Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong luật hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.51 MB, 78 trang )

ĐẠI HỌC QUỎC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÝ QUANG DIỆU

TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM


ĩ

TRONG LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tơ tụng hình sự

Mã số: 8380101.03

LUẬN VÀN THẠC sĩ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Đăng Doanh

Hà Nội - 2022


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.

Các kết quả nêu trong Luận vãn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính
xác, tin cậy và trung thực.


TAC GIA LUẠN VAN

Lý Quang Diệu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1

Chng I: MỘT SĨ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA
Bộ LUẬT HÌNH Sự NÀM 2015 VÈ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN
HÀNG CẤM........................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm......................................... 7
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội tàng trừ, vận chuyển

hàng cấm................................................................................................................. 14
1.3. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội Tàng trữ, vận chuyển

hàng cấm................................................................................................................ 19
1.4. Dấu hiệu pháp lý đặc trung của tộiTàng trừ,vận chuyển hàng cấm tại

điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi,bổ sung năm 2017...................... 23

KẾT LUẬN CHƯƠNG I..................................................................................... 44
Chương II: THựC TIẺN ÁP DỤNG VÀ MỘT SÓ GIẢI PHÁP NÂNG

CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI PHẠM TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN

HÀNG CẤM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG................................... 45
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về tội phạm Tàng trừ, vận chuyển hàng


cấm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng và một số vướng mắc, bất cập....................... 45
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quy định của pháp luật về tội Tàng trừ, vận

chuyển hàng cấm................................................................................................... 58

KẾT LUẬN CHƯƠNG II.................................................................................... 68

KẾT LUẬN...........................................................................................................70
DANH MỤC TẠI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 72


DANH MỤC BẢNG BIẺU
Bảng 2.1. Thông kê tông sô vụ án đã xét xử hình sự sơ thâm vê tội tàng trữ,

vận chuyển hàng cấm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng giai đoạn 20182022....................
r

47
\

9

r

Bảng 2.2. Thơng kê hình phạt vê tội tàng trữ, vận chuyên hàng câm trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng từ năm 2018-2022............................................... 50


MỞ ĐẲU


Tính câp thiêt của đê tài:
l.

Từ sau Đại hội lần thử VI của Đảng năm 1986, Việt Nam đang trên con
đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng

quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều nước trên thế giới. Đường lối kinh tế của

Đảng ta là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ, từng bước đưa nước ta trở thành nước cơng nghiệp,
thốt khỏi tình trạng kém phát triến, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.

Sự vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế định hướng xã hội
chủ nghĩa đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Cơng cuộc đổi mới tồn

diện ấy đã dần xóa bị đi sự tập trung quan liêu, bao cấp, khuyến khích nền

kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển. Việc vận hành kinh tế nhiều

thành phần theo định hướng xã hội chù nghĩa đã và đang mang tới sự chuyển
biến tích cực ở nhiều lĩnh vực, đời sống nhân dân, kinh tế, chính trị, xã hội đã

có nhiều khởi sắc với những biến chuyển quan trọng.
Đi cùng với những đường lối, chính sách nhằm phát triển tồn diện nền

kinh tế xã hội, Nhà nước ta ln quan tâm đặc biệt đến các biện pháp băo đảm
quyền tự do, bình đắng trước pháp luật, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cùa

người kinh doanh, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà Nước đối với các
hoạt động kinh doanh. Nhà Nước tạo sự tự chủ cho các tổ chức và cá nhân,


tập thể đăng ký, hoạt động kinh doanh trừ những ngành nghề gây phương hại
đến quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự an tồn xã hội, lịch sử, văn hóa, đạo

đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và sức khỏe của nhân dân.

Tuy nhiên, đi cùng với sự phát triển là các mặt trái của nó, đặc biệt là
tình hình tội phạm trong vài năm trở lại đây cỏ xu hướng diễn biến ngày càng

phức tạp và mang tính thời sự cấp bách. Hoạt động kinh tế với nhiệm vụ
chính là sản xuất hàng hóa, tạo điều kiện cho xã hội phát triến, kinh tế mang ý


nghĩa quan trọng đôi với đât nước nhưng thời gian trở lại đây các loại tội

phạm về kinh tế lại xuất hiện càng nhiều và ngày càng tinh vi, táo bạo, nguy
hiểm. Vì đặc thù của nền kinh tế thị trường, sức ép cạnh tranh đi cùng với
những sơ hở, yếu kém trong quản lý kinh tế nên nhiều tội phạm về kinh tể có
xu hướng ngày càng phức tạp, trong số đó tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm

trong những năm gần đây ngày càng tăng về số lượng với nhiều mặt hàng cấm
nguy hiểm, gây ra thiệt hại nặng nề về kinh tế, trật tự an toàn xã hội. Địi hỏi

cơng tác đấu tranh phịng chống loại tội phạm này cần phải quyết liệt mạnh
mẽ, đế làm được điều đó cần có sự đánh giá chính xác, chi tiết, đầy đủ về tội
phạm này.

