LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã có bước phát triển khá, tốc độ tăng trưởng
kinh tế trung bình 7-8%. Tuy vậy, hiện nay do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta có xu hướng giảm dần trong những năm tiếp
theo. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên đó là chất lượng nguồn nhân lực, tỷ
lệ lao động qua đào tạo nói chung và lao động qua đào tạo nghề nói riêng còn thấp. Để đáp
ứng nhu cầu lao động cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì cần phải
đổi mới và phát triển công tác đào tạo nghề.
Thực trạng hiện nay đang diễn ra đó là sự thiếu hụt đội ngũ lao động có trình độ kỹ năng
nghề cao cho doanh ngiệp sử dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cùng với
đó là nguy cơ thiếu việc làm và không có việc làm của đông đảo thanh niên và người lao
động tại các vùng nông thôn, vùng điều kiện kinh tế khó khăn, vùng chuyển đổi mục tiêu
sử dụng đất trong quá trình CNH và đô thị hoá. Mà nguyên nhân của tình trạng trên đó là
do họ có ít cơ hội học nghề để có thể tìm được việc làm phù hợp. Vì vậy việc đầu tư xây
dựng các cơ sở dạy nghề đóng một vai trò rất quan trọng để phát triển nguồn nhân lực cho
đất nước, có một đội ngũ lao động đáp ứng yêu cầu. Từ những vấn đề nêu trên tôi quyết
định chọn đề tài: “Đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề theo dự án mà Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội quản lý - Thực trạng và giải pháp”.
Nội dung bài viết bao gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề
Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề theo dự án thuộc
nguồn vốn ngân sách nhà nước do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội quản lý giai đoạn
2004-2008
Chương III: Mục tiêu và giải pháp đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề đến năm
2020
Để bài viết được hoàn thiện hơn tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy
cô và các bạn.
Xin chân thành cám ơn!
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CÁC
TRƯỜNG DẠY NGHỀ
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẠY NGHỀ
1. Khái niệm về dạy nghề
Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp
cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi
hoàn thành khoá học.
2. Các trình độ đào tạo trong dạy nghề
Dạy nghề có ba trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề. Dạy nghề
bao gồm dạy nghề chính quy và dạy nghề thường xuyên.
2.1. Trình độ sơ cấp nghề
Mục tiêu dạy nghề trình độ sơ cấp: Dạy nghề ở trình độ sơ cấp nhằm trang bị cho người
học năng lực thực hành một nghề đơn giản, năng lực thực hành một số công việc của một
nghề. Người học nghề có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công
nghiệp, có sức khoẻ, để người học sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc
làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.
Thời gian học nghề trình độ sơ cấp: Dạy nghề trình độ sơ cấp được thực hiện từ ba tháng
đến dưới một năm tuỳ theo ngành nghề học đối với người có trình độ học vấn, sức khoẻ
phù hợp với nghề cần học.
Về nội dung, phương pháp dạy nghề trình độ sơ cấp: Nội dung dạy nghề trình độ sơ cấp
phải phù hợp với mục tiêu dạy nghề trình độ này, trong đó tập trung vào năng lực thực
hành nghề và nội dung dạy phải phù hợp với thực tiễn và sự phát triển của khoa học, công
nghệ. Vì vậy phương pháp dạy nghề trình độ sơ cấp phải chú trọng rèn luyện kỹ năng thực
hành nghề và phát huy tính tích cực, tự giác của người học nghề.
Chương trình dạy nghề trình độ sơ cấp: Chương trình dạy nghề trình độ sơ cấp thể hiện
mục tiêu dạy nghề trình độ sơ cấp; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc
nội dung, phương pháp và hình thức dạy nghề; cách thức đánh giá kết quả học tập đối với
mỗi mô-đun, mỗi nghề. Các chương trình dạy nghề trình độ sơ cấp do người đứng đầu cơ
sở dạy nghề quy định.
Giáo trình dạy nghề trình độ sơ cấp: Giáo trình dạy nghề trình độ sơ cấp cụ thể hoá yêu
cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng của mỗi mô-đun trong chương trình dạy nghề, tạo điều
kiện để thực hiện phương pháp dạy học tích cực.
Cơ sở dạy nghề trình độ sơ cấp:
Trung tâm dạy nghề.
Trường trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trình độ sơ cấp.
Doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác (gọi chung là doanh
nghiệp), trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học, cơ sở giáo dục
khác có đăng ký dạy nghề trình độ sơ cấp.
Chứng chỉ sơ cấp nghề: Người học nghề học hết chương trình sơ cấp nghề có đủ điều
kiện thì được dự kiểm tra, nếu đạt yêu cầu thì được người đứng đầu cơ sở dạy nghề cấp
chứng chỉ sơ cấp nghề.
2.2. Trình độ trung cấp nghề
Mục tiêu dạy nghề trình độ trung cấp: Trang bị cho người học nghề kiến thức chuyên
môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có khả năng làm việc độc lập và
ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào công việc. Người lao động qua đào tạo ở trình
độ này có đạo đức, có sức khoẻ, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công
nghiệp tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự
tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.
Thời gian học nghề trình độ trung cấp: Dạy nghề trình độ trung cấp được thực hiện từ
một đến hai năm học tuỳ theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông; từ ba đến bốn năm học tuỳ theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung
học cơ sở.
Về nội dung, phương pháp dạy nghề trình độ trung cấp: Nội dung dạy nghề trình độ
trung cấp phải phù hợp với mục tiêu dạy nghề trình độ trung cấp, đào tạo tập trung vào
năng lực thực hành các công việc của một nghề, từ đó nâng cao trình độ học vấn theo yêu
cầu đào tạo, bảo đảm tính hệ thống và phù hợp với thực tiễn và sự phát triển của khoa học,
công nghệ. hiện nay
Phương pháp dạy nghề trình độ trung cấp phải kết hợp rèn luyện năng lực thực hành nghề
với trang bị kiến thức chuyên môn và phát huy tính tích cực, tự giác, khả năng làm việc
độc lập của người học nghề.
Chương trình dạy nghề trình độ trung cấp: Chương trình dạy nghề trình độ trung cấp thể
hiện mục tiêu dạy nghề trình độ trung cấp; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và
cấu trúc nội dung, phương pháp và hình thức dạy nghề; cách thức đánh giá kết quả học tập
đối với mỗi mô-đun, môn học, mỗi nghề.
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở trung ương:
Thứ nhất: Phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ có liên quan tổ chức xây dựng chương trình khung trung cấp nghề.
Thứ hai, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở trung ương quyết định thành
lập hội đồng thẩm định chương trình khung trung cấp nghề; quy định nhiệm vụ, quyền
hạn, phương thức hoạt động và số lượng thành viên của hội đồng; ban hành chương trình
khung trung cấp nghề trên cơ sở kết quả thẩm định của hội đồng thẩm định chương trình
khung trung cấp nghề.
Hiệu trưởng các trường căn cứ vào chương trình khung tổ chức biên soạn và duyệt chương
trình dạy nghề của trường mình.
Giáo trình dạy nghề trình độ trung cấp: Giáo trình dạy nghề trình độ trung cấp phải cụ
thể hoá yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng của mỗi mô-đun, môn học trong chương
trình dạy nghề, tạo điều kiện để thực hiện phương pháp dạy học tích cực. Hiệu trưởng các
trường tổ chức biên soạn và duyệt giáo trình làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức.
Cơ sở dạy nghề trình độ trung cấp
Trường trung cấp nghề.
Trường cao đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trình độ trung cấp.
Trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học có đăng ký dạy nghề
trình độ trung cấp.
