cịn sự
nhầm lẫn về định nghĩa của logistics hay thực sự ý nghĩa của logistics là gì. Một số
nhầm lẫn có thể hiểu được nguồn từ thực tế là có một số từ ngữ được sử
dụng bởi các cá nhân khi họ đề cập đến những gì đã được mơ tả trong chương này.
Ví dụ, xem xét danh sách sau đây:
Quản lý logistics
Quản lý kinh doanh logistics
Quản lý logistic tích hợp
Quản lý vật tư
Quản lý phân phối
Logistics marketing
Logistics công nghiệp
Phân phối
Quản lý logistics là một thuật ngữ được chấp nhận rộng rãi nhất và
gồm logistics không chỉ trong lĩnh vực doanh nghiệp tư nhân mà còn trong các
doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức phi lợi nhuận. Ngồi ra, các cơng ty trong
lĩnh vực dịch vụ bao gồm ngân hàng, bệnh viện, nhà hàng, khách sạn, và cả những
thách thức và vấn đề về logistics, và quản lý logistics là một khái niệm thích
hợp cho ngành cơng nghiệp dịch vụ.
Một phần của vấn đề định nghĩa là thực tế logistics đã được mô
tả bởi nhiều nguồn có quan điểm hơi khác nhau. Bảng 2-1 minh họa một số định
nghĩa này cùng quan điểm.

Đối với các mục đích của văn bản này, định nghĩa của Hội đồng Quản lý
logistics được sử dụng. Tuy nhiên, điều quan là logistics khi còn chưa rõ nguồn
gốc đã được sử dụng trong quân đội và nó là hoạt động quan trọng trong quốc
phòng.
Theo quân sự, định nghĩa logistics bao gồm việc cung ứng vật tư cũng như
con người. Có báo cáo rằng thuật ngữ logistics trở thành một phần của từ vựng


trong quân sự vào thế kỷ 18 ở châu Âu. Nhân viên logistics chịu trách nhiệm
cho việc dựng trại và đóng quân cũng như lưu trữ cung cấp vật tư.
Khái niệm logistics bắt đầu xuất hiện trong các tài liệu liên quan đến kinh
doanh trong những năm 1960 dưới tên gọi phân phối hàng hóa vật chất, trong đó
tập trung vào hệ thống logistics bên ngồi (xem hình 2-7). Trong những năm 1960,
logistics quân sự bắt đầu tập trung vào sự quan trọng kỹ thuật về độ tin cậy của
logistics, bảo trì, quản lý cấu hình, quản lý vịng đời, hỗ trợ cung cấp liên
tục, và như vậy gia tăng tầm quan trọng bằng phân tích định lượng và mơ hình.
Ngược lại, những ứng dụng kinh doanh hoặc thương mại thường được tập trung
vào khách hàng tiêu dùng hàng hóa không lâu bền liên quan đến marketing và phân
phối sản phẩm hoàn chỉnh. Logistics liên quan đến kỹ thuật, như là thực hiện trong
quân đội, thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp
mà sản phẩm phải bảo dưỡng sửa chữa các bộ phận trong vòng đời của sản phẩm
như máy phát điện, máy bay, thiết bị sản xuất, etc. Trong thực
tế, các kỹ sư phát triển một tổ chức chuyên nghiệp riêng biệt được gọi là Hội kỹ
sư logistics (SOLE), đã tham gia tích cực tại cả các doanh nghiệp thương mại và
quân đội.
BẢNG 2-1 Các định nghĩa Logistics
Nội dung

Định nghĩa


Hàng tồn kho

Quản lý vật liệu trong chuyển động và đứng yên

Quý khách hàng

Chọn đúng sản phẩm, tới đúng khách hàng , trong
đúng số lượng, đúng điều kiện , đúng nơi, đúng
lúc, và với chi phí đúng (gọi là bảy Rs của
Logistics)

Từ điển

Các chi nhánh của khoa học quân sự có thể thực
hiện mua sắm, bảo quản và vận chuyển vật liệu,
nhân sự và trang thiết bị

Hiệp hội Logistics quốc tế

Nghệ thuật và khoa học quản lý, thiết kế, và các
hoạt động kỹ thuật đáp ứng yêu cầu thiết kế, cung
cấp và duy trì nguồn lực để hỗ trợ các mục tiêu, kế
hoạch và hoạt động

Lợi ích / giá trị

Đem lại thời gian và địa điểm tiện ích cho nguyên
vật liệu và các sản phẩm hỗ trợ các mục tiêu tổ
chức



Hội đồng quản lý Logistics

Đó là một phần của quá trình chuỗi cung ứng gồm
việc hoạch định và kiểm sốt hiệu quả, dịng chảy
có hiệu quả và lưu trữ hàng hóa, dịch vụ, và các
thơng tin liên quan từ điểm cung ứng đến điểm
tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của khách hàng

Chức năng Quản lý

Xác định các yêu cầu vật liệu thu mua, vận
chuyển, quản lý hàng tồn kho, nhập kho, ngun
vật liệu, bao bì cơng nghiệp, phân tích vị trí cơ sở,
phân phối, xử lý hàng hóa bị trả lại, quản lý thông
tin, dịch vụ khách hàng, và tất cả các hoạt động
khác liên quan đến việc hỗ trợ các khách hàng nội
bộ (sản xuất) với các vật liệu và các khách hàng
bên ngoài (các cửa hàng bán lẻ) với sản phẩm

