Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn ngoại thành hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.41 KB, 103 trang )
















LUẬN VĂN:

Đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn
ngoại thành hà Nội


















Lời nói đầu

ở Hà Nội, mặc dù nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng dưới 3% GDP
trong nền kinh tế, nhưng ngoại thành với hơn 90% diện tích tự nhiên,
số dân trên 1.3 triệu người, chiếm hơn 46% dân số toàn thành nên
nông nghiệp nông thôn có vị trí đặc biệt quan trong sự thúc đẩy phát
triển các ngành kinh tế, giữ vững sự ổn định chính trị và đảm bảo
môi trường sinh thái cho thành phố. Vì vậy trong những năm qua
Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân và các cấp, các ngành thành phố Hà Nội
đã coi trọng phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn ngoại thành và có
nhiều biện pháp để thúc đẩy nông nghiệp nông thôn phát triển. Tuy
nhiên hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn vẫn còn nhiều điều bất cập,
chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, là
thách thức và cản trở lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại
hoá nông thôn ngoại thành. Từ thực trạng này đòi hỏi chúng ta phải
nỗ lực hơn nữa để nhanh chóng khắc phục những mặt yếu kém của hệ
thống kết cấu hạ tầng nông thôn, góp phần vào công cuộc xây dựng
nông thôn mới của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân toàn thành phố,
thực hiện mục tiêu:"Phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành
theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái. Thủ đô Hà Nội phải đi đầu
trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn"






Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của hệ thống kết cấu
hạ tầng nông thôn đối với quá trình phát triển kinh tế -xã hội ở nông
thôn , tôi chọn đề tài: " Đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn ngoại thành hà Nội "
Trong khuôn khổ đề tài này chỉ đề cập đến hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật, có tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp như hệ
thống thuỷ lợi, giao thông nông thôn, điện nông thôn,nước sạch nông
thôn…
Nôi dung của đề tài gồm các vấn đề sau đây:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư phát triển, sản xuất nông
nghiệp và hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn.
Chương II: Nêu lên thực trạng đầu tư cho hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật thời gian qua ở ngoại thành Hà Nội và những vấn đề
còn tồn tại.
Chương III: Nêu ra những phương hướng, mục tiêu và giải pháp
thúc đẩy đầu tư cho nông nghiệp nông thôn ngoại thành




































chương I
Khái quát chung về đầu tư và kết cấu hạ tầng nông nghịêp nông
thôn

1. Một số vấn đề cơ bản về đầu tư và đầu tư phát triển
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định

trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các
kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ.




Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính
(tiền vốn), tài sản vật chất(nhà máy, đường xá…),tài sản trí tuệ
trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và các
nguồn lực có đủ các điều kiện để làm việc có năng suất trong
nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đã đạt được trên đây, những kết quả trực
tiếp của sự hy sinh các nguồn lực là các tài sản vật chất, tài sản trí
tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc
mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền
kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế
xã hội được hưởng thụ.
Tuy nhiên, nếu xem xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì
không phải tất cả các hoạt động đầu tư đều đem lại lợi ích cho nền
kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế. Các hoạt động như gửi
tiền tiết kiệm, mua cổ phần và hàng hoá… thực chất là việc chuyển
giao quyền sử dụng từ người này sang người khác còn tài sản của nền
kinh tế không có sự thay đổi trực tiếp. Chỉ những hoạt động làm tăng
thêm các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực cho nền
kinh tế mới được xem là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền
kinh tế.
Mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được những kết quả lớn
hơn so với những hy sinh mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến

hành đầu tư.
Đối với từng cá nhân, đơn vị, đầu tư là điều kiện quyết định sự ra
đời, tồn tại và phát triển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Đối với nền kinh tế, đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển nền sản
xuất xã hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng.
2. Vai trò của đầu tư phát triển
2.1 Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu




Về mặt cầu: đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu
của nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường
chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên
thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng
cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng
kéo sản lượng cân bằng tăng theo và giá cả của các đầu vào đầu tư
cũng tăng.
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng
lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn
tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên do đó giá cả sản
phẩm giảm. Sản lượng tăng giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng.
Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất hơn nữa. Sản
xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh
tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của
mọi thành viên trong xã hội.
2.2 Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối
với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi
của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy

trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của
mọi quốc gia.
Chẳng hạn khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm
cho giá của hàng hoá có liên quan tăng( giá chi phí vốn, lao động, vật
tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt
mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao
động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt
ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác tăng đầu tư làm cho
cầu của các yếu tố có liên quan, sản xuất của ngành này phát triển,
thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống




người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều
kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều
hướng ngược lại với các tác động trên đây. Vì vậy trong điều hành vĩ
mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết các tác
động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động
xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì sự ổn định của toàn bộ nền
kinh tế.
2.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế

Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc
độ tăng trưởng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15-
20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Nếu ICOR không
đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
ở các nước phát triển, ICOR thường lớn từ 5-7 do thừa vốn,
thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do

sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát
triển ICOR thường thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể
và cần phải sử dụng lao động và thay thế cho vốn, do sử dụng công
nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc
mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các
vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của các chính sách
kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn
trong công nghiệp
ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng
năng lực sản xuất. Do đó ở các nước đang phát triển, tỷ lệ đầu tư
thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.




Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được
coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ
tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến.
Thực vậy, ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một "cái hích
ban đầu" tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế.
2.4 Đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất
yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn ( từ 9-10%) là tăng
cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp
và dịch vụ. Đối với các ngành nông -lâm -ngư nghiệp do những hạn
chế về đất đai và những khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng
trưởng 5-6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế các quốc gia nhằm đạt được tốc
độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.

Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất
cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém
phát triển thoát khỏi đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế về tài
nguyên, địa thế, kinh tế chính trị… của những vùng có khả năng phát
triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát
triển.
2.5 Đầu tư góp phần tăng cường khả năng khoa học và công
nghệ của đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều
kiện tiên quyết của sự phát triển và khả năng công nghệ của đất nước
ta hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công
nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực.
Theo UNIDO nếu chia quá trình phát triển công nghệ của thế giới
làm 7 giai đoạn thì Việt nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Việt




Nam đang là 1 trong 90 nước có trình độ công nghệ kém nhất thế
giới. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá
và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề
ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững
chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công
nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ
nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải
có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phướng án đổi mới công nghệ
không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả
thi.

3. Nguồn vốn đầu tư
Vốn đầu tư được hình thành từ hai nguồn cơ bản. Đó là vốn huy
động từ trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.
vốn đầu tư trong nước được huy động từ các nguồn sau đây:
- vốn tích luỹ từ ngân sách
- vốn tích luỹ của các doanh nghiệp
- vốn tiết kiệm của dân cư
Xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh
tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh chắc chắn và
không phụ thuộc phải là nguồn vốn đầu tư trong nước.
Các nước ASEAN và NICs Đông á đều nhận thức được rằng
nguồn vốn đầu tư chủ yếu dựa vào tích luỹ trong nước và do đó đã
thực hiện các chính sách và biện pháp để phát triển kinh tế, nhằm
tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, khuyến khích
tiết kiệm.
Khối lượng vốn đầu tư trong nước có thể huy động được phụ
thuộc vào các nhân tố sau đây:
- Qui mô và tốc độ tăng GDP




- Quan hệ tích luỹ và tiêu dùng của nhà nước, ở các nước chậm
phát triển, tỷ lệ tích luỹ thấp, tỷ lệ tiêu dùng cao
-Tiền tiết kiệm của dân cư, ở nhiều nước tiết kiệm của dân cư
chiếm một bộ phận lớn, với một tỷ lệ ngày càng tăng trong tổng các
khoản tiết kiệm của nhà nước. Mức tiết kiệm của dân cư một mặt phụ
thuộc vào mức thu nhập của họ, mặt khác tuỳ thuộc vào mức lãi suất
tiền gửi tiết kiệm và chính sách ổn định tiền tệ của nhà nước.
Nguồn vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực

tiếp và vốn đầu tư gián tiếp.
+vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân
người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý và
tham gia quản lý hoặc tham gia quá trình quản lý sử dụng và thu hồi
vốn đã bỏ ra.
+ vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, các tổ chức
quốc tế, tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới hình thức không
hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp,
vốn viện trợ chính thức của các nước công nghiệp phát triển(ODA)
Đối với các nước nghèo, để phát triển kinh tế và từ đó thoát ra
cảnh nghèo thì một vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt
và từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ khác cần thiết cho sự phát triển như
công nghệ, cơ sở hạ tầng… Do đó trong những bước đi ban đầu, để
tạo ra được "cái hích" đầu tiên cho sự phát triển, để có được tích luỹ
từ ban đầu trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế không thể không
huy động vốn từ nước ngoài. Không có một nước chậm phát triển nào
trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, nhất là trong điều kiên kinh tế mở.
Để thu hút nhanh các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài, cần tạo một môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư như cung




cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ, có luật đầu tư ưu đãi, lập các khu chế
xuất …
4. Nội dung của vốn đầu tư
Nội dung của vốn đầu tư bao gồm các khoản mục chi phí gắn
liền với nội dung của hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư phát triển chính là quá trình sử dụng vốn đầu

tư nhằm tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật và thực
hiện các chi phí gắn liền với sự hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ
thuật vừa được tái sản xuất thông qua các hình thức xây dựng nhà
cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền
bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản khác, thực hiện các chi
phí gắn liền với sự ra đời và hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ
thuật đó.
Xuất phát từ nội dung hoạt động đầu tư phát triển, để tạo thuận
lợi cho công tác quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu
quả kinh tế xã hội cao nhất, có thể phân chia vốn đầu tư thành các
khoản mục sau đây:
+Những chi phí tạo tài sản cố định( mà sự biều hiện bằng tiền
là vốn cố định)
+Những chi phí tạo tài sản lưu động( mà sự biểu hiện bằng tiền
là vốn lưu động) và các chi phí thường xuyên gắn với một chu kì hoạt
động vừa được tạo ra.
+Những chi phí chuẩn bị đầu tư chiếm khoảng 0.3-15% vốn đầu

