LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo
độ tin cậy, chính xác và trung thực. Kết cẩu và toàn bộ
nội dung trong luận văn không sao chép của bất cứ tác
giả nào, trường hợp trích dẫn tài liệu đê phân tích, trình
bày đều có chú thích tác giả theo đủng quy định.
Người cam đoan
Bùi Thị Thu Hường
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ xứ LÝ VẬT CHỨNG
TRONG LUẬT TĨ TỤNG HÌNH sụ VIỆT NAM......................... 7
1.1.
Khái niệm vật chứng và xử lý vật chúng trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam.................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm vật chứng trong luật tố tụng hình sự.................................... 7
1.1.2. Khái niệm xử lý vật chứng trong luật tô tụng hình sự......................... 12
1.2.
Cơ sở và ý nghĩa của các quy định pháp luật về xủ’ lý vật
chứng trong luật tố tụng hình sự...................................................... 24
1.2.1. Cơ sở quy định pháp luật về xử lý vật chứng trong luật tố tụng
hình sự................................................................................................... 24
r
X
1.2.2. Y nghĩa xây dựng các quy định của pháp luật vê xử lý vật chứng
trong luật tố tụng hình sự..................................................................... 29
Kết luận Chương 1.......................................................................................... 32
Chương 2: PHÁP LUẬT VÀ THỤC TIỄN xử LÝ VẬT CHỨNG
TRONG TỐ TỤNG HÌNH sụ VIỆT NAM.................................... 33
2.1.
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về xử lý vật chứng .... 33
2.1.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về xử lý vật chứng
từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015
2.1.2. Pháp luật về xử lý vật chứng theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015....... 48
2.2.
Thực tiễn xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam......... 62
2.2.1. Một sổ hạn chế trong việc xử lý vật chứng.......................................... 62
2.2.2. Một số vướng mắc trong việc xử lý vật chứng do bất cập từ quy
định của pháp luật................................................................................ 67
Kết luận Chương 2......................................................................................... 76
Chương 3: MỘT SÓ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM xử LÝ VẬT CHÚNG
ĐÚNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TRONG QUÁ TRÌNH
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH sụ...................................................... 78
3.1.
Cơ sở, định hướng của bảo đảm xử lý vật chứng đúng quy
định pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.............. 78
3.1.1. Cơ sở của việc kiến nghị các giải pháp bảo đảm xử lý vật chứng
đúng quy định pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.... 78
3.1.2. Định hướng của việc kiến nghị các giải pháp bảo đảm xử lý vật
chứng đúng quy định pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự................................................................................................... 79
3.2.
Một số giải pháp bảo đảm xử lý vật chứng đúng quy định
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.......................82
3.2.1. Hồn thiện các quy định của pháp luật về xử lý vật chứng................82
3.2.2. Nâng cao năng lực của những người liên quan, tăng cường hướng
dần, kiểm tra, giám sát hoạt động xử lý vật chứng..............................95
Kết luận Chương 3.......................................................................................... 99
KÉT LUẬN.................................................................................................... 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................... 104
DANH MỤC TÙ VIẾT TẮT
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
TTHS:
Tố tụng hình sự
MỞ ĐẦU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Xử lý vật chứng là một trong những hoạt động tố tụng hình sự được
thực hiện bởi các cơ quan có thấm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Hoạt động này được thực hiện tốt là vấn đề quan trọng