Bằng tốt nghiệp trung cấp nghề: Học sinh học hết chương trình trung cấp nghề có đủ điều
kiện thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được hiệu trưởng các trường cấp bằng tốt nghiệp
trung cấp nghề theo quy định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở Trung
ương.
2.3. Trình độ cao đẳng nghề
Mục tiêu dạy nghề trình độ cao đẳng: Dạy nghề trình độ cao đẳng nhằm trang bị cho
người học nghề kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề,
có khả năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc theo nhóm; có khả năng sáng tạo, ứng
dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc; giải quyết được các tình huống phức tạp trong
thực tế; có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức
khoẻ, tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo
việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.
Thời gian học nghề trình độ cao đẳng: Dạy nghề trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai
đến ba năm học tuỳ theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông; từ một đến hai năm học tuỳ theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp
trung cấp nghề cùng ngành nghề đào tạo.
Về nội dung, phương pháp dạy nghề trình độ cao đẳng: Nội dung dạy nghề trình độ cao
đẳng cũng phải phù hợp với mục tiêu dạy nghề trình độ cao đẳng, tập trung vào năng lực
thực hành các công việc của một nghề, nâng cao kiến thức chuyên môn theo yêu cầu đào
tạo của nghề, bảo đảm tính hệ thống, cơ bản, hiện đại và phù hợp với thực tiễn và đáp ứng
sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Phương pháp dạy nghề phải kết hợp rèn luyện năng lực thực hành nghề với trang bị kiến
thức chuyên môn và phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo khả năng tổ chức làm việc
theo nhóm.
Chương trình dạy nghề trình độ cao đẳng: Chương trình dạy nghề trình độ cao đẳng ,
quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung, phương pháp và hình
thức dạy nghề; cách thức đánh giá kết quả học tập đối với mỗi mô-đun, môn học, mỗi
nghề. Chương trình dạy nghề trình độ cao đẳng nghề cũng phải phù hợp mục tiêu của dạy
nghề ở trình độ này.
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở Trung ương có nhiệm vụ:
+ Phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính
phủ có liên quan tổ chức xây dựng chương trình khung cao đẳng nghề.
+ Quyết định thành lập hội đồng thẩm định chương trình khung cao đẳng nghề; quy định
nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động và số lượng thành viên của hội đồng; ban
hành chương trình khung cao đẳng nghề trên cơ sở kết quả thẩm định của hội đồng thẩm
định chương trình khung cao đẳng nghề.
Giáo trình dạy nghề trình độ cao đẳng: Giáo trình dạy nghề trình độ cao đẳng cụ thể hoá
yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng của mỗi mô-đun, môn học trong chương trình dạy
nghề, tạo điều kiện để thực hiện phương pháp dạy học tích cực. Hiệu trưởng các trường tổ
chức biên soạn và duyệt giáo trình làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức.
Cơ sở dạy nghề trình độ cao đẳng:
Trường cao đẳng nghề.
Trường cao đẳng, trường đại học có đăng ký dạy nghề trình độ cao đẳng.
Bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề: Sinh viên học hết chương trình cao đẳng nghề có đủ điều
kiện thì được dự thi, nếu đạt yêu cầu thì được hiệu trưởng các trường cấp bằng tốt nghiệp
cao đẳng nghề theo quy định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở
trung ương.
2.4. Dạy nghề chính quy và dạy nghề thường xuyên
Dạy nghề chính quy
Dạy nghề chính quy được thực hiện với các chương trình sơ cấp nghề, trung cấp nghề và
cao đẳng nghề tại các cơ sở dạy nghề theo các khoá học tập trung và liên tục.
Dạy nghề thường xuyên
Dạy nghề thường xuyên được thực hiện với các chương trình dạy nghề Chương trình bồi
dưỡng, nâng cao, cập nhật kiến thức và kỹ năng nghề;
Chương trình dạy nghề theo hình thức kèm cặp nghề, truyền nghề; Chương trình chuyển
giao công nghệ; Chương trình dạy nghề được thực hiện theo hình thức vừa làm vừa học
hoặc tự học có hướng dẫn để được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề, bằng tốt nghiệp trung cấp
nghề, bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề.
Dạy nghề thường xuyên được thực hiện linh hoạt về thời gian, địa điểm, phương pháp đào
tạo để phù hợp với yêu cầu của người học nghề nhằm tạo điều kiện cho người lao động
học suốt đời, nâng cao trình độ kỹ năng nghề thích ứng với yêu cầu của thị trường lao
động, tạo cơ hội tìm việc làm, tự tạo việc làm.
Người đứng đầu cơ sở dạy nghề xây dựng chương trình dạy nghề, thường xuyên quy định
tổ chức thực hiện và cấp chứng chỉ cho người học nghề. Chứng chỉ phải ghi rõ nội dung và
thời gian khoá học.
Người dạy các chương trình dạy nghề thường xuyên là nhà giáo, nhà khoa học, nghệ nhân,
người có tay nghề cao.
Cơ sở dạy nghề chỉ được tổ chức thực hiện các chương trình dạy nghề theo hình thức vừa
làm vừa học hoặc tự học có hướng dẫn để được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề, bằng tốt
nghiệp trung cấp nghề, bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề (theo hình thức dạy nghề thường
xuyên) sau khi đã bảo đảm thực hiện nhiệm vụ dạy nghề chính quy.
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CÁC TRƯỜNG
DẠY NGHỀ
1. Khái niệm đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề
Đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu
được kết quả trong tương lai.
Đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề là hoạt động đầu tư mà người đầu tư bỏ
vốn xây dựng hạ tầng cơ sở, mua sắm máy móc, trang thiết bị, đổi mới chương trình đào
tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ nhân lực nhằm duy trì và nâng cao năng lực hoạt động
của hệ thống các trường dạy nghề trong nền kinh tế quốc dân.
Đầu tư xây dựng hệ thống các trường dạy nghề là hoạt động đầu tư phát triển vì kết quả
của nó tạo ra làm tăng giá trị tài sản mới đó là số lượng các lớp học mới, nhà xưởng, các
máy móc và các trang thiết bị, chương trình đào tạo phục vụ cho hoạt động dạy nghề tại
các cơ sở; không những thế hoạt động đầu tư này còn tạo ra một đội ngũ nguồn nhân lực
mới với chất lượng tốt hơn đáp ứng yêu cầu lao động của các doanh nghiệp trong và ngoài
nước.
2. Vai trò của đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề
2.1. Trên góc độ nền kinh tế
Đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề là chìa khoá của tăng trưởng và phát triển.
Đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề tạo cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho
công tác dạy và học nghề., khuyến khích đội ngũ giáo viên và học viên phát huy tinh thần
sáng tạo trong dạy và học nghề. Các học viên được tiếp cận, trực tiếp vận hành những máy
móc thiết bị hiện đại đáp ứng yêu cầu về trình độ lao động của các doanh nghiệp, tăng
cường khả năng chuyển giao công nghệ từ đó các doanh nghiệp Việt Nam có thể làm chủ
được những công nghệ hiện đại tiên tiến của thế giới thông qua mua bán và hợp tác với các
doanh nghiệp trong nước.
Đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề làm thay đổi cơ cấu ngành nghề đào tạo, từ
đó làm thay đổi cơ cấu lao động theo ngành Công nghiệp, dịch vụ tăng lên, giảm số lượng
lao động làm trong các ngàng nông lâm ngư nghiệp. Sự thay đổi cơ cấu lao động theo
ngành lại tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - Dịch vụ -
Nông nghiệp.
Bên cạnh đó đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề còn thể hiện sự quan tâm của
nhà nước cho các tỉnh thành phố trong cả nước những vùng khó khăn để đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu lao động qua đào tạo của chính địa phương mình, với mục tiêu
mà Đảng và nhà nước ta hướng tới đó là tăng trưởng bền vững và công bằng xã hội.