Bên cạnh những quy định của Luật hình sự đổi với hành vi tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm, thì cịn xuất hiện các quy định của các văn bản pháp


luật thuộc Ngành và lĩnh vực khác cũng điều chỉnh các quan hệ và hành vi
liên quan đến hàng cấm. Thời gian vừa qua, đang tồn tại những cách hiểu
không thống nhất giữa Luật thương mại và luật đầu tư giữa các ngành, các cơ
quan và các địa phương khác nhau. Vì vậy, hoạt động xử lý đối với tội phạm

này còn chưa cao, chưa đáp ứng được những địi hỏi trước tình hình thực tế
tại địa phương, làm ảnh hưởng tới tình hình an ninh trật tự và sự phát triển

toàn diện các mặt kinh tế xã hội. Nước ta có nhiều tỉnh thành có biên giới với
nước ngoài đã và đang là khu vực xuất hiện tội tàng trữ, vận chuyến hàng cấm

từ lâu, chiếm tỷ lệ cao về tội phạm này trong tỉnh và có chiều hướng tăng về
số lượng, chùng loại hàng cấm, diễn biến phức tạp với sự mở rộng quy mơ và
tính chất nguy hiểm. Cơng tác đấu tranh tại địa bàn trở nên khó khăn khi đối

tượng phạm tội có nhiều phương thức thủ đoạn tinh vi đồng thời ln tìm
cách trốn tội và chống trả rất quyết liệt.
Trong tình hình đó, hoạt động đấu tranh phịng ngừa tội phạm tàng trữ,

vận chuyển hàng cấm hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu trước

2


tình hình thực tê tại địa phương, làm ảnh hưởng tình hình an ninh trật tự và sự

phát triến tồn diện các mặt kinh tế xã hội.

Tình hình trên đã đặt


• ra một
• nhiệm
• vụ• rất bức thiết là cần phải
1
những giải pháp hiệu quả, phù hợp với đặc điểm tình hình địa phương nhằm
nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội phạm tàng trừ, vận chuyến hàng
cấm. Trong đỏ, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật đối với người phạm tội

góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm
bảo trật tự an tồn xã hội, tạo lịng tin trong nhân dân và điều kiện thuận lợi
cho quá trình phát triển kinh tế xã hội tại địa phương cũng như của đất nước.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của thực tiễn công tác xét xừ tội tàng trữ, vận

chuyển, hàng cấm nêu trên. Tác giả chọn đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm trong luật
hình sự• Việt
Nam” làm Luận
văn thạc
sĩ Luật
học
của mình.







2. Tình hình nghiên cứu đề tài:


Đấu tranh, phịng chống, xử lý tội phạm trật tự quản lý kinh tế nói
chung và tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng đã được quy định cụ thể

trong Bộ luật Hình sự (BLHS) và được một số nhà Luật học đề cập một cách
khái quát. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tham khảo một số cơng trình

khoa học là những giáo trình, sách chuyên khảo và luận văn đã được cơng bố,
cụ thể là:
2.1. Giáo trình, sách chun khảo
TSKH. Lê Cảm (2007), “Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các

tội phạm) ”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), “Giáo trình Luật tố tụng
hình sự Việt Nam ”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;

TS. Trịnh Tiến Việt (2013), “Tội phạm và trách nhiệm hĩnh sự”, Nxb
Chính trị Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;

3


TS. Trịnh Qc Tồn (2013), ''Một sơ vân đê vê định tội danh trong
luật hình sự Việt Nam, Sách chuyên khảo sau đại học ”, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội;
2.2. Các luận văn

Lục Thị Út (2014) Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyên, buôn bán hàng
cấm trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Cao Bằng,


luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

Nguyễn Thị Huyền Trang (2016) "Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
bn bán hàng cấm trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiền địa bàn

tỉnh Quảng Ninh ", Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
Trong thời gian thực hiện luận văn, tác giả nhận thấy rằng cách đây

nhiều năm, tình hình tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm có nhiều thay đổi,
nhất là các quy định của pháp luật Hình sự. Hơn nữa, tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm vần chưa được quan tâm đúng mức, những nghiên cứu về tội tàng

trữ, vận chuyển hàng cấm mới chỉ đề cập, tập trung nghiên cứu chung với các
tội phạm khác liên quan đến các đối tượng hàng cấm hoặc nghiên cứu thực

trạng tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đã được thực hiện trong các
báo cáo khoa học, các bài báo, khóa luận trên nhiều góc độ và khía cạnh khác
nhau ở các địa phương khác nhau. Thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử
cũng có tổ chức tổng kết, nghiên cứu nhiều vụ án điển hình về tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm trong phối hợp liên nghành cũng như các đơn vị cấp độc lập

nhưng chỉ mang tính chất báo cáo, rút kinh nghiệm. Cho đến nay vần chưa có
một cơng trình chun khảo nào nghiên cứu tồn diện được giải pháp hồn

thiện pháp luật hình sự nhằm nâng cao hiệu quà khi xử lý tội phạm này đặc

biệt trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Chính vì thế, nhiệm vụ đặt ra là cần phài
nghiên cứu tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tương đối có hệ thống, tồn


diện từ góc độ lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đấy đề ra những phương hướng

4


và các giải pháp nhăm mục đích hồn thiện pháp luật hình sự vê tội tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm.

3. Nhiệm
vụ• và mục
đích nghiên
cứu:


CT
Mục đích nghiên cứu đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong

luật hình sự Việt Nam” thể hiện các quy định của pháp luật về loại tội phạm

này và qua đó đề xuất những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của

BLHS năm 2015 và nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án về tội tàng trừ,

vận chuyển hàng cấm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Đe đạt
mục
đích nêu trên nhiệm
vụ• của luận
văn là:





- Nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và các văn

bản hướng dẫn thi hành về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
- Nghiên cứu thực tiễn xét xử các tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng

cấm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng và một số địa phương khác.
- Đánh giá những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hình sự

và thực tiễn áp dụng.
- Tìm ra những nguyên nhân hạn chế, bất cập.
- Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả việc xét xử các tội tàng trữ,

vận chuyển hàng cấm.

4. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là những vấn đề lý luận về tội

tàng trữ, vận chuyển hàng cấm và các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được quy định trong Điều 191
BLHS năm 2015 (sừa đổi bổ sung năm 2017).

Tìm hiểu thực tiễn hoạt động xét xử của các cơ quan chức năng có

thẩm quyền tại tỉnh Cao Bằng trong thời gian từ năm 2018 đến năm 2022.


5. Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và

5


những quan điêm cơ bản của Đảng, Nhà nước vê đâu tranh phịng chơng tội

phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự xã hội.
Đê phù hợp với đôi tượng, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của đê tài,

luận vãn sử dụng một các linh hoạt và hợp lý các phương pháp nghiên cứu cụ
thể, tồng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, logic, kết hợp với các phương

pháp khác như thực tiễn, điều tra, điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp mói của đề tài:

Ket quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận của tội
tàng trữ, vận chuyến hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam, đồng thời

đánh giá đầy đủ tình hình xét xử, nhũng hạn chế, bất cập trong việc xử lí tội

tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn tinh Cao Bằng. Qua đó góp phần
nâng cao hiệu quả trong cơng tác phịng chống tội phạm tàng trừ, vận chuyển
hàng cấm góp phần đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Ket quả nghiên cứu luận văn cung cấp những thông tin về nghiên cứu thực

tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng


cấm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, có giá trị tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố

tụng, đặc biệt là Tòa án trong thực tiễn công tác xét xử được khách quan, cơng

bằng ở Việt Nam nói chung và thực tiễn tỉnh Cao Bằng nói riêng.
7. Bố cục của luận văn:

Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khào và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 2 chương:

Chương I: Một số vấn đề lý luận chung và quy định của Bộ luật Hình

sự năm 2015 về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Chương ir. Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
xử lý tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

6


Chương I

MỘT
SĨ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN
CHUNG VÀ QUY ĐỊNH
CỦA Bộ
LUẬT






HÌNH Sự NĂM 2015 VÈ TỘI TÀNG TRỬ, VẬN CHUYẾN HÀNG CẤM

1.1. Khái niệm về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.

1.1.1. Khái niệm hàng cẩm
Hàng cấm là cụm từ mà được sử dụng rất nhiều trong đời sổng, cũng

như trong kinh tế xã hội. Nhưng để nắm rõ bản chất của từ này trong khoa
học hình sự thì chưa có cách hiếu chung và giải thích thống nhất. Muốn tìm

hiếu hàng cấm là gì, chúng ta phải phân tích thơng qua ý nghĩa của câu chừ

của hai từ đó. Theo từ điển tiếng Việt: “hàng” - là sản phẩm để mua bán, trao
đổi; “cấm”- là khơng được phép làm gì đó, hoặc khơng được phép tồn tại.

Như vậy, hàng cấm có thể hiểu là những sản phẩm, hàng hóa khơng cho phép
tồn tại hay mua bán. Theo định nghĩa ở trên thì hàng hóa phải đáp ứng được

hai điều kiện, đó là sản phẩm do lao động tạo ra và sản phẩm đó phải dùng
được vào mục đích bn bán trên thị trường. Tuy vậy, mồi hàng hóa lại có
một tính chất riêng. Có những loại hàng hóa đặc biệt mà việc sản xuất, vận

chuyển, sử dụng các loại hàng hóa đó trên thị trường gây ra những ảnh hưởng
xấu đến sức khỏe con người, môi trường, xã hội, gây ra các ảnh hưởng lớn
đến quốc phòng - an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa dân tộc vì vậy Nhà nước
cần phải độc quyền quản lý loại hàng hoá đó. Trong xã hội gọi những hàng

hố này là “hàng cấm” hay “hàng quốc cấm”.

Từ điển Luật học cũng giải thích rằng: “hàng cấm là hàng hố bị Nhà
nước cấm kinh doanh”.

Theo Khoản 6 Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013
của Chính

phủ quy định về xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại thì,
sản xuất, bn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

7


có nêu: “Hàng câm là những mặt hàng bị câm sử dụng; hàng hóa chưa được
phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam”.
Danh mục các loại hàng cấm của Việt Nam có sự thay đổi theo thời

gian và thường xuyên được điều chỉnh tương thích với các đặc điểm kinh tế -

xã hội. Ví dụ, trước đây, một số vật nuôi và cây trồng được phép nhập về Việt

Nam nhưng hiện nay thì bị cấm. Hoặc trước đây pháo là mặt hàng được phép
nhập khẩu nhưng ngày nay lại bị cấm.
Hàng cấm theo pháp luật Việt Nam có thể hiểu dưới các góc độ khác

nhau:

- Dưới góc độ xã hội, hàng cấm được hiểu phổ biến nhất là những mặt
hàng đặc biệt do Nhà nước trực tiếp quản lý độc quyền, cấm sản xuất, kinh
doanh. Theo triết học Mác - Lê nin hàng hoá là sản phẩm của lao động thơng
qua hoạt động trao đổi, mua bán. Hàng hố có thế là hữu hình hoặc vơ hình


mà nhờ vào tính chất của nó thỗ mãn nhu cầu của con người. Trong nền kinh
tế thị trường, hàng hoá ngày càng trở nên đa dạng phong phú. Việc quản lý