Văn hóa chung

Xử lý các chi tiết hoạt động

Nguồn: Trích từ Stephen H. Russell, "Một lý thuyết chung về Thực hành Logistics,"
Tạp chí Air Force Logistics 24, no. 4 (2000): 15.
Như đã nêu, kinh doanh hoặc thương mại tiếp cận để logistics phát triển
thành logistics đầu vào (quản lý vật tư để hỗ trợ con người sản xuất hoặc vận
hành) và logistics đẩu ra (phân phối hàng hóa thành phẩm để hỗ
trợ marketing) trong những năm 1970 và 1980.Sau đó, trong những năm 1990, lĩnh

vực kinh doanh hoặc thương mại bắt đầu xem xét logistic trong bối cảnh của một
nguồn cung cấp hoặc nhu cầu chuỗi, nó liên kết tất cả các tổ chức từ nhà cung
cấp của nhà cung cấp cho khách hàng của khách hàng. Như đã thảo luận trong
chương trước, chuỗi cung ứng quản lý đòi hỏi một dòng chảy, hợp tác và phối
hợp của vật liệu và hàng hóa thơng qua các hệ thống logistics của tất cả các tổ chức
trong mạng.
Trong thế kỷ 21, logistics nên được xem như là một phần của quản lý và
được phân ra thành:
Logistics kinh doanh: là một phần của quá trình chuỗi cung ứng, nhằm
hoạch định thực thi và kiểm soát một cách hiệu quả và hiệu lực các dòng vận động
và dữ trữ sản phẩm, dịch và thơng tin có liên quan từ các điểm khởi đầu đến điểm
tiêu dùng nhằm thoả mãn những yêu cầu của khách hàng.
Logistic quân đội: là việc thiết kế và phối hợp các phương diện hỗ trợ và
các thiết bị cho các chiến dịch và trận đánh của lực lượng quân đội. Đảm bảo sự
sẵn sàng, chính xác và hiệu quả cho các hoạt động này.


Logisc sự kiện: là tập hợp các hoạt động, các phương tiện vật chất kỹ thuật
và con người cần thiết để tổ chức, sắp xếp lịch trình, nhằm triển khai các nguồn lực
cho một sự kiện được diễn ra hiệu quả và kết thúc tốt đẹp.
Dịch vụ logistics: bao gồm các hoạt động thu nhận, lập chương trình, và
quản trị các điều kiện cơ sở vật chất/tài sản, con người, và vật liệu nhằm hỗ trợ và
duy trì cho các quá trình dịch vụ hoặc các hoạt động kinh doanh.
Tất cả bốn loại đều có một số đặc điểm chung và các yêu cầu như lập kế
hoạch, dự báo, và vận tải, nhưng chúng cũng có một số khác biệt về mục
đích chính. Tất cả bốn loại được xem trong một bối cảnh chuỗi cung ứng là đầu
vào và đầu ra của các tổ chức khác đóng một vai trị quan trọng trong thành công
chung và khả năng tồn tại lâu dài. (Xét trong văn bản này là quản lý logistics trong
lĩnh vực kinh doanh.)
Một định nghĩa chung của logistics được sử dụng gồm cả bốn loại hoạt

động logistics là:
Logistics là quá trình dự báo nhu cầu và huy động các nguồn lực như vốn,
vật tư, thiết bị, nhân lực, công nghệ và thông tin để thoả mãn nhanh nhất những
yêu cầu về sản phẩm, dịch vụ của khách hàng trên cơ sở khai thác tốt nhất hệ thống
sản xuất và các mạng phân phối, cung cấp hiện có của doanh nghiệp, với chi phí
hợp lý.
Từ quan điểm của cơng ty thực phẩm Jordano, nên tập trung vào hệ thống
logistics đầu vào và hệ thống logistics đầu ra (đáp ứng các yêu cầu của
khách). Tuy nhiên, Weber có những thách thức bổ sung vào yêu cầu của chuỗi
cungứng tổng thể.
Vai trị giá trị gia tăng của logistics
Hình 2-5 minh họa bốn lợi ích kinh tế gia tăng giá trị cho một sản phẩm
hay dịch vụ gồm hình thái, thời gian, địa điểm, và sở hữu. Thông thường, chúng
ta điều chỉnh các hoạt động sản xuất nhằm đem lại thêm các hình thái hữu dụng,
logistic góp phần tạo ra tính hữu ích về thời gian và địa điểm cho sản phẩm/dịch vụ
và hoạt động marketing đem lại lợi ích sở hữu
Hình thái hữu dụng là giá trị tăng thêm cho hàng hóa thơng qua việc sản
xuất hoặc q trình lắp ráp. Vi dụ, kết quả của hình thái hữu dụng là khi nguyên
liệu thô được xử lý tạo thành sản phẩm. Ví dụ, trong một xưởng đóng chai, xiro,
nước và cacbonat hịa với nhau để thành nước giải khát. Q trình hịa tan vật liệu
thơ với nhau trong việc sản xuất nước giải khát là điển hình cho việt thay đổi hình
thái sản phẩm, gia tăng thêm giá trị cho sản phẩm
Trong môi trường kinh tế hiện nay,các hoạt động logistics cũng đem lại hình
thái hữu dụng. Vi dụ, số lượng lớn các sản phẩm được pha trộn, thường thực hiện
tại trung tâm phân phối, thau đổi hình thức của sản phẩm bằng cách thay đổi kích
thước lơ hàng và đặc điểm đóng gói. Do đó, việc mở một gói ngũ cốc ăn sáng vào


hộp kích thước cho cá nhân gia tăng thêm giá trị cho sản phẩm. Tuy vậy, tiện ích
thời gian và tiện ích địa điểm vẫn là hai tiện ích chủ yếu của logistics