2.2. Trên góc độ doanh nghiệp
Đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề giúp cho doanh nghiệp có thể tuyển được
một đội ngũ nhân lực có trình độ tay nghề tương đối đáp ứng, tăng khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp mình ở thị trường trong nước và thế giới. Bởi vì có những sản phẩm mà
người lao động bình thường không thể làm ra được mà cần phải được qua đào tạo dạy
nghề dài hạn mới có thể làm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, và cũng
có những máy móc, thiết bị hiện đại mà nếu không qua học nghề và đào tạo tại các trường
dạy nghề thì không thể vận hành một cách thành công đưa vào sản xuất nâng cao năng suất
lao động. Thông qua đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề các doanh nghiệp có
thể giảm bớt khoản chi phí chi cho công tác đào tạo lao động, có thể tuyển dụng được đội
ngũ lao động ngay tại các tỉnh thành phố mà cơ sở sản xuất của doanh nghiệp mình xây
dựng mà không phải mất thêm những chi phí tìm kiếm lao động ở các tỉnh thành phố khác
và đặc biệt là tiết kiệm được khoản chi phí nhân công rất cao khi phải thuê đội ngũ chuyên
gia nước ngoài.
Hiện nay theo chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng các trường dạy nghề của nhà nước
thì các doanh nghiệp bỏ vốn ra để đầu tư xây dựng trường dạy nghề thì sẽ được ưu tiên và
hỗ trợ trong các thủ tục và được miễn giảm thuế thuê đất.
3. Đặc điểm của đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề
Hoạt động đầu tư phát triển hệ thống dạy nghề bên cạnh mang những đặc diểm của
hoạt động đầu tư phát triển nói chung thì hoạt động này còn có một số những điểm khác
biệt mang tính đặc thù riêng. Sau đây là đặc điểm cụ thể của đầu tư phát triển hệ thống các
trường dạy nghề
Thứ nhất, đó là lượng vốn dành cho các trường dạy nghề lớn và phải chi tiêu một cách
thường xuyên và kịp thời mới phát huy hiệu quả cao. Vì những máy móc, trang thiết bị cần
được trang bị cho các cơ sở dạy nghề là rất tốn kém có những thiết bị lên đến hàng chục
triệu, thậm chí nếu cơ sở đó hiện đại thì có thể nên đến hàng trăm triệu đồng. Vì vậy nguồn
vốn cho hoạt động đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề không chỉ huy động
nguồn vốn từ ngân sách nhà nước mà cần phải biết huy động thêm những nguồn khác: từ
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; từ người học thông qua việc đóng học phí.
Thứ hai, Thời gian tiền hành đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề tương đối dài
vì nó phụ thuộc vào nguồn vốn phân bổ từ ngân sách nhà nước cho các địa phương và
thông qua nhiều cơ quan quản lý. Hoạt động đầu tư này được tiến hành thường xuyên đối
với tất cả các trường dạy nghề có thể đầu tư thêm vốn để đổi mới chương trình đào tạo,
đầu tư xây dựng thêm một khu nhà dạy học và thực hành…để mở rộng thêm quy mô đào
tạo.
Thứ ba, hoạt động đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề được tiến hành rộng
khắp ở các địa phương trong cả nước, để mỗi một tỉnh, một huyện đều có những trường
dạy nghề đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực tại chỗ. Việc đào tạo nghề một cách sâu sát như
thế người lao động đặc biệt là những lao động ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số có thể học hỏi được những kinh nghiệm trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
nâng cao năng suất cây trồng.
Thứ tư, Hoạt động đầu tư này mang một ý nghĩa xã hội to lớn làm giảm tỷ lệ thất nghiệp
trong xã hội, cạnh tranh được với những trường dạy nghề trên thế giới để các trường dạy
nghề Việt Nam không bị thua trên sân nhà. Có thể nói đây chính là hoạt động đầu tư nâng
cao giá trị của Việt Nam trên thị trường quốc tế, vì một đất nước mà cơ sở vật chất của các
trường dạy nghề kém thì không thể nói đến được một chất lượng đào tạo tốt, cơ sở vật chất
của các trường dạy nghề là nền tảng cho sự phát triển giáo dục dạy nghề theo hướng công
nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
4. Nội dung đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề
4.1. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị cho các cơ sở dạy nghề
Cơ sở vật chất của các trường dạy nghề đó là hệ thống các phòng làm việc, xưởng thực
hành, thư viện, sách và các thiết bị cho từng ngành nghề. Có thể nói cơ sở vật chất là một
trong những nhân tố quan trọng không thể thiếu được với trường dạy nghề. Trang thiết bị,
cơ sở vật chất đầy đủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho học viên trong quá trình thực hành để
hoàn thiện kỹ năng sản xuất. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề càng tốt, càng hiện đại,
càng theo sát với máy móc phục vụ cho sản xuất trong các ngành của nền kinh tế bao nhiêu
thì học viên càng có thể thích ứng và vận dụng một cách nhanh chóng với sản xuất trong
doanh nghiệp bấy nhiêu. Hiện nay xảy ra một thực trạng đó là các trường nghề rất vắng
học sinh và nguyên nhân đó là do đâu? Câu trả lời đó là do cơ sở vật chất, trang thiết bị
thiếu trầm trọng, chỉ có một số trường được trang bị máy móc kỹ thuật đồng bộ với máy
móc tại công ty, còn lại thì vẫn còn khá lạc hậu chỉ có thể đáp ứng 1-2 ngành nghề đào tạo.
Vì vậy để đảm bảo chất lượng dạy nghề cần phải đầu tư một cách hợp lý cho việc xây
dựng cơ sở vật chất mua sắm máy móc trang thiết bị để đào tạo được một đội ngũ nhân lực
đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị bao gồm hai nội dung lớn sau:
- Đầu tư phòng học, xưởng thực hành, thư viện và các cơ sở hạ tầng khác
- Đầu tư mua sắm các máy móc, thiết bị và phương tiện phục vụ cho việc dạy và học
nghề.
4.2. Đầu tư cho các chương trình đào tạo của hệ thống các trường dạy nghề
Chương trình dạy nghề thể hiện mục tiêu dạy nghề, quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng
phạm vi và cấu trúc nội dung, phương pháp và hình thức dạy nghề; cách thức đánh giá kết
quả học tập đối với mỗi mô-đun, môn học, mỗi nghề.
Chương trình dạy nghề trình độ sơ cấp được thực hiện dưới một năm đối với
người có nhu cầu học nghề, có trình độ học vấn, sức khoẻ phù hợp với nghề
cần học.
Chương trình dạy nghề trình độ trung cấp được thực hiện ba năm đối với
người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở; từ một đến hai năm đối với người
có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông.
Chương trình dạy nghề trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm
đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông; từ một năm rưỡi đến
hai năm đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp.
Chương trình khung quy định về cơ cấu nội dung, số lượng và thời lượng
cho các mô-đun, môn học; tỷ lệ thời gian giữa lý thuyết và thực hành, bảo
đảm mục tiêu của từng trình độ cho mỗi nghề và yêu cầu liên thông theo quy
định.
Các chương trình dạy nghề trình độ Trung cấp nghề và trường Cao đẳng
nghề được xây dựng trên chương trình khung trình độ Trung cấp nghề, trình
độ Cao đẳng nghề cho từng nghề ban hành theo hướng :
Chương trình dạy nghề của từng nghề = Chương trình khung của nghề +
15%-25% (đối với Trung cấp nghề) hoặc 20-30% (đối với Cao đẳng nghề)
nội dung kiến thức kỹ năng do trường tự lựa chọn theo quyết định số
01/2007/ QĐ - Bộ LĐ-TB&XH
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ
có liên quan quy định chương trình khung cho từng trình độ nghề được đào
tạo, trên cơ sở kết quả thẩm định của hội đồng thẩm định ngành.