+ Chi phí dự phòng
5.Kết quả và hiệu quả đầu tư
5.1 Kết quả của hoạt động đầu tư




Kết quả của hoạt động đầu tư được thể hiện ở khối lượng vốn đầ
tư đã được thực hiện, ở các tài sản cố định được huy động hoặc năng
lực sản xuất kinh doanh phục vụ tăng thêm
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện bao gồm tổng số tiền đã chi
để tiến hành các hoạt động của công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí

cho công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhà cửa và các cấu trúc hạ
tầng, mua sắm thiết bị máy móc, để tiến hành các công tác xây dựng
cơ bản và chi phí khác theo qui định của thiết kế dự toán và được ghi
trong dự án đầu tư được duyệt.
Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình
đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra
sản phẩm, hàng hoá hoặc tiến hành các dịch vụ cho xã hội đã được
ghi trong dự án đầu tư) đã kết thúc quá trình xây dựng mua sắm, đã
làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được
ngay.
Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu
cầu sản xuất phục vụ các tài sản cố định đã được huy động vào sử
dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ
theo qui định được ghi trong dự án.
5.2 Hiệu quả của hoạt động đầu tư
Hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư(E
tc
) của hoạt động đầu
tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ
sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở vốn đầu tư mà cơ sở đã sử
dụng so với các kì khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung.
Chúng ta có thể biểu hiện khái niệm này thông qua công thức sau
đây:

Các kết quả mà cơ sở đạt được do thực hiện đầu tư





E
tc
=
Số vốn đầu tư đã thực hiện để tạo ra các kết quả trên
E
tc
có hiệu quả khi E
tc
>E
tco

Trong đó:
E
tco
là chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kì khác mà cơ sở
đã đạt được chọn làm cơ sở so sánh hoặc của đơn vị khác đã đạt tiêu chuẩn hiệu
quả.
Các kết quả do hoạt động đầu tư đem lại cho cơ sở rất đa dạng, và là điều
tất yếu của quá trình thực hiện đầu tư. Các kết quả đó có thể là lợi nhuận thuần, là
mức tăng năng suất lao động, là số lao động có việc làm do hoạt động đầu tư tạo
ra, là mức tăng thu nhập cho người lao động của cơ sở hạ tầng sở thực hiện đầu tư.
Do đó để phản ánh hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư người ta phải sử
dụng hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và
được sử dụng trong những điều kiện nhất định. Trong đó chỉ tiêu bằng tiền được
sử dụng rộng rãi.
II. Một số vấn đề về nông nghiệp nông thôn
1. Một số vấn đề cơ bản về nông nghiệp
1.1 Vai trò của nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất hết sức quan trọng của nền kinh tế nói
chung và của nền kinh tế nông thôn nói riêng.

Nông thôn có phát triển được hay không trước tiên phụ thuộc vào sự phát
triển của nông nghiệp, dù đó là nông thôn của nước đang phát triển hay nước phát
triển.
Trước tiên nông nghiệp cung cấp những nông sản lương thực, thực phẩm cơ
bản và thiết yếu cho con người mà nếu thiếu nó sẽ có ảnh hưởng không chỉ về mặt
phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng cả về mặt xã hội và chính trị.
Thứ hai, nông nghiệp sản xuất ra nguyên liệu cho hàng loạt
ngành công nghiệp phát triển như công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp
dệt may, công nghiệp chế biến đồ gỗ… mà




nếu không phát triển tốt sẽ ảnh hưởng nhiều đến xuất khẩu và hàng tiêu dùng.
Thứ ba, nông nghiệp góp phần vào tăng thu nhập và tích luỹ của nền kinh tế
quốc dân, thông qua cung cấp nông sản phẩm, thuế, xuất khẩu nông sản phẩm.
Điều này dặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, đi lên từ nông
nghiệp.
Thứ tư, nông nghiệp và nông thôn là nơi có nguồn lao động dồi dào, mà
qua tăng năng suất lao động, có thể giải phóng lao động phục vụ cho các ngành
kinh tế khác. Đồng thời đó là thị trường rộng lớn để tiêu thụ các sản phẩm công
nghiệp dịch vụ tạo cho nền kinh tế chung phát triển
Thứ năm, nông nghiệp và nông thôn trải ra trên địa bàn rộng lớn ở các vùng
trên đất nước, nếu phát triển tốt sẽ góp phần quan trọng để bảo vệ môi trường sinh
thái. Nguợc lại nếu phát triển không tốt sẽ gây ô nhiễm môi trường