đối với các loại hàng hoá và các hoạt động kinh doanh liên quan đến hàng hố
ngày càng phức tạp, khó khăn hơn bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều của các

loại hàng hố gây ảnh hưởng xấu tới con người, 8 mơi trường và xã hội. Từ
sự phát triển của tự do thương mại mà Nhà nước thống nhất quản lý những

mặt hàng có tính chất đặc biệt, có những đặc tính riêng cần phải hạn chế cách
ly các hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán những mặt hàng đó

trong xã hội. Pháp luật quy định cấm tuyệt đối với những mặt hàng khi lưu
thơng hoặc sử dụng có thể gây nguy hại cho an ninh, quốc phòng, trật tự an
tồn xã hội, truyền thống văn hóa, mơi trường và sức khỏe nhân dân, vì vậy

Nhà nước cần phải độc quyền quản lý loại hàng hố đó.
- Dưới góc độ kinh tế thì hàng cấm là hàng hố nhưng thuộc loại do

Nhà nước thống nhất quản lý cấm các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt
động sản xuất, tàng trữ, vận chuyến và bn bán. Hàng hóa và sản xuất, buôn

8


bán hàng hóa găn liên với hoạt động kinh doanh, phản ánh môi quan hệ giữa

người với người trong quá trình kinh doanh như: phân phối, trao đổi tiêu dùng
của cải vật chất xã hội nhằm mục đích thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ


ra ban đầu. Việc sản xuất hàng hóa là bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của sự

phát triển kinh tế, đồng thời nó cũng phù hợp với xu thế vận động của quá
trình hoạt động kinh doanh. Qua các thời kỳ phát triển kinh tế, xã hội lượng

hàng hóa sản xuất ngày một nhiều và đa dạng. Có hàng hố được tự do sản

xuất, kinh doanh; có những mặt hàng do tính chất đặc thù của nó mà Nhà
nước phải cấm thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, do

những lợi nhuận mà các mặt hàng này đem lại, các cá nhân, tổ chức lén lút
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm
(CTTP) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội sản xuất, tàng trữ,

vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Mặc dù vậy, cho đến nay khái niệm hàng
cấm vẫn chưa có bất cứ văn bản pháp luật nào đưa ra một cách hiểu thống
nhất. Trong quá trình giải quyết về loại vụ việc liên quan đến hàng cấm, một

vấn đề đặt ra đối với các cơ quan chức năng là phải hiểu rõ thế nào là hàng
cấm và các loại hàng cấm để từ đó mới ra được những quyết định phù hợp,
đúng đắn phục vụ tốt cho cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm về trật tự

kinh tế nói chung, tội phạm về tàng trữ, vận chuyến hàng cấm nói riêng.

Dưới góc độ pháp lý, hàng cấm là đối tượng đặc biệt, được Nhà nước
quản lý và xử lý đối với hành vi liên quan đến nó. Trong pháp luật thương

mại, đầu tư đều có quy định những đối tượng cấm hoạt động kinh doanh đầu


tư và có các chế tài xử phạt đối với hành vi liên quan đến hàng cấm. Khoản 1
Điều 25 Luật thương mại xác định: “Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của
từng thời kỳ và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên, Chính phủ quy định cụ thể danh mục hàng hoá cấm kinh doanh,
hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hố kinh doanh có điều kiện và điều kiện

để được kinh doanh hàng hố đó”. Đối với pháp luật về thương mại đầu tư,

9


các nhà làm luật không định nghĩa hàng câm là gì mà được quy định thành
danh mục cụ thể những mặt hàng cấm kinh doanh. Danh mục này do Chính

phủ quy định và từng thời kỳ khác nhau thì danh mục hàng hoá cấm kinh
doanh cũng thay đổi. Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15

tháng 11 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng có giài thích: “Hàng cấm” gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa

cấm lưu hành, sử dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt

Nam. Dưới góc độ pháp lý hình sự, hàng cấm được xác định là đối tượng của
tội phạm về kinh tế, bị xem là đối tượng: “bất hợp pháp”. Việc lưu thông và

kinh doanh đối với đối tượng này ở mức độ nhất định là hành vi tội phạm, bị
pháp luật hình sự nghiêm cấm. Để hiểu rõ về hàng cấm, ngoài việc xem xét

khái niệm hàng hóa nói chung, chúng ta cần thiết phải tìm hiểu các văn bản

pháp luật quy định về hàng cấm và dấu hiệu nhận biết hàng cấm. Tuy nhiên,

cho trước khi BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 được ban hành,
các quy định pháp lý về hàng cấm còn chưa chỉ ra khái niệm hàng cấm và

chưa quy định cụ thể dấu hiệu nhận biết đối tượng hàng cấm đã được điều
chỉnh tại các điều luật khác với Điều 155 BLHS năm 1999. Điều này đã gây

những khó khăn nhất định cho việc nghiên cứu, tìm hiếu đế nhận thức cho

đúng về hàng cấm dưới góc độ pháp lý.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đưa ra khái

niệm về hàng cấm mà hàng cấm chỉ được nhắc đến một cách chung chung.
Để đưa ra 10 khái niệm đầy đủ nhất về hàng cấm dưới góc độ pháp luật hình

sự cần chú ý một số nội dung cơ bản sau: Một là hàng cấm là loại hàng hoá
đặc biệt do nhà nước thống nhất quản lý và quy định cụ thể danh mục hàng

hoá thuộc loại này. Hưí là danh mục hàng cấm khơng cố định mà có sự thay

đổi theo từng thời kỳ khác nhau. Có nhiều loại hàng hố có tính chất cấm vĩnh
viễn, cũng có những hàng hố chỉ cấm tạm thời. Ba là hàng cấm có tác hại về