Căn cứ vào chương trình khung đã được quy định và nhiệm vụ đào tạo của
cơ sở dạy nghề, người đứng đầu cơ sở dạy nghề tổ chức xây dựng và ban
hành chương trình dạy nghề trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao
đẳng trên cơ sở kết quả thẩm định của hội đồng thẩm định chương trình.
Đầu tư vào chương trình đào tạo nghề có hai nội dung:
+ Đầu tư xây dựng các chương trình, giáo trình dạy học
+ Đầu tư xây dựng các chương trình dạy nghề
4.3. Đầu tư vào đội ngũ nhân lực: Giáo viên và các cán bộ quản lý
Giáo viên dạy nghề là người dạy lý thuyết, dạy thực hành hoặc vừa
dạy lý thuyết vừa dạy thực hành trong các cơ sở dạy nghề. Giáo viên dạy
nghề có nhiều đặc thù: vừa phải có tay nghề của công nhân kỹ thuật lành
nghề, vừa phải là nhà giáo để có thể dạy thực hành nghề, vừa là nhà kỹ thuật
và đồng thời là nhà quản lý để có thể dạy lý thuyết nghề và quản lý dạy học.
Trình độ chuẩn của giáo viên dạy nghề được quy định như sau:
Giáo viên dạy lý thuyết trình độ sơ cấp nghề phải có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề trở
lên; giáo viên dạy thực hành phải là người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề trở lên hoặc
là nghệ nhân, người có tay nghề cao;
Giáo viên dạy lý thuyết trình độ trung cấp nghề phải có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm
kỹ thuật hoặc đại học chuyên ngành; giáo viên dạy thực hành phải là người có bằng tốt
nghiệp cao đẳng nghề hoặc là nghệ nhân, người có tay nghề cao;
Giáo viên dạy lý thuyết trình độ cao đẳng nghề phải có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm kỹ
thuật hoặc đại học chuyên ngành trở lên; giáo viên dạy thực hành phải là người có bằng tốt
nghiệp cao đẳng nghề hoặc là nghệ nhân, người có tay nghề cao;
Trường hợp giáo viên dạy nghề không có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm kỹ thuật hoặc
đại học sư phạm kỹ thuật thì phải có chứng chỉ đào tạo sư phạm.
Việc đầu tư đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
ở các trường dạy nghề đang gặp phải hai vấn đề lớn:
Một là, số lượng giáo viên không đủ. Số lượng cán bộ quản lý và giáo viên
không đủ sẽ trở thành một vấn đề nghiêm trọng hơn nếu hệ thống giáo dự kỹ
thuật và dạy nghề sẽ được mở rộng để đào tạo với số lượng lớn hơn
Hai là, chất lượng giáo viên, các chuyên gia kỹ thuật phải là những công
nhân lành nghề của ngành đồng thời cũng phải là những người có trình độ sư
phạm giỏi. Để đảm đương tốt công việc giáo dục kỹ thuật và dạy nghề thì
giáo viên kỹ thuật trước khi bước vào nghề phải nắm vững cả hai loại
chuyên môn này và họ phải được cập nhật kiến thức thường xuyên khi họ
đang làm công tác giảng dạy. Các chương trình đào tạo tại chức hiện nay
cho giáo viên chỉ bồi dưỡng về mặt sư phạm nhưng còn hạn chế trong việc
cập nhật kiến thức và kỹ năng kỹ thuật.
Để có thể đào tạo được số lượng công nhân lành nghề đủ về số lượng và có
chất lượng thì chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên được xem là một yếu tố
quan trọng. Vì vậy cần phải được quan tâm đầu tư phát triển khi xây dựng và
đổi mới các trường dạy nghề.
5. Nguồn vốn cho đầu tư phát triển dạy nghề
a. Nguồn vốn ngân sách của nhà nước
Vốn ngân sách nhà nước bao gồm nguồn vốn từ trung ương và nguồn
vốn từ địa phương.
Vốn ngân sách nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc đầu tư phát triển
dạy nghề vì đây là một hoạt động đầu tư cần tiến hành một cách thường
xuyên và nhà nước cần giữ vai trò quản lý thống nhất các hoạt động này để
giáo dục nghề nghiệp không bị lệch khỏi sự phát triển đó, xây dựng lòng tin
của người dân, người lao động vào đảng vào chính phủ , từ đó xây dựng
được một nền chính trị ổn định.
Tuy nhiên hiện nay ngân sách nhà nước ta đang trong tình trạng chi > thu, vì
vậy chúng ta cũng không nên quá ỷ lại vào ngân sách mà cần có những
chiến lược đầu tư xây dựng từ nhiều nguồn vốn khác.
b. Nguồn vốn tài trợ của các tổ chức và cá nhân trong nước
c. Nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức và cá nhân nước ngoài
Đây là một nguồn tài chính quan trọng cho công tác dạy nghề. Bên
cạnh đó chúng ta còn nhận được sự giúp đỡ trực tiếp thông qua các dự án
hợp tác quốc tế, đưa lao động của ta đi đào tạo ở nước ngoài.
d. Nguồn vốn thu từ học phí của các học viên
Các học viên học nghề cần phải đóng một khoản học phí đó là số tiền dũng
để trang bị thêm các máy móc và thiết bị kỹ thuật mới, và dùng để trả lương
cho cán bộ giáo viên trong trường.
e. Nguồn tài trợ của doanh nghiệp
Thông qua mô hình đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp, các cơ sở dạy
nghề tận dụng tối đa sự giúp đỡ của các doanh nghiệp trong việc đào tạo
nghề cho người lao động như giúp đỡ về máy móc thiết bị đào tạo nghề...
6. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả của đầu tư phát triển hệ
thống các trường dạy nghề
6.1. Chỉ tiêu đánh giá kết quả
Hoạt động đầu tư cho công tác dạy nghề đã tạo ra những sản phẩm hết sức
đặc biệt mà không giống bất kỳ một loại sản phẩm thông thường của các cơ
sở sản xuất theo quy trình công nghiệp, sản phẩm mà hoạt động này tạo ra
không thể lượng hoá được bằng những con số cụ thể mà để xác định được
nó chúng ta cần phải căn cứ vào những mục tiêu mà hoạt động này hướng
tới.
Hoạt động đầu tư cho công tác dạy nghề đã tạo ra nhiều trường, lớp học dạy
nghề và các công trình phục vụ cho việc dạy và học, điều đó đã làm tăng
khối lượng cơ sở vật chất cho xã hội. Số lượng các trường lớp không ngừng
gia tăng qua các năm. Cùng với đó là việc trang bị thêm máy móc thiết bị
cho công tác dạy và học nghề.
Chỉ tiêu này được thể hiện qua số lớp học, trường học, số mét vuông của lớp
học. Sự gia tăng năng lực sản xuất phục vụ do các tài sản cố định tạo ra, hoạt
động đầu tư này đã làm phát triển nguồn nhân lực đất nước (đầu tư theo
chiều sâu).
Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm được thể hiện qua các chỉ tiêu cụ thể
sau:
+ Số lượng các cơ sở dạy nghề được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật, trang bị các máy móc thiết bị.
Để đào tạo được nguồn nhân lực có trình độ cao mà cụ thể là các
công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề thì điều đầu tiên quyết đinh đến đó
là cơ sở vật chất trang bị cho các trường dạy nghề (hoạt động đầu tư xây
dựng cơ bản). Điều này đầu tiên sẽ tác động đến tâm lý của người học khi cơ
sở vật chất tốt sẽ tạo ra sự phấn khích học tập cho họ, thứ hai là họ sẽ có cơ
hội tiếp cận với các máy móc và thiết bị hiện đại mà hiện nay các doanh
nghiệp đang sử dụng.