1.2 Đặc điểm
Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+Sản xuất nông nghiệp gắn với cơ thể sống động vật, thực vậ t

mà sự phát triển của nó phải tuân theo qui luật sinh học và phụ
thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên như đất đai, thời tiết, khí hậu thuỷ
lợi thuỷ văn… việc bố trí sản xuất trồng cây gì, nuôi con gì để có
năng suất cao chất lượng tốt là phải phù hợp với điều kiện tự nhiên
và các yếu tố sản xuất đầu vào như: giống, phân bón,nước. Thường
nông nghiệp tái sản xuất ra giống, từ đó phải chú ý đến chọn lọc,
bồi dục, lai tạo để tạo ra những giống tốt. Việc nhập giống bên
ngoài vào phải qua quá trình chọn lọc, thử nghiệm rồi mới đưa vào
sản xuất đại trà.
+ Trong nông nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt
không thể thay thế được. Ruộng đất thường bị giới hạn bởi diện
tích không thể tăng thêm, nhưng độ phì nhiêu của đất có thể tăng
nếu biết khai thác sử dụng hợp lý sẽ tạo khả năng tăng năng suất
không ngừng. Từ đó một mặt phải bố trí sử dụng ruộng đất hợp lý




và tiết kiệm cho phù hợp với điều kiện địa lý của từng vùng địa
phương. Hạn chế dùng đất sản xuất nông nghiệp, đặc biệt ruộng đất
tốt để xây dựng cơ bản hoặc sử dụng đất cho mục đích phi nông
nghiệp.
Mặt khác ruộng đất lại trải ra trên địa bàn rộng lớn cho nên
hoạt động của sản xuất nông nghiệp khá phức tạp, tuỳ thuộc nhiều
vào điều kiện tự nhiên kinh tế của từng vùng, từng tiểu vùng.
+ Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao do hai yếu tố
quan t
rọng. Yếu tố cơ thể sống của động vật thực vật theo qui luật
sinh học của qui luật sinh trưởng, phát triển, phát dục và diệt vong
làm cho thời gian lao động không trùng khớp với thời gian sản xuất,

tạo ra tình hình có khi lao động căng thẳng, có khi nhàn rỗi lao động
thiếu việc làm. Gắn liền với tính thời vụ trong lao động là tính thời
vụ trong sử dụng cơ sở vật chất và kỹ thuật và trong thu nhập của
nông nghiệp.
Yếu tố thứ hai do diễn biến thời tiết, khí hậu thuỷ văn trong các
năm khác nhau làm cho mùa vụ sản xuất khác nhau(vụ xuân, vụ đông,
hè thu) đòi hỏi chế độ canh tác cũng khác nhau. Ngoài ra thiên tai bất
thường(lũ lụt, khô hạn) làm cho việc sản xuất phải thay đổi cho phù
hợp để có hiệu quả.
Nền nông nghiệp nước ta còn có đặc điểm riêng đó là một nền
nông nghiệp lạc hậu còn mang tính chất độc canh, tự túc, tự cấp sản
xuất hàng hoá còn ít, năng suất cây trồng vật nuôi, lâm nghiệp và
thuỷ sản, năng suất lao động, năng suất đất đai còn thấp, lao động
nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn, thu nhập và đời sống của người
lao động nông nghiệp còn thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới
+Nông nghiệp nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới và á nhiệt
đới có những thuận lợi và khó khăn




Về mặt thuận lợi, lượng mưa hàng năm tương đối lớn, sông
ngòi ao hồ có nhiều cung cấp một lượng nước ngọt tương đối lớn
phục vụ và sinh hoạt. Nguồn năng lượng mặt trời, ánh sáng nhiều tập
đoàn động vật và thực vật khá phong phú có thể phát triển quanh
năm, có nhiều cây trồng nhiệt đới và á nhiệt đới, tạo nên một tập
đoàn cây con đa dạng
Tuy nhiên nông nghiệp nước ta cũng gặp nhiều khó khăn như:
thiên tai(úng, lũ, hạn), khí hậu ẩm nên dễ phát sinh sâu bệnh làm cho

mùa màng tổn thất lớn, nếu không có những biện pháp tích cực.
Ruộng đất canh tác bình quân đầu người thấp và có xu hướng
giảm dần do dân số tăng và xây dựng cơ sở bản phát triển nhanh.
Những đặc điểm chủ yếu của nông nghiệp trên đây có ảnh
hưởng nhiều đến phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp
nước ta theo hướng tập trung, công nghiệp hoá thâm canh hoá và sản
xuất hàng hoá.
2. Đặc trưng và vai trò của vùng nông thôn.
2.1Đặc trưng vùng nông thôn
Nông thôn là vùng đất đai rộng với một cộng đồng dân cư chủ
yếu làm nông nghiệp(nông lâm như nghiệp), có mật độ dân cư thấp,
cơ sở hạ tầng kém phát triển, có trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật,
trình độ sản xuất hàng hoá thấp và thu nhập mức sống của dân cư
thấp hơn thành thị.
Vùng nông thôn có những đặc trưng như sau:
+Nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của một cộng đồng
dân cư bao gồm chủ yếu là nông dân, là vùng sản xuất nông
nghiệp(theo nghĩa rộng) là chủ yếu. Các hoạt động sản xuất và dịch
vụ chủ yếu cho nông nghiệp và cho cộng đồng nông thôn. Mật độ dân
cư ở vùng nông thôn thấp hơn đô thị.