Lợi ích địa điểm: Logistics cung cấp lợi ích địa điểm bằng cách di
chuyển hàng hoá từ điểm sản xuất đến điểm cần. Logistics mở rộng thị trường, do
đó tăng thêm giá trị kinh tế hàng hố vào sản phẩm. Giá trị kinh tế gia tăng thêm
vào hàng hóa và dịch vụ được gọi là lợi ích địa điểm. Logistic tạo ra lợi ích địa
điểm chủ yếu qua vận tải.
Lợi ích thời gian: Khơng chỉ hàng hóa và dịch vụ phải hiện hữu nơi có
người tiêu dùng cần đến chúng, mà hàng hóa và dịch vụ phải có mặt tại nơi khách
hàng yêu cầu. Điều này được gọi là lợi ích thời gian, hoặc giá trị kinh tế thêm vào
một hàng hóa hoặc dịch vụ bằng cách nó có tại điểm yêu cầu trong thời gian cụ
thể. Logistics tạo ra lợi ích thời gian thơng qua việc bảo trì hàng tồn kho và vị trí
chiến lược hàng hóa và dịch vụ. Ví dụ, logistics tạo ra lợi ích thời gian bằng cách
có những sản phẩm được quảng cáo nhiều và bán hàng hóa có sẵn trong các cửa
hàng bán lẻ vào thời điểm chính xác đã hứa trong quảng cáo.
Để mức độ nào đó, vận tải có thể tạo ra các lợi ích thời gian bằng cách di
chuyển hàng hóa nhanh chóng tới điểm yêu cầu. Ngày nay lợi ích thời gian ngày
càng quan trọng vì việc giảm thời gian và giảm thiểu mức hàng tồn kho thông qua
chiến dịch liên quan tới logistics như kiểm soát hàng tồn kho JIT .
Lợi ích sở hữu: Lợi ích sở hữu chủ yếu được tạo ra thông qua hoạt động
marketing cơ bản liên quan đến việc quảng cáo các sản phẩm hoặc dịch vụ. Chúng
ta có thể hiểu rằng quảng cáo là nỗ lực tiếp xúc với khách hàng một cách trực tiếp
hay gián tiếp, để tăng sự mong muốn sở hữu hàng hóa hay lợi ích từ dịch vụ.

Hình 2-5 Những tiện ích cơ bản trong nền kinh tế


Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu chuỗi cung ứng, Đại học bang Penn.
- Nguyên nhân:
Các tiện ích: Các tiện ích chủ yếu được tạo ra thông qua các hoạt động tiếp
thị cơ bản liên quan đến việc thúc đẩy các sản phẩm hoặc dịch vụ. Chúng ta có thể
định nghĩa xúc tiến bán như một nỗ lực, thơng qua q trình tiếp xúc trực tiếp hoặc

gián tiếp với khách hàng để tăng mong muốn sở hữu hoặc hưởng lợi từ một dịch
vụ. Vai trò của logistic trong nền kinh tế phụ thuộc vào những tiện ích đang tồn tại,
như tiện ích về thời gian hoặc địa điểm có ý nghĩa đối với nhu cầu của sản phẩm và
dịch vụ hiện tại. Mặt khác marketing cũng phụ thuộc vào hoạt động logistic bởi vì
các tiện ích khơng thể hoạt động mà khơng phu thuộc vào tiện ích thời gian cũng
như nơi chốn đã đưa ra. Thực hiện đơn hàng là bước quan trọng và thường là bước
cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Logistic trong doanh nghiệp: góc nhìn vi mơ.
Một góc nhìn khác của Logistic theo quan điểm vi mô là nghiên cứu mối
quan hệ giữa Logistic và các bộ phận chức năng khác trong công ty như marketing,
sản xuất, tài chính, kế tốn và các phịng ban khác. Bản chất của Logistic là những
hoạt động xuyên suốt các bộ phận chức năng truyền thống trong doanh nghiệp, đặc


biệt là trong chuỗi cung ứng hiện nay. Do đó, Logistic là một hoạt động không thể
thiếu với tất cả các bộ phận chức năng.
Mối quan hệ giữa Logistic với quá trình sản xuất
- Thời gian vận hành sản xuất
Mối quan hệ cơ bản giữa logistic và quản lý sản xuất là thời gian vận hành
sản xuất. Chúng ta thông thường kết hợp các phương thức sản xuất với thời gian
vận hành dài sử dụng các dây chuyền sản xuất không thường xuyên hoặc chuyển
đổi lẫn nhau. Tuy nhiên, điều này sẽ dẫn đến thành phẩm tồn kho quá mức và sự
hạn chế các nguồn cung cấp. Vì vậy, quyết định sản xuất cuối cùng đòi hỏi nhà
quản lý phải cân nhắc một cách cẩn thận giữa những ưu điểm và nhược điểm của
chu kỳ sản xuất dài so với chu kì sản xuất ngắn. Nhiều ngành cơng nghiệp ngày
nay có xu hướng chạy theo phương thức sản xuất với chu kỳ ngắn, từ đó tiến tới
việc làm bất cứ điều gì để tiết kiệm thời gian và chi phí, phương thức thông thường
là chuyển đổi dây chuyền sản xuất từ sản phẩm này sang sản phẩm khác. Điều này
đặc biệt đúng đối với các công ty sử dụng lao động theo công việc với phương
pháp tiếp cận kiểm kê và lập kế hoạch. Xu hướng này là hướng tới hệ thống "kéo”

trong hoạt động sản xuất/logistic, nghĩa là sản xuất để đáp ứng nhu cầu, ngược lại
với hệ thống “đẩy” là tối ưu hóa nhu cầu. Mức tồn kho thấp hơn làm giảm chi phí
logistic.
- Nhu cầu theo mùa
Quản lý sản xuất được chú trọng bằng việc giảm thiểu các tác động của nhu
cầu theo mùa đối với các sản phẩm. Tuy nhiên, việc dự báo nhu cầu một cách đầy
đủ không phải khi nào cũng thực hiện được; do vậy, để có được lượng sản phẩm
sẵn có mong muốn vào thời điểm và địa điểm cần thiết không phải khi nào cũng
thực hiện được. Ví dụ, thời tiết lạnh và tuyết tích tụ ở các vùng miền khác nhau của
nước Anh làm ảnh hưởng đến doanh số bán hàng của ván trượt tuyết cũng như xe
trượt tuyết. Để tiết kiệm chi phí, tránh trường hợp làm thêm giờ, gấp gáp, và chuẩn
bị tốt cho kế hoạch bán hàng, quản lý sản xuất thường có kế hoạch sản xuất trước
mùa và sản xuất một số lượng tối đa. Khoản chi phí trả trước cho sản xuất này có
thể khơng kinh tế vì chi phí lưu trữ hàng tồn kho lớn. Tuy nhiên, quản lý sản xuất
phải xem xét tính tốn để tiết kiệm chi phí sản xuất. Vì vậy, bộ phận Logistic kết
hợp với sản xuất, phải có sự chuẩn bị hàng hoá sẵn sàng để phục vụ cho theo mùa,
có thể bắt đầu tích luỹ 3-6 tháng trước khi bán hàng. Ví dụ, Hallmark Cards bắt
đầu tích lũy các mặt hàng cho giáng sinh tại kho của nó ở thành phố Kansas trong
những tháng mùa hè, do đó hàng hóa sẽ được chuẩn bị sẵn sàng để vận chuyển đến
các cửa hàng bán lẻ và khách hàng khác trong mùa thu.
- Mối quan hệ với nguồn cung cấp
Từ khi quản lý Logistic chịu trách nhiệm cho việc nhập hàng và lưu trữ
nguyên vật liệu thô cung cấp cho dây chuyền sản xuất thì logistic và sản xuất đều
liên quan mật thiết đến nguồn cung cấp. Tình trạng thiếu hụt kho nguyên vật liệu