Từ việc đầu tư cho các trường dạy nghề, các trường này đã có thêm
các trang thiết bị mới, nâng cao chất lượng và tình trạng hoạt động của mình.
Số lượng các chương trình, giáo trình được biên soạn, thay đổi lại cho phù
hợp
+ Số lượng các chương trình đào tạo, giáo trình được xây dựng, chỉnh
sửa cho phù hợp với ngành nghề đào tạo và mục tiêu, phương pháp đào tạo
của trường dạy nghề
Bất kỳ một cơ sở dạy nghề nào muốn đào tạo nghề cho học viên thì cái mà
họ không thể thiếu được đó là các chương trình, giáo trình dạy học. Có
những cơ sở có những máy móc và thiết bị cũng khá hiện đại nhưng chương
trình học mà họ đưa ra chưa phù hợp thì cũng không thể nói đến chất lượng,
khi đó họ đào tạo mà không đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp.
Chương trình đào tạo của mỗi nghề là khác nhau, vì vậy mỗi cơ sở dạy nghề
đều phải đầu tư xây dựng cho mình một chương trình và giáo trình phù hợp
và cần phải nắm bắt nhu cầu của thị trường thay đổi kịp thời. Và kết quả mà
hoạt động đầu tư này tạo ra đó là số các chương trình và giáo trình được biên
soạn, chỉnh sửa đối với mỗi loại nhóm nghề.
+ Số lượng các giáo viên được đào tạo nâng cao trình độ tay nghề và
kỹ năng sư phạm.
Việc đào tạo nâng cao trình độ cho giáo viên là rất quan trọng. Một
thực tế hiện nay đó là có những giáo viên cơ trình độ tay nghề cao nhưng
khả năng truyền đạt của họ cho học viên tiếp thu là rất hạn chế. Vì vậy cần
phải đầu tư nâng cao trình độ nghiệp vụ sư phạm cho họ và khả năng nắm
bắt những yêu cầu của thị trường, không ai khác mà là chính họ là những
người biên soạn chỉnh sửa chương trình, giáo trình học cho phù hợp với cơ
sở dạy nghề.
6.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của đầu tư phát triển các trường dạy nghề.
Hiệu quả đầu tư là một phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh
với kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội đã đạt được của hoạt động đầu tư với
các chi phí bỏ ra để có các kết quả đó trong một thời kỳ nhất định.
Hiệu quả của đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề được thể
hiện qua mối quan hệ giữa nguồn vốn dự kiến đầu tư với việc thực hiện các
mục tiêu, kết quả đầu ra.
Các chỉ tiêu hiệu quả của đầu tư phát triển dạy nghề:
+ Số phòng học, xưởng thực hành đáp ứng yêu cầu dạy thực hành và lý
thuyết theo chương trình đào tạo.
Theo quy định đối với các trường dạy nghề trình độ Cao đẳng và Trung cấp
nghề thì lớp học lý thuyết không quá 35 học sinh, sinh viên; lớp học thực
hành không quá 18 hoc sinh, sinh viên. Đối với các trường đào tạo nghề
trình độ sơ cấp thì diện tích phòng học lý thuyết tối thiểu đạt 1,3m
2
/ 1 học
sinh quy đổi và diện tích phòng học thực hành tối thiểu đạt 2,5 m
2
/ 1 học
sinh quy đổi
+ Số giáo viên quy đổi / Số học sinh quy đổi tối đa là 1/20 đối với tất cả các
cơ sở đào tạo nghề.
Tỷ lệ giáo viên cơ hữu ít nhất là 70% đối với trường Cao đẳng nghề, trường
Đại học, trường Cao đẳng, Trung cấp nghề, trường Trung cấp chuyên nghiệp
công lập tư thục, 50% đối với các trường Cao đẳng nghề, trường Đại học,
Cao đẳng, Trung cấp nghề, Trung cấp chuyên nghiệp tư thục; phải có giáo
viên cho từng nghề được tổ chức đào tạo.
+ Số lượng học sinh sinh viên hoàn thành các chương trình đào tạo nghề
trong trường, tốt nghiệp ra trường nắm bắt được trình độ kỹ năng nghề tối
thiểu đáp ứng nhu cầu nhân lực của đất nước. Đây chính là cơ sở để gia tăng
lao động qua đào tạo nghề hàng năm.
+ Chất lượng đào tạo: được thể hiện qua số học sinh tốt nghiệp phân theo
trình độ khá giỏi. ;Tỷ lệ giáo viên trên học sinh, con số này cũng phán ánh
một phần chất lượng đào tạo nều tỷ lệ học sinh/ giáo viên quá cao thì sẽ
không đảm bảo công tác dạy nghề cho các học viên thì không thể nói đến
chất lượng đào tạo. Nhìn chung chất lượng đào tạo chịu sự ảnh hưởng của
rất nhiều yếu tố đó là số lượng giáo viên, chương trình và giáo trình giảng
dạy, sơ sở vật chất máy móc trang thiết bị dạy và học nghề. Vì vậy cần phải
có sự đầu tư phát triển hoàn thiện hệ thống các trường dạy nghề thì chất
lượng đào tạo mới được đảm bảo.
+ Chuyển dịch Cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động làm trong ngành
công nghiệp và dịch vụ, giảm lao động làm trong các ngành nông lâm ngư
nghiệp. Việc chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế, tạo
bước đột phá đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đói nghèo.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CÁC TRƯỜNG
DẠY NGHỀ THEO CÁC DỰ ÁN MÀ BỘ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH XÃ HỘI
QUẢN LÝ GIAI ĐOẠN 2004-2008
I. CƠ CHẾ QUẢN LÝ TỔNG HỢP CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG CÁC TRƯỜNG DẠY NGHỀ TẠI BỘ LĐTB&XH
- Chính phủ quản lý thống nhất các cơ sở dạy nghề.
- Bộ LĐTB&XH mà đại điện là tổng cục dạy nghề là cơ quan quản lý các dự án đầu tư
phát triển dạy nghề trong cả nước, đảm bảo cho hệ thống giáo dục dạy nghề phát triển theo
một quy hoạch, kế hoạch và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước trong
từng thời kỳ.
- Các Bộ ngành địa phương khác phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thực
hiện quản lý nhà nước về các dự án đầu tư phát triển các cơ sở dạy nghề. Ban hành các tiêu
chuẩn, quy phạm cho các trường dạy nghề trực thuộc sư quản lý của mình.
- Uỷ Ban nhân dân các tỉnh thành phố giao cho Sở Lao động- Thương binh và Xã hội quản
lý nhà nước theo phân cấp của Chính phủ và có trách nhiệm đầu tư phát triển các cơ sở dạy
nghề đáp ứng yêu cầu học của nhân dân và nhu cầu nhân lực có trình độ của các doanh
nghiệp. Cơ chế quản lý các cơ sở dạy nghề được thể hiện cụ thể qua hình 2.1:
Hình 2.1: Mô hình quản lý nhà nước về dạy nghề
Qua hình vẽ ta thấy được thực trạng quản lý giáo dục dạy nghề ở Việt Nam hiện nay
đó là:
- Nhiều cơ quan cùng tham gia quản lý cơ sở dạy nghề
- Nhiều văn bản quản lý nhà nước từ nhiều cơ quan quản lý khác nhau cùng tác động
đền một cơ sở dạy nghề.
- Không có một cơ quan quản lý dạy nghề thống nhất.
- Mối quan hệ giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp rất hạn chế.