10


kinh tế, có khả năng gây hại cho tính mạng, sức khoẻ con người và ảnh hưởng
tới sự phát triến kinh tế, văn hố, chính trị của mỗi quốc gia. Bốn là tuỳ thuộc


vào chế độ quản lý của mỗi quốc gia mà việc quy định các mặt hàng cấm sản

xuất kinh doanh khác nhau.
Từ các phân tích ở trên, quan điểm của tác giả về hàng cấm như sau:
“Hàng cấm là các loại hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, trao đôi, mua

bán, sản xuất, sử dụng hoặc chưa được phép sử dụng, lưu hành ở Việt Nam,

được liệt kê cụ thể trong danh mục cấm cá nhân, tổ chức sản xuất, tàng trữ,

vận chuyên, buôn bản
1.1.2. Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyến hàng cẩm
Tội phạm nói chung hay tội tàng trữ vận chuyến hàng cấm nói riêng

đều
là biểu hiện xấu của xã hội, xuất phát từ mối quan hệ cung - càu và sự

phát triển
kinh tế xã hội. Ớ các quốc gia trên thế giới, với mong muốn bảo vệ lợi

ích của đất nước mình và đồng nhất tập quán thương mại quốc tế đã và đang
đưa ra những giải pháp nhằm phòng ngừa, đấu tranh và giảm thiểu tác động
xấu của loại tội phạm này. Hành vi thoả mãn các yếu tố nêu trên mới được coi
là tội phạm. Hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm để được coi là tội phạm

cũng phải thoả mãn các yếu tố theo quy định của pháp luật.
Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được quy định tại Điều 191, trong
chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của BLHS năm
2015. Để tìm ra khái niệm chính xác về loại tội phạm này, cần tìm hiểu khái


niệm của các cụm từ, thuật ngữ tạo nên tội danh và nguồn gốc, bản chất của
hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm..

BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm tại Điều 191: “Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy

11


định tại các điêu 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306,

309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...”.

Vì bản chất là hoạt động kinh tế mang tính xã hội nên lưu thông hàng
cấm sẽ luôn chịu ảnh hưởng của các quy luật kinh tế, vậy nên quan niệm về
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của từng quốc gia trên thế giới trong từng

giai đoạn kinh tế, văn hóa xã hội, chính trị cũng sẽ khơng đồng nhất. Một số
quốc gia sở hữu nền kinh tế phát triển nên có hệ thống pháp luật về kinh

doanh, thương mại trong nước rất chặt chẽ nên việc quản lí hàng hóa lưu
thơng nội địa được quy định rất nghiêm ngặt, cùng với đó là chế tài xử phạt
với hoạt động lull thơng mặt hàng khơng được kinh doanh, hàng hóa kém chất
lượng rất nghiêm khắc, vì vậy các mặt hàng bị cấm mới được áp dụng trong

hệ thống luật hình sự theo quy định đối với hành vi lưu thông hàng hóa cụ thể

như pháo nồ, ma túy... Với các quốc gia khác - có nền kinh tế kém phát triển

hơn thì việc chấp hành pháp luật của người dân sẽ cịn hạn chế, những hành vi
lưu thơng hàng cấm tinh vi, phức tạp hơn, gây khó khăn cho cơ quan điều tra,

vậy nên các quốc gia này phải áp dụng biện pháp nghiêm khắc nhất là hình
phạt với những hành vi lưu thơng hàng cấm có trong danh mục do Chính phủ
quy định.
Với những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm như sau: Tội tàng trữ,vận chuyển hàng cấm là hành vi che
giấu, cất giữ trái phép, vận chuyên trái phép các hàng hóa Nhà nước cẩm

kinh doanh, bn bán, sử dụng, lưu hành, chưa được phép sử dụng, chưa

được phép lưu hành, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp
nhãn thương mại thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ của Nhà nước trong

quản lý, sán xuất, kinh doanh các loại hàng hóa cụ thê.

12


1.1.3. Đặc đỉêm của tội tàng trữ, vận chuyên hàng câm
Thứ nhất, hàng cấm là hàng hóa khơng được pháp luật Việt Nam cho
phép lưu thông trên thị trường, cả sản xuất lẫn kinh doanh bn bán', Các loại
hàng hóa mà Nhà nước độc quyền quản lý (vd: vật liệu nổ, pháo hoa, hàng
hóa phục vụ mục đích quốc phịng, an ninh, thuốc lá điếu...); Các loại hàng
hóa gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe con người;

Thứ hai, hàng cấm gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an tồn xã hội.

Những loại hàng cấm điển hình như pháo nổ, vũ khí quân dụng, đồ chơi nguy

hiếm, sản phẩm đồi trụy, mê tín dị đoan là những loại hàng hóa gây ra tác
động xấu đến tình hình an ninh, chính trị, sức khỏe và tính mạng của người

dân.
Thứ ba, hàng cẩm do Nhà nước xác định trong từng thời kì nhất định

tùy vào tình hình kinh tế xã hội trong giai đoạn nhất định. Danh mục các loại
hàng hóa cấm khơng cố định mà có sự thay đổi, trong danh mục đó có loại

hàng cấm có tính chất vĩnh viễn, không thay đổi như các chất ma t nhưng
cũng có loại hàng cấm khơng có tính chất như vậy như thuốc lá điếu của nước
ngoài...vậy nên muốn xác định hàng hóa nào là hàng cấm cần phái xem xét