có thể dẫn đến việc ngừng sản xuất hoặc tăng chi phí sản xuất. Hoạt động quản lý
Logistic phải đảm bảo nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào khác luôn sẵn sàng
nhằm đáp ứng kịp thời tiến độ sản xuất đồng thời tiết kiệm chi phí lưu kho. Bởi vì
sự cần thiết của việc điều phối vấn đề này, ngày nay nhiều công ty đã chuyển trách

nhiệm của công việc lập kế hoạch sản xuất từ hệ thống quản lý sản xuất sang hệ
thống quản lý logistic. Kết quả cuối cùng là mở rộng trách nhiệm của một hệ thống
logistic tổng thể.
- Vấn đề về bao bì/đóng gói
Một mối quan hệ khác của logistic và sản xuất là vấn đề bao bì. Nhiều
doanh nghiệp xem như là hoạt động của logistic. Trong phạm vi của hoạt động sản
xuất hoặc quản lý Logistic, mục đích chủ yếu của bao bì là bảo vệ sản phẩm khỏi
bị hư hại. Điều này tạo ra sự khác biệt của sản phẩm so với các gói sản phẩm khác
nhằm mục đích cho việc tiếp thị, quảng cáo.
- Nhà cung cấp thay thế
Mối quan hệ giữa logistic và hoạt động sản xuất ngày càng trở nên quan
trọng tập trung vào việc mua sắm nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào mua ngoài
khác. Ngồi ra, nhiều cơng ty ngày nay tiến hành hợp tác với bên thứ ba, hoặc hợp
tác đóng gói, sản xuất, lắp ráp một số hoặc toàn bộ thành phẩm của công ty. Sự hợp
tác này đặc biệt phổ biến trong ngành công nghiệp thực phẩm, nơi mà nhiều công
ty sản xuất mặt hàng thực phẩm chỉ được bán dưới nhãn hiệu của người khác.
Mối quan hệ giữa logistic và quá trình sản xuất với hãng thực phẩm
Jordano là một ví dụ điển hình. Việc cung cấp theo mùa của một số nguyên liệu
như cà chua và nhu cầu nhập khẩu một số mặt hàng địi hỏi phải có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các bên của hệ thống logistic.
- Mối quan hệ giữa Logistic và hoạt động Marketing
Logistics đôi khi được gọi là một nửa của marketing. Lý do cho định nghĩa
này là quá trình phân phối sản phẩm, hàng hoá tới người tiêu dùng. Hệ thống
Logistics chịu trách nhiệm cho việc lưu trữ và phân phối sản phẩm tới khách hàng
và do đó đóng một vai trị quan trọng trong việc bán một sản phẩm. Trong một số
trường hợp, việc phân phối và thực hiện đơn hàng là các yếu tố quan trọng trong
việc bán một sản phẩm, có nghĩa là, khả năng của bạn cung cấp sản phẩm vào lúc
nào và với số lượng bao nhiêu là phù hợp nhằm đạt hiệu quả trong bán hàng.
- Marketing hỗn hợp
Phần này đề cập tới mối quan hệ giữa logistic và Marketing chủ yếu là hoạt

động của marketing hỗn hợp. Hoạt động này được tổ chức theo Bốn chữ P của
marketing Price-giá cả, product - sản phẩm, promotion -khuyến mãi, và place –
phân phối. Cụ thể như sau:


1. Price-Giá.
+ Giá vận chuyển
Theo quan điểm của logistic, việc lựa chọn phương thức và đơn giá vận
chuyển dựa vào kích thước và trọng lượng của hàng hóa là rất quan trọng. Ví
dụ, đối với vận tải đường sắt yêu cầu trọng tải tối thiểu cho một toa thông thường
là 30.000 pound. Vận tải đường bộ thơng thường có trọng tải bằng 4 hoặc 5 lần, áp
dụng đối với cùng một mặt hàng được vận chuyển giữa 2 điểm tùy thuộc vào kích
thước (trọng lượng) của lơ hàng. Kích thước lớn hơn hay nhỏ hơn thì tỉ lệ đơn vị sẽ
được chuyển đổi cho phù hợp. Nói cách khác, chương trình giảm giá được áp dụng
cho những hàng hóa cần vận chuyển có khối lượng lớn nhất định bởi vì các công ty
vận tải ưu đãi kinh tế khi khách hàng gửi lượng hàng với khối lượng lớn hơn hoặc
bằng khối lượng hàng hóa được ấn định mức ưu đãi.
+ Phương thức vận chuyển phù hợp.
Các công ty thương mại cũng thường có chương trình giảm giá cho việc mua
hàng với số lượng lớn. Nếu chương trình giảm giá liên quan đến tỉ lệ chiết khấu đối
với khối lượng thì cơng ty có thể tiết kiệm cho bản thân hoặc cho khách hàng một
số tiền nhất định, tùy thuộc vào các điều kiện bán hàng. Ví dụ, một cơng ty thương
mại bán hàng tại kho của người mua (chịu chi phí vận chuyển) và nếu chính sách
giá phù hợp với điều kiện về tải trọng của phương tiện vận tải, cơng ty có thể nhận
được mức giá thấp hơn với lượng hàng lớn và do đó tiết kiệm tiền. Vì vậy, cơng ty
sẽ tính tốn xem nhu cầu khách hàng là bao nhiêu và trọng lượng được ưu đãi là
bao nhiêu, nếu gần đạt mức hưởng giá ưu đãi thì họ sẽ cố lấy thêm hàng đủ đạt
điều kiện giá ưu đãi với đơn giá vận chuyển rẻ hơn. Thậm chí nếu cơng ty bán
hàng theo giá FOB chi phí vận chuyển do người mua chi trả. Khi đó đơn giá vận
chuyển người mua phải trả sẽ rẻ hơn từ đó nâng cao chất lượng chăm sóc khách