- Đào tạo không căn cứ từ nhu cầu nhân lực của thị trường và không gắn với việc làm.
Năm 1998 một sự thay đổi lớn diễn ra trong cơ cấu hệ thống và quản lý giáo dục dạy nghề
của nước ta: Chuyển chức năng quản lý nhà nước về dạy nghề từ Bộ Giáo dục và đào tạo
sang Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, làm cho hệ thống giáo dục nghề nghiệp không
có sự kế thừa liên thông phát huy được hết năng lực vốn có.
Cơ chế quản lý tổng hợp các dự án đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề tại
Bộ Lao động- Thương binh và xã hội:
1. Ban chỉ đạo dự án
Một ban chỉ đạo do Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH làm trưởng ban, các thành viên khác
của ban này sẽ gồm đại diện của Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và đào
tạo, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Văn phòng Chính phủ, hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam,
UB dân tộc miền núi, Phòng thương mại và công nghệ Việt Nam và tổng liên đoàn lao
động Việt Nam.
Ban chỉ đạo dự án sẽ có trách nhiệm:
- Đưa ra các chính sách đối với việc thực hiện dự án
- Điều phối với Bộ và các cơ quan có liên quan
- Kiểm tra phê duyệt các kế hoạch năm.
- Vạch ra những nguyên tắc chỉ đạo đối với việc giải quyết định hướng điều hành
ngân sách giáo dục.
- Giám sát tiến trình thực hiện dự án
Ban chỉ đạo sẽ họp ít nhất 3 tháng 1 lần.
2. Ban thực hiện
Bộ LĐTB&XH là cơ quan điều hành dự án, Tổng cục dạy nghề là cơ quan thực hiện
dự án. Một ban thực hiện dự án được thiết lập trong Tổng cục dạy nghề với một giám đốc
dự án làm việc Ban chuyên trách. Tổng cục trưởng cục dạy nghề là giám đốc dự án. Một
giám đốc điều hành dự án chuyên trách sẽ được Bộ LĐTB&XH bổ nhiệm, giám đốc điều
hành dự án có trách nhiệm lập kế hoạch tổ chức quản lý giám sát và điều phối dự án cũng
như giám sát tiến độ thực hiện. Giám đốc điều hành dự án có trách nhiệm giúp đỡ Giám
đốc dự án còn có các cán bộ thực hiện dự án có đủ trình độ và kinh nghiệm làm việc
Ban thực hiện có trách nhiệm:
- Lập tiến độ, kế hoạch dự án chi tiết.
- Mua sắm dịch vụ và hàng hóa
- Kế toán dự án bao gồm cả những kiểm toán cần thiết.
- Giải ngân và đệ trình Ngân hàng ADB và các nhà đồng tài trợ hồ sơ rút tiền.
- Quản lý tài khoản tạm ứng.
- Quản lý sổ sách kế toán, tài khoản cho vay.
- Giám sát hoạt đông tại hiện trường.
- Làm báo cáo gửi Ngân hàng tiến trình thực hiện dự án.
- Tại mỗi trường sẽ thành lập một đơn vị sản xuất do một Giám đốc riêng quản lý.
Các Giám đốc đơn vị sản xuất sẽ được Giám đốc dự án bổ nhiệm theo đề nghị của hiệu
trưởng trường. Các Giám đốc đơn vị sản xuất này sẽ báo cáo trực tiếp cho Giám đốc điều
hành dự án và sẽ chịu trách nhiệm công việc tại đơn vị sản xuất.
3. Cơ quan chủ quản các trường
Cơ quan chủ quản các trường có trách nhiệm sau một thời gian thực hiện dự án:
- Tận dụng cơ hội chỉ đạo xây dựng thành một trường kiểu mẫu của cơ quan chủ
quản.
- Đóng góp các chuyên gia, đối tác phục vụ cho nghiên cứu điều tra, khảo sát trong
phạm vi dự án có liên quan đến lĩnh vực của ngành địa phương khi được yêu cầu.
- Cộng tác với cơ quan điều hành dự án để triển khai các hoạt động dự án tại trường
trọng điểm một cách nhịp nhàng và đúng tiến độ, tiếp nhận các kết quả của dự án tại các
trường và nhân rộng ra các trường khác thuộc ngành địa phương.
- Cộng tác với cơ quan điều hành trong việc tiến hành cử cán bộ của từng trường đi
đào tạo.
- Đóng góp vốn đối ứng cho các dự án theo kế hoạch vốn đối ứng được ghi hàng năm.
II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG TRƯỜNG DẠY NGHỀ
GIAI ĐOẠN 2004-2008.
1. Nội dung đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề
Đầu tư phát triển dạy nghề bao gồm các hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,
đầu tư vào các chương trình giảng dạy và đầu tư vào đội ngũ nhân lực (bao gồm: giáo viên
dạy nghề và cán bộ quản lý tại các trường dạy nghề)
1.1. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đổi mới máy móc trang thiết bị cho các cơ sở dạy
nghề
- Về vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất: Vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở dạy nghề luôn
chiếm một tỷ lệ cao nhất trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển các cơ sở dạy nghề này.
Và nguồn vốn dành cho nó cũng chủ yếu lấy từ ngân sách nhà nước và nguồn việc trợ
không hoàn lại (ODA của Hàn Quốc, của Đức), đây cũng thể hiện một đặc trưng của
nguồn vốn dành cho hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở
vật chất tăng qua các năm ( năm 2008 tăng gấp 2,4 lần so với năm 2004).
Bảng 2.1: Quy mô vốn dành cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
Đơn vị: Triệu đồng
Cơ sở dạy
nghề
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Tổng vốn xây
dựng cơ sở vật
chất
37.743
44.973
54.529
59.730
92.378
Trường dạy
nghề (cao
đẳng nghề,
trung cấp
nghề)
30.856 36.325 44.260 44.193 60.046
Trung tâm dạy
nghề
6.887 8.649 10.503 15.538 32.332
Nguồn:Tổng cục dạy nghề
Nguồn vốn ngân sách chi cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường do trung ương
quản lý từ 75-79%, còn các trường do địa phương quản lý dao động từ 42-47%.
Hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đã phát triển mạng lưới các trường dạy nghề
trong cả nước xoá bỏ tình trạng trắng trường dạy nghề. Các trường dạy nghề hiện nay đã
có một cơ sở vật chất tương đối và dần dần được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu quốc tế (như
có một hệ thống thư viện hiện đại, các lớp học được trang bị máy chiếu, cài đặt các phần
mềm giảng dạy hiện đại, tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực dạy nghề
và học nghề.
Diện tích mặt bằng:diện tích mặt bằng xây dựng/1 học viên là 14,06 m
2
, diện tích phòng
học là 2,18 m
2
, số phòng học/1000 học viên là 52,16 phòng.
Vốn đầu tư đổi mới máy móc trang thết bị
Các cơ sở dạy nghề đã tiến hành đầu tư về trang thiết bị với một số lượng vốn tăng dần qua
các năm, trong đó các trường dạy nghề được quan tâm đầu tư nhiều hơn cả chiếm từ
80-85%. Nếu năm 2004 vốn đầu tư cho máy móc thiết bị của các trường dạy nghề là
13.596 triệu đồng thì đến năm 2008 con số đó đã tăng lên 3,5 lần (tức là 63.598 triệu
đồng), còn đối với các trung tâm dạy nghề vốn đầu tư năm 2008 so với năm 2004 tăng gấp
4,9 lần. Con số trên chứng tỏ sự quan tâm của nhà nước trong việc đầu tư cho các trung
tâm dạy nghề hỗ trợ cho các trung tâm này từ đó cải thiện chất lượng đào tạo của các trung
tâm ngoài công lập để đảm bảo đầu tư theo đúng định hướng mà chính phủ đề ra. Đầu tư
cho các trung tâm dạy nghề để họ đào tạo các nghề ngắn hạn giúp người lao động có cơ
hội tự tạo việc làm, nhất là đối với các địa phương đang trong quá trình đô thị hoá, là biện
pháp tích cực trong giải quuyết việc làm tại chỗ.