+ So với đô thị nông thôn có cơ cấu hạ tầng, trình độ tiếp cận
thị trường, trình độ sản xuất hàng hoá thấp hơn. Nông thôn chịu sức
hút của thành thị về nhiều mặt, dân nông thôn thường tìm cách di
chuyển vào các đô thị.
Nông thôn là vùng có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật thấp
hơn đô thị và trong chừng mực nào đó, trình độ dân chủ, tự do và

công bằng xã hội cũng thấp hơn đô thị.
+ Nông thôn trải ra trên địa bàn khá rộng, chịu ảnh hưởng bởi
nhiều điều kiện tự nhiên, mang tính chất đa dạng về qui mô, về trình
độ phát triển, về các hình thức tổ chức sản xuất và quản lý. Tính đa
dạng đó diễn ra không chỉ giữa nông thôn của các nước khác nhau,
mà ngay cả ở các vùng nông thôn khác nhau trong một nước.
2.2 Vai trò kinh tế của vùng nông thôn
Trong qúa trình phát triển, ở một số nước trước đây chỉ chú ý
phát triển các đô thị, các khu công nghiệp hiện đại mà ít chú ý phát
triển nông thôn. Đó là một số nước như Braxin, ấn Độ, Angola,
Mêhico…Tình hình đó đã làm cho khoảng cách về kinh tế và xã hội
giữa đô thị và nông thôn ngày càng lớn, ảnh hưởng nhiều đến tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước, làm tăng thêm sự
mất cân đối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa sản xuất và tiêu
dùng tạo nên mâu thuẫn trong nội tại của cơ cấu kinh tế.
Trong lúc đó một số nước và vùng lãnh thổ khác ở châu á có
tốc độ tăng trưởng khá nhanh như Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Thái Lan, Malaixia đã quan tâm phát triển nông thôn ngay từ thời kì
đầu công nghiệp hoá, coi nông nghiệp nông thôn là một phần quan
trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển nông thôn không chỉ vì lợi
ích riêng cua nông thôn, mà còn vì lợi ích chung của đất nước.




Ngày nay phát triển nông thôn không chỉ là việc làm riêng của
các nước đang phát triển, mà còn là sự quan tâm chung của cộng
đồng thế giới.
Việt Nam là một nước đang đi lên từ một nền nông nghiệp lạc
hậu, nông thôn lại càng có vai trò quan trọng trong phát triển đất

nước.
+ Nông thôn là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm cho nhu cầu
cơ bản của nhân dân, cung cấp nông sản, nguyên liệu cho công
nghiệp và xuất khẩu. Trong nhiều năm nông nghiệp sản xuất ra
khoảng 40% thu nhập quốc dân và trên 40% giá trị xuất khẩu góp
phần tạo nguồn tích luỹ cho sự nghiệp công ngghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước.
+Nông thôn là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho xã
hội, chiếm trên 70% lao động xã hội. Trong quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá, lao động nông nghiệp chuyển dần sang công nghiệp
và dịch vụ, chuyển dần lao động nông thôn vào các khu công nghiệp
và đô thị.
+Nông thôn chiếm 80% dân số của cả nước. Đó là thị trường
rộng lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn phát
triển cho phép nâng cao đời sống và thu nhập của dân cư nông thôn,
tạo điều kiện để mở rộng thị trường để phát triển sản xuất trong
nước.
+ ở nông thôn có trên 50 dân tộc khác nhau sinh sống, bao gồm
nhiều thành phần, nhiều tầng lớp, có các tôn giáo và tín ngưỡng khác
nhau, là nền tảng quan trọng để đảm bảo ổn định tình hình kinh tế xã
hội của đất nước, để tăng cường đoàn kết của cộng đồng các dân tộc.
Nông thôn nằm trên địa bàn rộng lớn của đất nước, có điều kiện
tự nhiên kinh tế xã hội khác nhau. Đó là tiềm lực to lớn về tài nguyên
đất đai, khoáng sản, thuỷ sản để phát triển bền vững đất nước.