hàng giảm thiểu chi phí và do đó tiết kiệm tiền.
Mặc dù khơng phải lúc nào cũng có thể lấy được số lượng hàng hố đủ điều
kiện được hưởng giá ưu đãi. Cơng ty có thể sử dụng xen kẽ các loại hình vận
chuyển khác nhau như vận chuyển bằng đường bộ hoặc đường sắt hoặc các loại
hình vận chuyển khác phù hợp với đặc điểm và số lượng hàng hoá cần giao nhận
để làm sao cho tiết kiệm được chi phí vận chuyển một cách tối ưu. Đó cũng là một
cơ sở để đưa ra chương trình khuyến mãi giảm giá bán.
+ Mối quan hệ của khối lượng hàng hóa:
Ngồi ra, quản lý logistics cũng phải liệt kê khối lượng hàng hoá với những
đơn giá khác nhau (bao nhiêu hàng với đơn giá tương ứng là bao nhiêu), vì điều
này sẽ ảnh hưởng đến yêu cầu hàng tồn kho, thời gian nhập hàng và các khía cạnh
khác của dịch vụ chăm sóc khách hàng. Mặc dù để phân tích vấn đề này gặp khá
nhiều khó khăn nhưng quản lý logistic có thể xem xét khả năng cung cấp đủ khối
lượng hàng hoá với đơn giá giá hấp dẫn, đúng lúc, đúng chủng loại, theo nhu cầu.


Nếu làm được như vậy cơng ty có thể bán hàng với số lượng lớn tạo ra doanh số
bán hàng tăng lên vào các thời điểm cụ thể trong năm. Quản lý logistic phải được
thông báo về thông tin các sản phẩm, hàng hố để có thể điều chỉnh các nhu cầu
hàng tồn kho đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
2. Product-Sản phẩm.
Việc quyết định sản xuất hay cung cấp loại hàng hoá nào đặc điểm ra sao để
phù hợp với nhu cầu và đặc tính của từng khu vực là một trong những mối quan
tâm hàng đầu của marketing sản phẩm. Vấn đề về kích thước, hình dạng của sản
phẩm, trọng lượng, đóng gói có ảnh hưởng khác nhau đến khả năng vận chuyển và
lưu trữ sản phẩm của hệ thống phân phối. Quản lý logistic có thể cung cấp thơng
tin thích hợp về sản phẩm mới để phục vụ cho việc lựa chọn phương thức vận
chuyển thích hợp. Ngồi sản phẩm mới, các cơng ty cịn tiến hành tân trang, cải
tiến sản phẩm cũ bằng cách này hay cách khác nhằm cải thiện và duy trì doanh số
bán hàng. Việc cải tiến có thể thực hiện bằng cách thay đổi mẫu mã, kích thước,

bao bì sản phẩm khác nhau. Các kích thước, đặc điểm của sản phẩm ảnh hưởng
đến việc lưu giữ sản phẩm trong quá trình vận chuyển. Chúng ảnh hưởng đến sự
lựa chọn các hãng vận tải, thiết bị cần thiết cho vận chuyển, tỷ lệ hư hỏng, khả
năng lưu trữ, sử dụng các chất liệu bảo quản như băng tải và bạt phủ, bao bì bên
ngồi...
Nhà quản lý logistics sẽ gặp khó khăn khi có sự thay đổi trong bao gói sản
phẩm làm cho việc sử dụng các phương tiện vận chuyển, lưu trữ khơng hiệu quả
gây lãng phí, hoặc có thể gây tổn hại tới sản phẩm. Ví dụ, khi Gillete lần đầu tiên
giới thiệu dao cạo Daisy, nhóm logistic đã khơng tìm hiểu cho đến khi kết thúc
chương trình và họ đã phải đối mặt với những giá bày hàng nhẹ và cồng kềnh, gây
ra bởi mật độ trọng lượng thấp. Không chỉ những giá bày hàng không phù hợp với
băng tải của kho mà họ còn vận chuyển với tốc độ cao hơn 150% so với tốc độ cho
sản phẩm hiện tại. Gillette cuối cùng đã giải quyết được vấn đề nhưng nó là một
bài học đắt giá. Những điều này thường có vẻ nhàm chán và hơi tầm thường đối
với những người quan tâm đến việc bán hàng cho khách hàng nhưng nó ảnh hưởng
lớn đến thành cơng chung của tổ chức và lợi nhuận trong thời gian dài.
Khơng có một nguyên tắc hay công thức cụ thể nào chỉ ra cho các cơng ty
nên làm gì trong những trường hợp này, nhưng quản lý logistic có thể đưa ra những
điểm mạnh điểm yếu, những căn cứ cho việc ra quyết định đạt hiệu quả. Logistic
không phải là người trực tiếp bán hàng nhưng chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ về
lưu trữ trong hệ thống logistic cũng sẽ thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm, nâng cao
doanh số bán hàng.
- Bao bì/đóng gói sản phẩm