Bảng 2.2 : Quy mô vốn đầu tư mua sắm máy móc trang thiết bị của các cơ sở dạy
nghề giai đoạn 2004-2008
Đơn vị: Triệu đồng
Cơ sở dạy nghề Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Tổng vốn đầu
tư mua sắm
máy móc trang
thiết bị
16.768 20.762 26.819 33.127 63.598
Trường dạy
nghề (cao đẳng
nghề, trung cấp
nghề)
13.596 17.360 20.444 25.964 47.008
Trung tâm dạy
nghề
3.451 3.403 5.343 7.163 16.591
Nguồn: Tổng cục dạy nghề
Vốn phân bổ cho việc mua sắm máy móc thết bị cho các trường dạy nghề dài hạn chiếm
một tỷ lệ lớn hơn nhiều so với các trung tâm dạy nghề. Điều này thể hiện sự quan tâm
nhiều hơn của nhà nước cho các cơ sở dạy nghề dài hạn nâng cao trình độ kỹ năng nghề
một cách bài bản hơn cho người lao động.
Bảng 2.3: Cơ cấu phân bổ vốn mua sắm máy móc thiết bị cho trường dạy nghề và
trung tâm dạy nghề
Cơ sở dạy nghề 2004 2005 2006 2007 2008
Trường dạy nghề
(cao đẳng nghề, trung
cấp nghề)
0.8 0.84 0.97 0.78 0.74
Trung tâm dạy nghề
0.2 0.16 0.03 0.22 0.26
Nguồn: Tổng cục dạy nghề- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
1.2. Đầu tư đổi mới chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo hiện nay có thời lượng thực hành ít, máy móc
không có cho học sinh thực hành, vì vậy chất lượng đào tạo nghề những năm
qua chưa được cải thiện là bao. Không ít doanh nghiệp có nhu cầu tuyển
dụng lao động nhưng khi trung tâm hoặc các trường giới thiệu thì hầu hết
các học viên lại không đáp ứng được nhu cầu thực tế. Năm 2008, Tổng cục
Dạy nghề chi hơn 40 tỷ đồng dành cho biên soạn giáo trình, nhưng chủ yếu
là xây dựng chương trình khung cho trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề.
Kinh phí dạy nghề cho nông dân hàng năm vào khoảng 150 tỷ đồng. Khoản
tiền này được trích ra từ chương trình Mục tiêu Quốc gia về Giáo dục – đào
tạo (kinh phí khoảng 1.000 tỷ đồng cho năm 2008). Nhưng kinh phí dành
cho sách dạy nghề không được phân chia rạch ròi.
Bảng 2.4: Quy mô vốn dành cho đầu tư đổi mới chương trình đào tạo
giai đoạn 2004-2008
Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2004 2005 2006 2007 2008
Chương trình
đào tạo
1.683 2.287 3.769 4.536 8.935
Nguồn: Tổng Cục Dạy Nghề
Tổng mức vốn dành cho đầu tư đổi mới chương trình đào tạo tại các trường
dạy nghề trong cả nước giai đoạn 2004-2008 là 21.210 triệu đồng, năm 2008
tăng 5,3 lần so với năm 2004. Nguồn vốn đầu tư đã bắt đầu chú ý tới việc
biên soạn các giáo trình dạy nghề cho lao động tại nông thôn để những lao
động nông thôn có thể hiểu nhanh và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất lương thực thực phẩm và chăn nuôi gia súc. Bên cạnh đó còn
chú ý phát triển các nghề thủ công truyền thống thay đổi chương trình đào
tạo lao động thủ công mỹ nghệ bằng cách đưa một số môn học mới trong
chương trình như đưa môn thiết kế thẩm mỹ vào,…
1.3. Đầu tư cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý ở các cơ sở dạy nghề
Công tác dạy nghề đang là lĩnh vực đang được Đảng và Nhà nước quan rất quan tâm và đặt
vào vị trí ưu tiên trong các chính sách phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về
chất lượng và số lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước. Vì vậy tại cuộc họp Hội đồng giáo dục quốc gia ngày 12/12/2007 , Thủ tướng chỉ
đạo phấn đấu đến năm 2010 phải đảm bảo đạt 40-50% lao động qua đào tạo. Để đạt được
mục tiêu đó cần thực hiện đầu tư phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề là một trong những
nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng đào tạo nghề tại các trường.
Giáo viên dạy thực hành nghề đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu sắc về kiến thức
chuyên môn, sự thành thục về kỹ năng nghề và năng lực sư phạm để tổ chức tốt hoạt động
dạy nghề. Dạy thực hành nghề là quá trình tổ chức tốt huấn luyện để học sinh rèn luyện kỹ
năng nghề nghiệp. Qua các khoá đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở các trường sư phạm kỹ
thuật, kỹ năng dạy thực hành nghề của giáo viên đã từng bước được cải thiện. Tuy nhiên
trước đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực, việc tăng cường đào tạo đội
ngũ giáo viên đã trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Theo thống kê của Tổng cục Dạy nghề, đến tháng 12/2005, cả nước có 236 trường
dạy nghề, 104 trung tâm dạy nghề, 212 trường CĐ,THCN có chức năng và nhiệm vụ dạy
nghề. Bên cạnh đó còn có khoảng 800 trung tâm dịch vụ giới thiệu việc làm, trung tâm
giáo dục thường xuyên; trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp và nhiều lớp dạy nghề
ở các doanh nghiệp, các làng nghề….dạy nghề ngắn hạn.
Tuy nhiên, tỷ lệ giáo viên, học sinh trong các trường dạy nghề là 1/28, chỉ mới đạt 1/2
chuẩn quy định. Như vậy hiện tại các trường dạy nghề đang thiếu khoảng 7.000 giáo viên
dạy nghề để có thể chuẩn hoá.
Với chiến lược phát triển dạy nghề đến năm 2010, các trường dạy nghề sẽ phải cần đến
khoảng 20.000 giáo viên, nếu kể các các cơ sở đào tạo nghề ngắn hạn thì số giáo viên dạy
nghề cần có là khoảng 90.000. Như vậy về số lượng, giáo viên dạy nghề đang thiếu
nghiêm trọng và sẽ là thách thức lớn để phát triển dạy nghề trong thời gian tới. Mà với mô
hình đào tạo giáo dục dạy nghề hiện hành: tuyển sinh HS mới tốt nghiệp THPT, đào tạo
trong 3 năm để trở thành giáo viên dạy nghề trình độ CĐ và 5 năm để thành giáo viên dạy
nghề trình độ ĐH là điều không tưởng và không thể đảm bảo chất lượng
Về cơ cấu ngành nghề đào tạo giáo viên: Hàng chục năm nay, các trường ĐH và CĐ
SPKT của cả nước chỉ mới có khả năng đào tạo được giáo viên cho 21 nghề, trong khi đó
các trường dạy nghề đang cần giáo viên để đào tạo gần 300 nghề khác nhau. Vì vậy, hầu
hết giáo viên của các ngành, nghề còn lại chưa có nơi đào tạo.
Trong những năm qua quy mô vốn đầu tư cho giáo viên và cán bộ quản lý ở các cơ
sở dạy nghề không ngừng tăng lên thể hiện qua bảng 2.4.