dựa trên nhiều yếu tố như vị trí, mơi trường, văn hóa, tình hình chính trị...từ
đó mới có thế xác định đâu là hàng hóa gây ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội và

có những biện pháp nghiêm cấm loại hàng hóa đó.
Thứ tư, hàng cẩm có tỉnh chất và giả trị sử dụng đặc biệt đã được quy
định thành các tội phạm độc lập khác. Các loại hàng cấm này là những hàng
hóa mang tính chất nguy hiểm cả về an ninh - trật tự lẫn sức khỏe, tính mạng
con người, tiêu biểu nhất là ma túy, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ... Việc chỉ

xếp những hàng hóa này vào danh mục hàng cấm là chưa phản ánh hết những
ảnh hưởng tiêu cực mà chúng đem lại, vậy nên việc quy định các loại hàng

cấm này thành những tội phạm độc lập là phù hợp và đúng với yêu cầu thực
tiễn từ các hoạt động trong tố tụng hình sự. Trong BLHS năm 2015 tội phạm

13



về ma túy được quy định đầy đủ tại một chương riêng từ Điều 247 cho đến

Điều 259, với khung hình phạt rất nghiêm khắc để thấy rằng tác hại của loại
hàng cấm này là vô cùng lớn. Cũng theo BLHS 2015, tội phạm liên quan đến

vũ khí quân dụng và vật liệu nổ cũng đã được quy định riêng tại các Điều 304

và Điều 305, góp phần răn đe và tăng sự nhận thức cho người dân về sự nguy
hiểm mà các loại hàng cấm đó đem lại.

1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội tàng trữ, vận

chuyển hàng cấm.
1.2.1. Giai đoạn tù' Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ• luật
• hình sự
• năm 1985

Sau khi giành được chính quyền từ tay Pháp năm 1945, Nhà nước ta đã
khấn trương ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan nhằm phịng ngừa,
đấu tranh hoạt động bn lậu, vận chuyển, tàng trữ buôn bán hàng cấm. Văn
bản đầu tiên phài kể tới đó là sắc lệnh số 50 ngày 9/10/1945, quy định cấm

xuất khẩu kho thóc, gạo, ngơ, đồ hoặc các chế phẩm thuộc về ngũ cốc, nhằm

góp phần đẩy lùi nạn đói năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Tiếp đó là
r

r


f

Săc lệnh sơ 160 ngày 21/8/1946 câm nhập cảng xe hơi, phụ tùng xe hơi, các

máy móc và đồ vật bằng kim khí. Ngày 15/8/1951 Thủ tướng Chính phủ ban

hành Điêu lệ tạm thời sơ 116/TTg quy định các hình thức xử phạt những vi
phạm Điều lệ về xuất nhập khẩu. Ngày 22/12/1952 Chính phủ ban hành Nghị
r

r

9

định sô 225 quy định tịch thu thuôc phiện tàng trữ hoặc vận chun bn bán

Sau giải phóng miền Bắc, Chính phủ lâm thời rất chú ý tới vấn đề ngăn
chặn chống buôn lậu, đầu cơ, buôn bán hàng cấm. Ngày 03/7/1966, Thủ

tướng Chính phũ ra Chỉ thị sơ 118/TTg vê tăng cường quản lý thị trường, đâu

tranh chống đầu cơ, bn lậu trong tình hình mới. Năm 1975 khi đất nước đã
hồn tồn được giải phóng, nhiệm vụ đấu tranh chống bn lậu, đầu cơ ngày
càng khó khăn và phức tạp.

14


Ngày 30/6/1982, Hội đông Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh trừng trị


các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép. Sau đó, ngày
10/5/1983 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định số

46/HĐBT quy định về xử lý hành chính đối với các hành vi đầu cơ buôn lậu,
làm hàng giả, kinh doanh trái phép.

Sau đó một năm, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị quyết số 68/HĐBT
ngày 25/4/1984 về việc chống bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền

tệ qua biên giới.
Ở thời kỳ này, chưa tách riêng hành vi buôn lậu với hành vi liên quan

đến hàng

cấm và được hiểu là những tội phạm về kinh tế vì theo Điều 4 Pháp
lệnh quy

định về tội buôn lậu hoặc tội vận chuyển trái phép hàng hố qua biên
giới trong đó hàng hoá được quan niệm là mọi loại hàng hoá trong đó có cả

hàng cấm.
Có thể nói, trong khoảng thời gian này những chế định xử lý đối với

hàng cấm của Việt Nam cịn mang tính khái qt, chủ yếu tập trung vào xử lý
hành vi lưu thông một số loại hàng hóa đặc biệt đóng vai trị quan trọng trong

hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước và từng bước phục hồi nền kinh tế
sau chiến tranh.


1.2.2. Giai đoạn
từ sau khỉ ban hành Bộ• luật

• hình sự
• năm 1985 đến trước
khi ban hành Bộ• luật
• hình sự
• năm 2015
Bộ luật hình sự 1985 sau khi ra đời đã có những quy định cụ thể về tội

phạm và hình phạt, phần nào đáp ứng được công cuộc đấu tranh phịng chống
tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm trật tự quàn lý kinh tế nói riêng

trong đó có tội buôn bán, tàng trừ hàng cấm.