Hoạt động marketing khác ảnh hưởng đến logistic là đóng gói sản phẩm.
Quản lý marketing thường xem bao bì sản phẩm như một nhân viên bán hàng thầm
lặng. Ở cấp độ bán lẻ, bao bì sản phẩm có thể là một nhân tố quyết định ảnh hưởng
đến doanh số bán hàng. Quản lý marketing đặc biệt quan tâm tới mẫu mã sản phẩm
khi tung sản phẩm ra thị trường, thông tin đi kèm và những đặc tính khác của sản

phẩm; cũng như sự so sánh của khách hàng với một số sản phẩm cùng loại trên thị
trường, bao bì sản phẩm có thể làm tăng doanh số bán. Bao bì sản phẩm đóng vai
trị quan trọng trong hệ thống quản lý logistic vì một số lý do. Bao bì sản phẩm
thường phải phù hợp với tiêu chuẩn bao bì cơng nghiệp, hay bao bì bên ngồi.
Kích thước, hình dạng và những yếu tốt khác của bao bì sản phẩm sẽ ảnh hưởng
đến khả năng sử dụng của đóng gói cơng nghiệp. Mức độ bảo vệ hàng hóa của các
gói bao bì cũng liên quan đến hệ thống logistic. Các yếu tố vật lý và mức độ bảo vệ
của bao bì ảnh lượng đến logistic trong khía cạnh của việc vận chuyển, bảo quản
và lưu trữ.
3. Promotion - Xúc tiến bán
Xúc tiến bán là một hoạt động marketing được quan tâm đặc biệt trong
doanh nghiệp. Các công ty thường dành hàng trăm nghìn hoặc thậm chí hàng triệu
đơ la vào chiến dịch quảng cáo trên khắp cả nước và các hoạt động quảng cáo khác
để mở rộng phạm vi bán hàng. Doanh nghiệp thực hiện quảng cáo để kích thích
doanh số bán hàng do vậy quản lý logistic cũng phải có sự dự trù về số lượng hàng
tồn kho có đủ và sẵn sàng cung cấp cho khách hàng. Nhưng ngay cả khi logistic đã
có sự chuẩn bị nhưng vấn đề ngồi mong muốn vẫn có thể xảy ra. Ví dụ, khi
Gillette giới thiệu dao cạo lưỡi kép Good new, kế hoạch ban đầu của công ty là đưa
ra ba chương trình khuyến mãi liên tiếp. Dự tính khi tung sản phẩm ra toàn quốc sẽ
đạt được doanh số bán hàng là 20.000.000 chiếc. Sau những hoạt động xúc tiến
thương mại đưa ra sẽ đã đạt doanh số bán hàng là 10.000.000 chiếc và Gillette đã
mong chờ chương trình xúc tiến thứ ba sẽ tăng doanh số thêm 20.000.000 chiếc,
đạt tổng doanh số là 50.000.000 chiếc. Khi sản phẩm được tung ra thị trường, đợt
đầu tiên đã bán được 35.000.000-75% so với kế hoạch. Điều này đã đặt một gánh
nặng cho nhóm logistic phải làm sao có đủ lượng hàng để đáp ứng nhu cầu thị
trường khi mà mức tiêu thụ vượt quá so với kế hoạch.
- Hệ thống kéo/ đẩy.
Chúng ta nên nhìn xa hơn các mối quan hệ giữa doanh số bán hàng và phân
tích chiến lược quảng cáo để xem những tác động của hệ thống logistic. Quản lý
marketing thường phân loại các chiến lược quảng cáo của họ thành hai loại cơ bản:

đẩy hoặc kéo. Có nghĩa là họ có thể sử dụng một trong hai phương thức đẩy hoặc
kéo thông qua các kênh phân phối tới người tiêu dùng. Tóm lại, họ là những tổ


chức đưa sản phẩm tới người tiêu dùng cuối cùng sau khi sản phẩm được sản xuất.
Họ bao gồm các cửa hàng bán buôn và bán lẻ.
- Sự cạnh tranh về kênh phân phối sản phẩm
Các nhà sản xuất thường xuyên cạnh tranh để có được những kênh phân
phối phù hợp để đạt được khả năng tiêu thụ sản phẩm cao nhất. Ví dụ, một nhà sản
xuất ngũ cốc muốn nhà bán lẻ trưng bày nhiều sản phẩm trên giá hàng hoặc muốn
nhà bán buôn lấy một số lượng sản phẩm đủ để đáp ứng các nhà bán lẻ và từ đó
nhu cầu tiêu dùng cho sản phẩm sẽ ảnh hưởng đến các nhà bán lẻ và bán
buôn. Bằng việc bán sản phẩm phổ biến, họ sẽ cải thiện lợi nhuận. Doanh thu càng
cao thì lợi nhuận càng cao. Họ thấy vui hơn với từng sản phẩm cụ thể và sẽ sẵn
sàng để cho nó có khơng gian và vị trí tốt hơn trong cửa hàng.
- Phương pháp kéo
Các cơng ty có thể cố gắng để cải thiện doanh số bán hàng của họ bằng cách
quảng bá sản phẩm thông qua các kênh phân phối quảng cáo trên toàn quốc. Từ đó
kích thích khách hàng mua những sản phẩm mà họ đã thấy trong một tạp chí, đã
nghe trên đài phát thanh, hoặc đã thấy trên truyền hình. Nhu cầu mua sẽ tác động
đến các nhà bán lẻ, kéo theo việc các nhà bán lẻ sẽ tác động tới nhà bán buôn. Một
số công ty cảm thấy rằng cách tiếp cận tốt nhất để thúc đẩy một sản phẩm là thông
qua các kênh phân phối từ nhu cầu trực tiếp của người tiêu dùng.
- Phương pháp đẩy
Phương pháp tiếp cận cơ bản khác là phương pháp đẩy. Phương pháp tiếp
cận đẩy là dựa vào sự hợp tác của các kênh phân phối để kích thích doanh số bán
hàng – Nói cách khác, nhà sản xuất có thể trả một phần chi phí quảng cáo hoặc đưa
ra những gian hàng trưng bày đặc biệt để kích thích doanh số bán hàng. Ngồi việc
hợp tác với nhà bán bn, nhà sản xuất có thể cung cấp cho các nhà bán lẻ với giá
ưu đãi tại một thời gian cụ thể để kích thích nhu cầu sản phẩm. Điều này tương