Bảng 2.5: Tình hình đầu tư cho đội ngũ giáo viên dạy nghề
giai đoạn 2004-2008
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Giáo trình giảng dạy 695 704 4.176 2.045 4.020
Tài liệu giảng dạy 386 387 728 1.315 2.436
Phần mềm máy vi
tính
308 317 534 730 1.583
Cơ sở vật chất cho
các cơ sở đào tạo
giáo viên
592 1.056 1.651 2.337 4.507
Tổng 1.286 1.759 2.914 4.383 8.527
Nguồn: Tổng cục dạy nghề
Do điều kiện đặc thù giáo viên dạy nghề được chuyển từ hai nguồn cơ bản: Sinh viên tốt
nghiệp các trường sư phạm kỹ thuật và những người tốt nghiệp từ các trường kỹ thuật công
nghệ. Điều đó giúp cho sự phát triển nhanh của đội ngũ giáo viên dạy nghề và hệ thống các
cơ sở dạy nghề nhưng đồng thời cũng tạo nên sự khác nhau về chất lượng và kỹ năng dạy
thực hành nghề. Sự phát triển của dạy nghề trong những năm gần đây đã thu hút được 1 số
lượng lớn các thạc sỹ, kỹ sư, cử nhân tốt nghiệp từ các trường đại học, cao đẳng chuyên
ngành kỹ thuật công nghiệp, công nhân lành nghề.
Các cơ sở đào tạo giáo viên dạy nghề hiện nay:
Trong những năm gần đây mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo viên dạy nghề đã được củng
cố phát triển. Hiện có 4 trường ĐH sư phạm kỹ thuật bao gồm: Đại học sư phạm kỹ thuật
TP.Hồ Chí Minh; Đại học sư phạm kỹ thuật Hưng Yên; Đại học sư phạm kỹ thuật Vinh và
trường Đại học sư phạm kỹ thuật Nam Định., 1 trường Cao đẳng sư phạm kỹ thuật đang
được đầu tư nâng cấp lên đại học đó là Cao đẳng sư phạm kỹ thuật Vĩnh Long . Một số
khoa SPKT của một số trường CĐ, ĐH đang đào tạo giáo viên dạy nghề như: Đại học
Bách khoa Hà Nội; Đại học Thái Nguyên; Đại học Nông nghiệp I; Đại học Đà Nẵng…
2. Thực trạng đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề theo dự án mà Bộ Lao
động thương binh và xã hội quản lý
Vấn đề đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề luôn là vấn đề được Bộ
LĐTB&XH rất quan tâm. Hàng năm tỷ lệ vốn chi cho giáo dục đào tạo luôn chiếm một tỷ
lệ cao trong cơ cấu nguồn vốn được cấp từ ngân sách nhà nước cho Bộ trong những lĩnh
vực mà Bộ phụ trách từ 40- 50%, và được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây qua các năm.
Bảng 2.6: Quy mô vốn đầu tư chi cho phát triển hệ thống dạy nghề của Bộ
LĐTB&XH
Đơn vị: Triệu đồng
Ngành Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Giáo dục và đào
tạo
60.100 70.381 89.100 101.929 177.650
Các ngành khác 88.600 103.759 105.200 133.571 141.550
Tổng
148.700 174.140 194.300 244.500 319.200
Tỷ lệ vốn dành
cho giáo dục và
đào tạo trong
tổng nguồn vốn
ngân sách cấp
cho Bộ
LĐTB&XH (%)
40.42 36.79 45.86 41.69 55.65
Nguồn: Bộ lao động thương binh và xã hội
Trong khối giáo dục và đào tạo Bộ tập trung đầu tư các trường trực thuộc Bộ, để nâng cao
năng lực đào tạo cán Bộ cho ngành và đội ngũ giáo viên dạy nghề, đảm bảo phát triển theo
quy hoạch mạng lưới các trường dạy nghề đã được chính phủ phê duyệt.
2.1. Vốn đầu tư cho phát triển các trường dạy nghề trong tổng vốn ngân sách nhà
nước chi cho giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo luôn là vấn đề được Đảng và nhà nước hết sức
quan tâm vì sự nghiệp phát triển con người, vì vậy nguồn vốn ngân sách để
chi cho hệ thống các trường trong hệ thống giáo dục và đào tạo luôn chiếm
một tỷ lệ đáng kể trong cơ cấu chi của ngân sách nhà nước. Năm 1990, chi
cho giáo dục chiếm 8,9% tổng chi ngân sách, năm 1997 tỷ lệ này là 10,56%,
năm 1998 hơn 12%. Và mười năm sau - năm 2008 - tỷ lệ này vào khoảng
20%. Nếu so sánh với mức độ phát triển về quy mô trường lớp và số người
đến tiếp thu kiến thức từ những nơi này thì khoản chi trên vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu chi tiêu cần thiết. Những khoản chi ngân sách chưa tương
xứng này sẽ làm chúng ta mất đi ưu thế về một lực lượng lao động cần cù và
thông minh đáng được hưởng một chế độ đào tạo tốt.
Nguồn vốn đầu tư cho các trường dạy nghề chiếm một tỷ lệ rất nhỏ có thể nói là ít trong
tổng nguồn vốn dành cho công tác giáo dục và đào tạo vì một quan điểm đã ăn sâu vào
trong tiềm thức của tất cả mọi người đó là coi trọng việc vào các trường đại học hơn là vào
các trường dạy nghề, đó là một quan điểm không đúng trong hệ thống giáo dục và dạy
nghề của nhà nước ta trong thời gian vừa qua.
Bảng 2.7: Tỷ lệ vốn ngân sách nhà nước cho dạy nghề
Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2004 2005 2006 2007 2008
Vốn đầu tư cho các
trường dạy nghề
60.100 70.381 89.100 101.929 177.650
Vốn đầu tư cho giáo
dục và đào tạo
924.615 938.413 1.142.308 1.274.113 2.166.463
Tỷ lệ vốn cho các
trường dạy nghề/
giáo dục và đào tạo
(%)
6.5 7.5 7.8 8 8.2
Nguồn: Bộ Lao động -Tthương binh và Xã hội
Nhận xét: Tỷ lệ vốn dành cho các trường trong hệ thống giáo dục và dạy nghề ngày càng
tăng nhưng nhìn chung là vẫn chưa tương xứng để có thể đưa thị trường lao động nước ta
thoát khỏi tình trạng khát nhân lực có trình độ cao (công nhân kỹ thuật). Tỷ lệ trung bình
hàng năm chi cho trường dạy nghề khoảng 7,6% một năm. Ngân sách nhà nước chi cho các
trường dạy nghề liên tục tăng qua các năm 2004-2008, và tổng vốn trong giai đoạn này là
499.160 triệu đồng. Chỉ tính riêng năm 2008, trong tổng số vốn đầu tư cho dạy nghề, ngân
sách nhà nước chiếm 63%, đầu tư nước ngoài chiếm 3%, doanh nghiệp chiếm 10%, người
học chiếm 21%, các cơ sở đào tạo chiếm 3% . Mức đầu tư từ ngân sách nhà nước đã tăng
dần: năm 2001 tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo chiếm 15,5%, trong đó
chi cho dạy nghề chiếm 4,9% (so với tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo),
số liệu tương ứng của năm 2005 là 17,9% và 6,5%, năm 2008 là 20% và 7,0% . Trong đầu
tư phát triển dạy nghề thì nguồn vốn ngân sách nhà nước chi cho việc đầu tư phát triển các
cơ sở dạy nghề chiếm một tỷ lệ tương đối cao như dự án Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề đã
lựa chọn 15 trường để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất với mục tiêu xây dựng các trường
đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế đáp ứng nhu cầu nhân lực khi Việt Nam gia nhập WTO.
2.2. Cơ cấu vốn đầu tư phát triển hệ thống các trường dạy nghề.