III. Bản chất đặc điểm vai trò của hệ thống kết cấu hạ tầng
nông thôn

1. Bản chất hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn
Hoạt động sản xuất vật chất thực sự là sự kết hợp con người
lao động với tư liệu sản xuất theo một công nghệ nhất định. Trong tư
liệu sản xuất có một bộ phận tham gia vào qúa trình sản xuất với tính
cách là những cơ sở, những phương tiện chung, nhờ đó mà quá trình
sản xuất hay dịch vụ được thực hiện. Như vậy bộ phận cơ sở, phương
tiện chung này bản thân nó không phải là công nghệ, cũng không phải
là công cụ hay dịch vụ trực tiếp cho việc chế tạo hay tiêu thụ sản
phẩm, nhưng nếu thiếu nó thì các quá quá trình công nghệ, quá trình
sản xuất dịch vụ, sẽ gặp khó khăn hoặc không thể thực hiện được.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội dưới sự tác động của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ làm cho kết cấu hạ tầng không chỉ có
vai trò to lớn trong lĩnh vực kinh tế, mà ngày càng có tầm quan trọng
đặc biệt đối với sự phát triển của xã hội. Tương ứng với mỗi lĩnh vực
hoạt động xã hội, có một loại hạ tầng tương ứng chuyên dùng, hạ
tầng trong lĩnh vực kinh tế phục vụ cho lĩnh vực kinh tế, hạ tầng
trong lĩnh vực văn hoá- xã hội phục vụ cho hoạt động văn hoá xã hội.
Cũng có những loại hạ tầng đa năng phục vụ cho nhiều loại hoạt động
khác nhau trên một phạm vi rộng lớn như hạ tầng kỹ thuật cho lĩnh
vực cung cấp điện năng, giao thông vận tải thông tin…Những loại hạ
tầng đa năng này trong khi tồn tại và vận hành không chỉ phục vụ cho
các hoạt động kinh tế mà còn phục vụ dân sinh và các hoạt động văn
hoá xã hội. Từ đó khái niệm kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được dùng
để chỉ những hạ tầng đa năng phục vụ cho cả kinh tế và xã hội, hoặc
trong trường hợp để chỉ những hạ tầng chuyên dùng phục vụ trong
hoạt động kinh tế và hoạt động văn hoá, xã hội khi cùng đề cập đến
cả hai loại hạ tầng cho phát triển kinh tế xã hội nói chung.





Ngày nay trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hệ thống
tài chính ngân hàng phát triển giữ vai trò là nền tảng của mọi hoạt
động kinh tế. Sự vận hành có hiệu quả của hệ thống ngân hàng tài
chính giữ vai trò chi phối sự vận hành và phát triển có hiệu quả của
toàn bộ nền kinh tế. Với vai trò nền tảng đó, hệ thống ngân hàng tài
chính được coi là một loại hạ tầng mang tính thiết chế của nền kinh
tế thị trường hiện đại.
Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của một xã hội hiện đại là một
khái niệm dùng để chỉ tổng thể những phương tiện vật chất và thiết
chế làm nền tảng cho kinh tế xã hội phát triển.
Nông thôn là một khái niệm dùng để chỉ những khu vực dân cư
sinh sống có hoạt động nông nghiệp dựa trên hoạt động nông nghiệp.
Thích ứng với hoạt động nông nghiệp là một kiểu tổ chức sinh hoạt
đặc thù của dân cư. Chính tính chất về sản xuất và sinh hoạt của dân
cư nông thôn qui định tính chất đặc thù của kết cấu hạ tầng nông
thôn. Kết cấu hạ tầng nông thôn là khái niệm dùng để chỉ tổng thể
những phương tiện vật chất và thiết kế làm nền tảng cho kinh tế xã
hội nông thôn phát triển. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn
bao gồm hạ tầng kinh tế xã hội cho toàn ngành nông nghiệp và nông
thôn của vùng và của thôn xã.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn là một b ộ
phận của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn. Nó được hiểu là
những hệ thống thiết bị và công trình kỹ thuật được tạo lập, phân
bố và phát triển trong các vùng nông thôn và trong các hệ thống
sản xuất nông nghiệp, tạo thành cơ sở và điều kiện chung cho phát
triển kinh tế-xã hội ở khu vực này.
2. Vai trò của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn
Trong từng giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, sự phát
triển của nông nghiệp và nông thôn được dựa trên một hệ thống kết





cấu hạ tầng có trình độ phát triển nhất định. Như vậy, sự phát triển
hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn có vai trò to lớn thể hiện qua các
mặt sau
2.1 Mức độ và trình độ phát triển kết cấu hạ tầng là một chỉ
tiêu phản ánh và đánh giá trình độ phát triển nói chung của nông
nghiệp và nông thôn.
Đối với bất cứ một xã hội nào thì sự phát triển của kết cấu hạ
tầng bao giờ cũng là một yếu tố, một chỉ số của sự phát triển xã hội
nói chung, của nông thôn nói riêng. Với tính cánh là một chỉ số đánh
giá sự phát triển của nông thôn, người ta thường dùng các chỉ tiêu để
thể hiện mức độ và trình độ phát triển của từng yếu tố kết cấu hạ
tầng như: số kilômét đường giao thông tính trên một km2, tính trên
1000 dân số, số xã có trạm xá, số xã có trường tiểu học…
Trong quá trình phát triển, vai trò và tầm quan trọng của kết
cấu hạ tầng ngày một tăng lên. Trong điều kiện phát triển với trình
độ thấp, tự cấp, tự túc là chủ yếu thì các yếu tố hạ tầng ở nông thôn
là đơn giản và yếu kém. Trong điều kiện hiện nay, với xu hướng mở
cửa và hội nhập, nếu thiếu hệ thống thông tin viễn thông, hệ thống
ngân hàng, thiếu hệ thống giao thông hiện đại, thiếu những công
trình kiến trúc hiện đại phục vụ các hoạt động văn hoá xã hội… thì
sự phát triển khó có thể diễn ra hoặc không được như mong muốn.
Như vậy, xây dựng và phát triển hạ tầng đã trở thành một nội dung
quyết định cho sự phát triển nông nghiệp nông thôn.
2.2 Kết cấu hạ tầng, trước hết là những hạ tầng trong kinh tế,
giữ vai trò quyết định trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn

Nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay đang trong quá trình
chuyển biến lên sản xuất lớn trên cơ sở thực hiện công nghiệp hoá
hiện đại hoá chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông




thôn. Tuy nhiên thực trạng kết cấu hạ tầng nông thôn lạc hậu đã cản
trở lớn tới quá trình này. Trong khi nghiên cứu tình hình kinh tế Việt
nam các chuyên gia ngân hàng thế giới rằng: Những trở ngại trong
giao thông vận tải( không chỉ là chi phí vận tải) thường là trở ngại
chính đối với sự phát triển khả năng chuyên môn hoá sản xuất tại
tưng khu vực có tiềm năng phát triển nhưng không thể tiêu thụ được
sản phẩm hoặc không được cung cấp lương thực một cách ổn định
nhất là miền núi.
2.3 Kết cấu hạ tầng nông thôn phát triển cân đối và toàn diện,
bao gồm cả hạ tầng trong kinh tế và hạ tầng văn hoá, xã hội là điều
kiện của việc phát triển nông thôn toàn diện và văn minh.
Nông thôn Việt Nam đã trải qua quá trình phát triển lâu dài, từ
nông thôn truyền thống xưa kia đến thời kì xây dựng nông thôn mới
ngày nay. Nông thôn truyền thống xưa kia dựa vào nền nông nghiệp
nhỏ độc canh cây lúa nước nên rất nghèo. Đến lượt mình trạng thái
kém phát triển của kinh tế đã quyết định trạng thái kém phát triển của
hệ thống hạ tầng, với một số yếu tố hạ tầng nhỏ bé, thích ứng với
khuôn khổ sinh hoạt kinh tế hạn hẹp của các cộng đồng nông thôn
truyền thống: Hệ thống thuỷ nông về cơ bản chưa hình thành, việc
tưới tiêu nước phụ thuộc vào nước mưa, hệ thống giao thông chủ yếu
là đường mòn, đường đất, đường lát gạch đường đá thích hợp cho
việc đi bộ…Những công trình của hạ tầng nông thôn truyền thống nói
trên được hình thành từ nhu cầu kinh tế, văn hoá xã hội sinh hoạt của

nông thôn, có qui mô và trình độ thích ứng với khả năng kinh tế và
nhu cầu sịnh hoạt của nông thôn truyền thống. Ngày nay nông nghiệp
và nông thôn Việt Nam đang trong quá trình phát triển ở giai đoạn
mới, có sự tác động mạnh mẽ của quá trình đô thị hoá, hoạt động sản
xuất công nghiệp được tiến hành trên cơ sở công nghiệp hoá. Như
vậy việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn phát triển toàn




diện với nhu cầu và đáp ứng những đòi hỏi của việc phát triển nông
thôn mới là yêu cầu bắt buộc trong quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hoá ở nước ta.
2.4 Đối với những vùng nông thôn chậm và kém phát triển,
tập trung sức phát triển kết cấu hạ tầng còn là cách thức để xoá bỏ
sự chênh lệch trong quá trình phát triển.
Bằng việc phát triển kết cấu hạ tầng, trước hết là hạ tầng giao
thông vận tải, thông tin liên lạc… sẽ tạo cơ sở cho việc tăng cường
giao lưu kinh tế văn hoá, phá vỡ sự khép kín của nông thôn truyền
thống với toàn nền kinh tế, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận với
các nguồn lực phát triển từ các dự án quốc gia và quốc tế, thúc đẩy
sự hình thành và phát triển sản xuất hàng hoá. Phát triển kết cấu hạ
tầng là cách thức phân bố rộng khắp những thành tựu của ph át triển,
nâng cao mức hưởng thụ văn hoá và tạo lập sự công bằng hơn giữa
các vùng trong cả nước.
3. Những đặc điểm chủ yếu của việc xây dựng phát triển kết
cấu hạ tầng nông thôn.
Kết cấu hạ tầng của một đất nước nói chung cũng như của nông
thôn nói riêng được hình thành và phát triển qua từng giai đoạn phát
triển của kinh tế và xã hội. Để thực hiện việc xây dựng và phát triển

kết cấu hạ tầng nông thôn đáp ứng yêu cầu phát triển, cần chú ý
những đặc điểm chủ yếu sau đây:
3.1 Kết cấu hạ tầng có tính hệ thống cao
Kết cấu hạ tầng là một hệ thống cấu trúc phức tạp phân bố trên
toàn lãnh thổ, trong đó có những bộ phận có mức độ và phạm vi ảnh
hưởng cao thấp khác nhau đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
toàn bộ nông thôn, của vùng và của làng xã. Tuy vậy các bộ phận này
có mối liên kết gắn bó với nhau trong quá trình hoạt động khai thác
và sử dụng. Do vậy việc qui hoạch tổng thể trong phát triển kết cấu