phản với cách tiếp cận kéo, trong đó cơng ty kích thích doanh số bán hàng một
phần độc lập với nhà bán lẻ bằng cách quảng cáo sản phẩm trên một quy mô khu
vực rộng.
- Sự ảnh hưởng của logistic
Chúng ta có thể sử dụng một trong hai hoặc kết hợp 2 cách tiếp cận này.
Trong thực tế, một số công ty kết hợp cả hai phương thức tiếp cận trong hoạt động
của họ. Tuy nhiên, theo quan điểm của quản lý logistic, đẩy và kéo có những yêu
cầu khác xa nhau về phương thức hoạt động của hệ thống logistic. Phương pháp
kéo có nhu cầu về sản phẩm thất thường rất khó dự đốn và có thể có các nhu cầu
khẩn cấp. Quảng cáo trên quy mơ lớn sẽ có khả năng thành cơng rất cao nhưng dự
đốn phản ứng của người tiêu dùng về các sản phẩm mới thường rất khó. Vì vậy,
việc quảng cáo cũng có thể gây áp lực lên hệ thống logistic, với những đơn hàng
vận chuyển khẩn cấp (chuyển phát nhanh) với đơn giá rất cao. Việc dư thừa hàng
tồn kho cũng làm cho chi phí lưu kho tăng cao. Tình trạng của Gillette là một ví dụ


của trường hợp này. Mặt khác, cách tiếp cận “đẩy” là mơ hình có lượng cầu ổn
định hơn. Sự cộng tác với các nhà bán lẻ cho phép các nhà sản xuất dự báo trước
một phần doanh số bán hàng và do vậy sẽ thuận lợi hơn với những trường hợp
khẩn cấp hay bất thường gây ra bởi các chương trình xúc tiến bán của sản phẩm
mới.
4. Place- Địa điểm bán hàng.
- Nhà bán buôn và nhà bán lẻ:
Việc lựa chọn địa điểm bán hàng sẽ quyết định đến việc lựa chọn các
kênh phân phối bao gồm cả kênh phân phối giao dịch và vật lý. Người nghiên cứu
thị trường sẽ quyết định về kênh giao dịch thị trường cũng như quyết định sẽ bán
sản phẩm đến nhà bán buôn hay bán trực tiếp đến nhà bán lẻ. Trên quan điểm của
quản lý logistic, những quyết định đó có ảnh hưởng lớn đến các điều kiện của hệ
thống logistic. Ví dụ, các công ty chỉ giao dịch với nhà bán bn sẽ ít đối mặt với
các vấn đề về logistic hơn so với các công ty muốn giao dịch trực tiếp với các nhà

bán lẻ. Bán bn thường có xu hướng mua với số lượng lớn hơn so với các nhà bán
lẻ, đặt hàng và quản lý hàng tồn kho của họ có thể dự đốn được và nhất qn hơn,
do đó làm cho cơng việc của người quản lý logistic dễ dàng hơn. Bán lẻ, thường
đặt hàng với số lượng nhỏ và không phải lúc nào cũng cho phép đủ thời gian để
cung cấp hàng, do đó, các nhà sản xuất cần phải chi phí nhiều hơn cho dịch vụ vận
tải để đáp ứng nhu cầu giao hàng.
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ VÀO CHUỖI CUNG CẤP:
E – LOGISTICS – LOGISTIC ĐIỆN TỬ: VŨ KHÍ CHO MỘT THẾ GIỚI MỚI

Thực hiện các hoạt động logistic trong thương mại điện tử không hề dễ
dàng. Việc lựa chọn công cụ phù hợp và tạo ra hệ thống tích hợp tối ưu cao là
những bước rất quan trọng để đưa hệ thống vào hoạt động.
Xu thế mới trong thế giới ảo đã thu hút các nhà kinh doanh internet và làm
họ nhận ra rằng hoạt động logistic ảo có thể được thể hiện trong nền kinh tế ảo.
Những trang Thương mại điện tử .com và sự kỳ vọng nhờ vào việc bao phủ rộng
rãi của mạng internet trên thế giới, làm cho sản phẩm có thể thể nhảy vơ hình từ
sàn giao dịch của nhà máy đến hộp thư điện tử của người tiêu dùng.
Mọi thứ đã khơng hồn tồn làm việc theo cách đó. Thực tế, Thương mại
điện tử là một trong những thách thức lớn nhất của hoạt động logistic trong lịch sử,
với các mức phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng là phải bằng hoặc tốt hơn những
thứ đã tìm thấy trong các thoả thuận JIT nghiêm ngặt nhất và họ muốn tất cả miễn
phí.
E-logistic điện tử cũng đã mang lại một gánh nặng, nhiều công ty đã làm
việc chăm chỉ để giảm bớt hàng tồn kho trong những năm gần đây. Trong một thời


gian ngắn đáng ngạc nhiên, e-logistic đã bắt đầu đảo ngược xu hướng chặt chẽ hơn,
hàng tồn kho nhỏ hơn và đã giúp làm giảm chi phí cho các doanh nghiệp Mỹ trong
những năm gần đây.
Có những nhu cầu tiêu dùng phát sinh trong các ngày kế tiếp hoặc thậm chí