Điều 166 của Bộ luật Hình sự 1985 đã quy định riêng biệt về tội buôn

bán hàng cấm như sau: “Người nào buôn bán hàng hóa mà Nhà nước cấm

15


kinh doanh, ngoại tệ hoặc bn bán kim khí q, đá quý thì bị phạt tù từ 6

tháng đến 5 năm...” Buôn bán hàng cấm xâm phạm sự quản lý độc quyền của
Nhà nước đối với một số hàng hóa cấm tư nhân và các cơ quan, tổ chức
khơng có chức năng kinh doanh, buôn bán.
Trong thời gian này, Nhà nước cấm tư nhân và các cơ quan, tổ chức

kinh doanh các mặt hàng như: thuốc phiện, hoạt chất thuốc phiện; vũ khí và


một số quântrang, quân dụng; hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hóa và các
sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động; thuốc lá điếu của nước ngoài, ngoại tệ

(theo Quyết định số 193-HĐBT 23 ngày 23/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng
về kinh doanh thương mại và du lịch ở thị trường trong nước; Chỉ thị số
278/CT ngày 03/8/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc cấm nhập

khấu và lưu thông thuốc lá điếu của nước ngoài trên thị trường trong nước;

Chỉ thị số 330/CT-HĐBT ngày 13/9/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng

về tăng cường quản lý ngoại hối; Quyết định số 337/HĐBT ngày 25/10/1991
về một số biện pháp quản lý ngoại tệ trong thời gian trước mắt).

Tại Thông tư liên ngành số 11/TTLN ngày 20/11/1990 của Tòa án nhân
dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ quy
định: lần đầu nhập khẩu trái phép, bn bán thuốc lá điếu nước ngồi với số

lượng dưới 500 bao thì chưa coi là tội phạm nhưng phải bị xử lý hành chính.

Trong trường hợp bn bán thuốc lá ngoại với số lượng từ 500 bao trở lên

hoặc dưới 500 bao nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà cịn vi phạm,
tái phạm, thực hiện nhiều lần, có tố chức, có tính chất chun nghiệp hoặc

chống lại người thi hành cơng vụ thì bị xử lý hình sự. Nếu số lượng hàng hóa

phạm pháp từ 1.500 bao đến dưới 4.500 bao thì coi là phạm tội trong trường
hợp hàng phạm pháp có số lượng lớn. Nếu số lượng hàng hóa phạm pháp từ


4.500 bao trở lên thì coi là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
Buôn bán ngoại tệ với số lượng có giá trị tù’ 3 triệu đồng Việt Nam trở lên

hoặc dưới 3 triệu đồng Việt Nam nhưng đã bị xử lý hành chính mà cịn vi

16


phạm, tái phạm, thực hiện nhiêu lân, có tơ chức, có tính chât chun nghiệp
thì bị xử lý về tội buôn bán hàng cấm.

BLHS năm 1985 với bốn lần sửa đổi, bổ sung: 28/12/1989, 12/8/1991,

22/12/1992 và 10/5/1997 vẫn tiếp tục quy định tội buôn bán hàng cấm là tội

phạm kinh tể và được sửa đồi bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế,
chính trị đất nước.
Ta có thể thấy, từ khi BLHS 1985 được công bố và áp dụng thì tội
phạm về
hàng cấm đã được quy định trong Điều luật riêng để đáp ứng yêu cầu

phòng chống tội phạm về kinh tế. Dù ban đầu mới chỉ quy định tội “bn bán
hàng cấm”, chưa có quy định cụ thể về hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm

nhưng đã thấy được sự nhận thức trong hoạt động lập pháp với tội phạm về
hàng cấm đã bắt đầu có sự chuyển biến so với thời kỳ trước đây. Tuy vậy, kỹ

thuật lập pháp khi mô tã cấu thành tội phạm cơ bân của tội này còn chung


chung, chưa xác định yếu tố dẫn đến cách hiểu mọi hành vi bn bán hàng
cấm đều bị xử lý hình sự khiến cho việc áp dụng pháp luật đối với tội phạm

này còn dàn trải, lan man.

Các quy định trong Bộ luật Hình sự 1985 về các tội phạm xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế đã khơng cịn phù hợp với đường lối quản lý kinh tế đã

được đối mới nhanh chóng qua các năm. Đến kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa X
đã thơng qua Bộ luật Hình sự năm 1999, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2000,

thay thế Bộ luật Hình sự 1985.
BLHS năm 1999 đã quy định cụ thể tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,

buôn bán hàng cấm tại Điều 155, bổ sung 03 loại hành vi phạm tội mới so
với BLHS 1985 đó là hành vi sản xuất hàng cấm, hành vi tàng trừ hàng cấm,
hành vi vận chuyển hàng cấm bởi lẽ trên thực tế, không chỉ riêng hành vi

buôn bán hàng cấm mà hành vi sản xuất, tàng trừ, vận chuyển hàng cấm cũng
được coi là phạm và cần quy định rõ trong BLHS.

17


Điêu 155 quy định tình tiêt: “có sơ lượng lớn, thu lợi bât chính lớn hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại các điều

153, 154, 156, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một
trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” vừa là yếu tố định
tội, vừa là dấu hiệu làm ranh giới giữa hành vi phạm tội với hành vi vi phạm

hành chính.