hạ tầng, phối kết hợp giữa các loại hạ tầng trong một hệ thống đồng
bộ sẽ giảm chi phí tối đa và tăng tối đa công dụng của các cơ sở hạ
tầng cả trong xây dựng cũng như quá trình vận hành.
Tính chất đồng bộ hợp lý trong việc phối kết hợp các yếu tố hạ
tâng không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa về xã hội
nhân văn. Các công trình về hạ tầng thường là các công trình lớn,
chiếm chỗ trong không gian. Tính hợp lý của các công trình này đem
lại sự thay đổi lớn trong cảnh quan và có tác động tích cực đến các
địa bàn dân cư. Nếu trong khi xây dựng và qui hoạch các công trình
hạ tầng mà chỉ chú ý đến công năng chính của nó hay ít quan tâm đến
khía cạnh xã hội nhân văn, đến những dịch vụ mới nảy sinh sau khi
có công trình, sẽ làm suy yếu khía cạnh cảnh quan, văn hoá hoặc gây
trở ngại cho sinh hoạt của dân cư.
3.2 Tính tiên phong định hướng của kết cấu hạ tầng
Đặc điểm này đòi hỏi trong quá trình phát triển kết cấu hạ tầng
nông thôn phải chú ý đến những vấn đề sau:
+Kết cấu hạ tầng của toàn bộ nông nghiệp nông thôn, cả vùng

hay của làng xã cần được hình thành và phát triển trước một bước và
phù hợp với các hoạt động kinh tế xã hội. Dựa trên các qui hoạch
kinh tế xã hội để quyết định việc xây dựng kết cấu hạ tầng. Đến lượt
mình sự phát triển kết cấu hạ tầng về qui mô, chất lượng, trình độ kỹ
thuật lại thể hiện định hướng phát triển kinh tế xã hội và tạo tiền đề
vật chất cho tiến trình phát triển kinh tế xã hội.
+ Trong từng giai đoạn phát triển toàn bộ nông nghiệp nông
thôn hay từng vùng có những yếu tố quyết định đến sự phát triển của
từng mặt, từng khâu của quá trình sản xuất hay sinh hoạt hoặc những
yếu tố có khả năng gây ra những tiến bộ mang tính lan truyền. Chiến
lược đầu tư phát triển hạ tầng trọng điểm làm nền tảng cho một tiến
trình phát triển. Chiến lược này gọi là chiến lược ưu tiên. Thực hiện




tốt chiến lược ưu tiên trong phát triển kết cấu hạ tầng của toàn bộ
nông thôn, trong mỗi giai đoạn phát triển sẽ vừa quán triệt tốt đặc
điểm về tính tiên phong định hướng, vừa giảm nhẹ nhu cầu vốn đầu
tư cần huy động do chỉ tập trung vào những nhu cầu ưu tiên.
3.3 Tính xã hội và tính cộng đồng cao
Tính xã hội và tính cộng đồng cao của các công trình kết cấu
hạ tầng thể hiện cả trong xây dựng và trong sử dụng. Trong sử dụng
hầu hết các công trình đều được sử dụng một cách tập thể, có tính tập
thể. Giới hạn qui mô tập thể người sử dụng chung các công trình hạ
tầng tuỳ thuộc tính chất của từng loại công trình. Trong xây dựng
mỗi loại công trình khác nhau có những nguồn vốn khác nhau. Để
việc xây dựng quản lý các công trình hạ tầng nông thôn có kết quả
cần lưu ý :
+Đảm bảo hài hoà nghĩa vụ trong xây dựng và quyền lợi tron g

sử dụng đối với mỗi công trình hạ tầng cụ thể. Nguyên tắc cơ bản là
gắn quyền lợi với nghĩa vụ. Trong một số trường hợp khi xây dựng
làm thiệt đối với đối tượng này nhưng lại làm lợi cho đối tượng khác
thì cần có biện pháp xử lý phù hợp.
+Thực hiện tốt việc phân cấp trong xây dựng và quản lý sử
dụng công trình cho từng cấp chính quyền, từng đối tượng cụ thể để
khuyến khích việc phát triển và sử dụng có hiệu quả kết cấu hạ tầng.
3.4 Trong điều kiện kinh tế thị trường, xây dựng hạ tầng nói
chung và hạ tầng nông thôn nói riêng thuộc lĩnh vức đầu tư kinh
doanh, hơn nữa là lĩnh vực đầu tư đòi hỏi vốn lớn.
Trong tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn, cần có kế
hoạch phân bổ hợp lý không chỉ giữa các yếu tố hạ tầng mà còn giữa
các lĩnh vực phát triển lĩnh vực phát triển hạ tầng và các hoạt động
kinh tế xã hội. Trong điều kiện nguồn vốn có hạn, nếu qúa nhấn mạnh

×