cùng ngày giao hàng làm cho nhà cung cấp thương mại điện tử dù lớn hay nhỏ đều
cần phải nắm giữ một lượng lớn hàng hóa khơng chỉ trong kho mà cịn tại các
trung tâm phân phối trên tồn quốc. Điều này có thể thực hiện được bằng cách sử
dụng các nhà cung cấp dịch vụ, nhưng cuối cùng vẫn phải có hàng hóa sẵn sàng để
phân phối và vẫn cần người để thanh toán cho các dịch vụ này.
Các doanh nghiệp không chú trọng đến E-logistic thường phải đối mặt với
những rủi ro thực sự. Một vài doanh nghiệp đã chìm đắm trong những thành cơng
của năm trước và quá bận rộn với những doanh số ban đầu và họ khơng chú trọng
đến phương thức để đưa hàng hóa đến người tiêu dùng.
Mặc dù những vấn đề của E-logistics đang trở nên ngày càng rõ nét thì vẫn
khơng có các giải pháp để cải thiện tình hình. Một phần của vấn đề là phát sinh từ
tính thực tế của thời gian thực trong internet. Nhà cung cấp dịch vụ người dùng elogistic phải giải quyết vấn đề công nghệ và môi trường kinh tế, điều này là sự thay
đổi quá nhanh làm cho những quy luật hiếm gặp được lưu giữ trong một tháng đến
một vài tháng. Tất cả diễn ra quá thường xuyên, các doanh nghiệp phải đối mặt với
việc điên cuồng tìm kiếm những giải pháp tiềm năng. Công việc phát triển cơ bản
vẫn đang trong đường hầm trong nhiều lĩnh vực
Nguồn: Tony Seideman, Quản lý logistic & Báo cáo phân phối (Nhà xuất
bản Cahners, tháng 4 năm 2000): E33-E35.
- Dịch vụ khách hàng:
Xu hướng hiện nay: Các nhà Marketing đã bắt đầu công nhận giá trị chiến
lược của hoạt động marketing hỗn hợp. Việc doanh thu và sự hài lịng của khách
hàng tăng lên có thể là kết quả của hệ thống logistic chất lượng cao. Nhiều cơng ty
đã cơng nhận dịch vụ chăm sóc khách hàng là kết quả của mối quan hệ giữa hoạt
động marketing và hoạt động logistic. Các công ty về các lĩnh vực như thực phẩm,
hoá chất và dược phẩm đã đạt được thành công đáng kể dựa theo phương thức
này.
MỐI QUAN HỆ CỦA LOGISTIC VỚI CÁC BỘ PHẬN KHÁC
Trong khi sản xuất và marketing là hai bộ phận quan trọng nhất trong nội bộ
doanh nghiệp thì logistic có chức năng liên kết với các bộ phận chức năng khác
trong doanh nghiệp. Bộ phận tài chính đang ngày càng trở nên quan trọng trong

những thập niên gần đây. Những tác động của logistic tới yếu tố tài chính được thể
hiện như sau:
- Ảnh hưởng tới tỷ suất thu hồi tài sản (ROA)
ROA = doanh thu - chi phí / tài sản
Hoặc ROA = tổng lợi nhuận / tài sản


Logistics có thể tác động đến ROA một cách tích cực theo nhiều
cách. Phương thức giảm hàng tồn kho đã được đề cập từ những năm 1990. Hàng
tồn kho là một tài sản trên bảng cân đối, làm giảm hàng tồn kho (tài sản) trong
phương trình sẽ làm tăng ROA. Ngồi việc thay đổi hàng tồn kho, ngày nay cịn có
thể sử dụng các tài sản khác liên quan đến logistic như nhà kho, đầu tư thiết bị giao
thông vận tải để làm thay đổi chỉ tiêu ROA
Trong chương này cũng chỉ ra rằng chi phí logistic sẽ giảm khi cải thiện tỉ
suất lợi nhuận biên hoặc lợi nhuận gộp hoặc tăng ROA. Cuối cùng, phải tập trung
vào dịch vụ khách hàng (được thảo luận chi tiết hơn trong chương sau ) có thể tăng
doanh thu hoặc doanh số bán. Miễn là sự gia tăng doanh số bán hàng không được
bù đắp bởi chi phí cao hơn cho dịch vụ khách hàng , sau đó ROA cũng sẽ được
tăng lên.
Càng ngày giám đốc tài chính của các cơng ty càng trở nên am hiểu về
logistic do những ảnh hưởng của nó tới các chỉ tiêu tài chính chức năng như ROA,
ROI. Những số liệu này là công cụ quan trọng để đánh giá khả năng tài chính của
một cơng ty.
Trên một phương diện khác của tài chính, những người quản lý logistic phải
điều chỉnh tăng đầu tư cho các tài sản liên quan đến logistic bằng cách sử dụng các
chỉ tiêu tài chính chấp nhận được liên quan đến thời hạn phải trả. Nói chung, quản
lý logistic phải có kiến thức về các chỉ tiêu tài chính và tiêu chuẩn về hiệu suất.
Chương sau sẽ tập trung vào chủ đề này.
Kế toán cũng là một bộ phận quan trọng liên quan mật thiết với logistic. Hệ
thống kế toán là nguồn cung cấp thông tin chủ yếu về các khoản chi phí thích hợp

để phân tích hệ thống logistic thay thế. Một thời gian dài trong quá khứ, các khoản
chi phí liên quan đến logistic không được đo lường cụ thể và thường được gộp vào
trong các chi phí, gây khó khăn trong việc quản lý chi phí của hoạt động logistic
Gần đây, với sự quan tâm về việc phân tích các khoản chi phí và với sự hỗ
trợ của các cơng cụ phân tích dựa trên hệ thống kế tốn chi phí liên quan như dựa
theo mơ hình chi phí hoạt động (ABC) đã mang lại lợi ích cho việc cải thiện chất
lượng phân tích logistic. Hệ thống kế tốn cũng rất quan trọng để đo lường chuỗi
cung ứng thương mại và hiệu suất.
Phần kế tiếp sẽ tập trung vào những hoạt động thông thường phản ánh một
phần chức năng của logistic.
CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG LOGISTIC
Những định nghĩa logistic trước đây chỉ ra rằng người quản lý logistic phải
có trách nhiệm trong các hoạt động sau:
- Vận chuyển và phương tiện vận chuyển
- Kho bãi và lưu trữ
- Vấn đề về bao bì


×