Điều 155 quy định tình tiết: “nếu không thuộc trường hợp quy định tại
các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này” là đề
giới hạn việc áp dụng điều 155 và là dấu hiệu để phân biệt tội sản xuất, tàng

trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm với một số tội phạm khác trong Bộ luật
Hình sự mà đối tượng phạm tội cũng là các loại hàng hóa, vật dụng mà Nhà

nước cấm sản xuất, tàng trừ, vận chuyến, bn bán.
Điều 155 của Bộ luật Hình sự 1999 cịn quy định thêm những tình tiết
mới là yếu tố định khung hình phạt như: hàng phạm pháp có số lượng rất lớn

hoặc thu lợi bất chính rất lớn; hàng phạm pháp có sổ lượng đặc biệt lớn hoặc

thu lợi bất chính đặc biệt lớn. Điều 155 Bộ luật Hình sự 1999 quy định mức

phạt tù trong từng khung hình phạt đều nhẹ hơn mức phạt quy định tại Điều

166 Bộ luật Hình sự năm 1985. So với Điều 166 của Bộ luật Hình sự 1985,
Điều 155 Bộ luật Hình sự 1999 bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính.
Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong cùng điều luật.
Có thể thấy, khoảng thời gian từ khi ban hành BLHS 1999 đến nay, tội

tàng trữ, vận chuyến hàng cấm đã từng bước hoàn thiện với những nhận thức

đúng đắn cùng kỹ thuật lập pháp tiến bộ rõ rệt so với pháp luật hình sự của

các thời kỳ trước đó.


Như vậy, nghiên cứu khái quát lịch sử các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam qua các giai đoạn trên về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cho
thấy sự quan tâm của Nhà nước về chính sách hình sự đối với tội phạm này.
Từ quy định trong văn bàn riêng lẽ đã được pháp điển hoá trong văn văn bản

18


có hiệu lực pháp lý cao là BLHS; từ việc chỉ quy định các hành vi bị trừng trị

đến việc có tên tội danh, khung hình phạt với các tình tiết tăng nặng trong
khung hình phạt. Các loại hàng cấm, các hành vi phạm tội được thay đổi, bổ

sung theo từng thời
kỳ để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước.

1.3. Quỵ định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội tàng trữ, vận chuyển

hàng cấm
Quốc hội khóa XIII thơng qua Bộ luật hình sự (sửa đổi) vào ngày

27/11/2015,

với đa số phiếu tán thành. Đây là bộ luật có nhiều điếm mới được dư
luận quan tâm, ví dụ như việc bỏ hình phạt tử hình đối với bảy tội danh, quy

định trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Bộ luật Hình sự năm 2015 gồm 3

Phần, 26 Chương, 426 Điều, trong đó Chương XVIII quy định các tội xâm


phạm trật tự quản lý kinh tế. Chương này chia làm 3 mục: Một là Mục các tội
phạm sản xuất, kinh doanh, thương mại. Hai là Mục các tội phạm thuế, tài
chính ngân hàng, chứng khốn, bảo hiểm. Ba là Mục các tội phạm khác xâm

phạm trật tự quản lý kinh tế. Theo đó tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm quy định tại Điều 155 BLHS 1999 được tách thành 02 tội danh
độc lập tại BLHS 2015, đó là tội sản xuất, bn bán hàng cấm (Điều 190) và
tội tàng trừ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191) nhằm đảm bảo phù hợp với tính

chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Đổ đáp ứng yêu cầu đấu tranh

phòng chổng tội phạm, tội tàng trữ, vận chuyến hàng cấm được được phân
biệt với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm quy định tại

Điều 155 BLHS 1999. BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã xếp tội
tàng trừ, vận chuyển hàng cấm vào chương XVIII “Các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế” và quy định tội này tại Điều 191, tách bạch với nhóm tội sản

xuất, buôn bán hàng cấm được quy định tại Điều 190. Trên cở sở các vấn đề

lý luận được nêu trên, luận văn tập trung đề cập các vấn đề về dấu hiệu pháp

19


lý cũng như hình phạt đơi với người phạm tội tàng trừ, vận chuyên hàng câm
quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015 về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm,

cụ thể như sau:
1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các


trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232,

234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật
này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ
06 tháng đến 03 năm:

a) Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành,
cấm sử dụng tù' 50 kilôgam đến dưới 100 kilôgam hoặc tù' 50 lít đến dưới 100 lít;

b) Thuốc lá điếu nhập lậu từ 1.500 bao đến dưới 3.000 bao;

c) Pháo nổ từ 06 kilơgam đến dưới 40 kilơgam;
d) Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử

dụng trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc thu lợi bất
chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

đ) Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại
Việt Nam trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu

lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
e) Hàng hóa dưới mức quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này

nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại

Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 192, 193, 194, 195, 196
và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được

xóa án tích mà cịn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

20


d) Có tính chât chun nghiệp;
đ) Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành,

cấm sử dụng từ 100 kilôgam đến dưới 300 kilôgam hoặc từ 100 lít đến dưới

300 lít;
e) Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao;
g) Pháo nổ từ 40 kilơgam đến dưới 120 kilơgam;

h) Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử

dụng trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất
chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

i) Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt

Nam trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc thu lợi
bất chính từ 300.000.000 đồng đến dưới 700.000.000 đồng;
k) Vận chuyến qua biên giới, trừ hàng hóa là thuốc lá điếu nhập lậu;


l) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thi bị phạt tù từ 05
năm đến 10 năm:
a) Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành,
cấm sử dụng 300 kilôgam trở lên hoặc 300 lít trở lên;
b) Thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên;

c) Pháo nổ 120 kilôgam trở lên;
d) Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử

dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính
500.000.000 đồng trở lên;

đ) Hàng hóa chưa được phép lun hành, chưa được phép sử dụng tại Việt

Nam trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính
700.000.000 đồng trở lên.

21


×