đề đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được chính xác, khách quan,
cơng bằng, đấu tranh phòng chống tội phạm hiệu quả. Đồng thời, cũng là một
việc cần thiết để bảo vệ tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức có liên quan,
góp phần ổn định xã hội và phát triền kinh tế. Do đó, hệ thống quy phạm pháp
luật về xử lý vật chứng đã được hình thành nhằm bảo đảm vai trị của hoạt
động này, nó khơng chỉ là quy định của luật tố tụng hình sự mà cịn bao gồm
cả quy định của luật hình sự, luật dân sự và nhũng văn bản pháp luật liên
quan khác. Thực tế hoạt động xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự ở nước ta
những năm qua bên cạnh thành cơng cịn bộc lộ nhiều hạn chế biểu hiện trên
các khía cạnh: pháp luật về xử lý vật chứng chưa phù hợp với thực tế giải
quyết vụ án, cịn có mâu thuần, chồng chéo, chưa cụ thể gây khó khăn khi áp
dụng pháp luật; cịn có vi phạm trong việc xử lý vật chứng của cơ quan, người
có trách nhiệm, bng lỏng quản lý tạo điều kiện cho việc lạm dụng chức vụ
quyền hạn chiếm đoạt, làm hư hỏng, mất mát vật chứng gây ra hậu quả khó
khắc phục. Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là do khoa học
pháp lý tố tụng hình sự chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học liên
quan đến “xử lý vật chứng”. Khái niệm này ít được đề cập trong các nghiên
cứu so với những phạm trù, khái niệm khác của khoa học pháp lý tố tụng hình
sự ở nước ta. Do vậy, việc nghiên cứu cần phải được tiếp tục để góp phần làm
sáng tỏ khái niệm “xử lý vật chửng” trong tố tụng hình sự, phân tích và chỉ ra
những hạn chế trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về xử
1
lý vật chứng đê từ đó đưa ra những kiên nghị đê hoàn thiện quy định của pháp
luật về xử lý vật chứng.
Với các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài 'Xử' lý vật chứng trong luật
tố tụng hình sự Việt Nam' làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quá trình tìm hiểu, tác giả thấy một số tác giá đã nghiên cứu đến những
khía cạnh có liên quan đến đề tài như sau:
Sách chuyên khảo “Chứng cứ trong luật to tụng hình sự Việt Nam" của
tác giả ThS. Nguyễn Văn Cừ, NXB Tư pháp, năm 2005. Luận án tiến sỳ Luật
học “Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự" của tác giả Vũ Xuân Thao -
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2020. Các cơng trình trên có nội
dung nghiên cứu có đề cập đến nội dung về vật chứng và xử lý vật chứng, tuy
nhiên chỉ dừng lại ở mức độ khái quát mà chưa đi sâu phân tích về các nội
dung của xừ lý vật chứng do đây không phải là nội dung trọng tâm nghiên cứu.
Luận văn Thạc sỹ Luật học “Xử lý vật chứng trong giai đoạn xét xử vụ
án hĩnh sự từ thực tiễn các Tòa án quân sự Việt Nam" của tác giả Bùi Mạnh
Thuyết - Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, năm 2018 có nghiên cứu về xử lý vật chứng tuy nhiên trọng tâm của
luận văn chỉ nghiên cứu về xử lý vật chứng trong giai đoạn xét xử vụ án hình
sự từ thực tiễn các Tòa án quân sự Việt Nam chứ khơng phân tích sâu các vấn
đề lý luận về xử lý vật chứng để đưa ra khái niệm “xử lý vật chứng” với đầy
đủ các nội hàm của nó.
Một số bài viết đăng trên các tạp chí như: “Xử lý vật chứng vụ án hình
sự là tài sản thế chấp" của tác giả Nguyễn Thị Phương Anh, đăng trên tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 401/2020; “Thực trạng quy định của BLTTHS năm
2003 về vật chứng" của tác giả Hồng Thị Minh Sơn, đăng trên tạp chí Luật
học, số 6/2013; “Hoàn thiện quy định về xử lý vật chứng theo pháp luật tổ
2
tụng hình sự Việt Nam" của tác giả Thái Chí Bình, đăng trên tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 17/2012; "Bàn về khái niệm vật chứng trong luật TTHS Việt
Nam" của tác giả Đặng Văn Quý, đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số
2/2010 và một số bài viết đăng trên các tạp chí điện từ có đề cập đến một số
vướng mắc khi xử lý vật chứng trong một số trường hợp cụ thể khá gần với đề
tài nghiên cứu của luận văn tuy nhiên nội dung các bài viết chỉ phân tích đến
một hoặc một số nội dung nhỏ của hoạt động “xử lý vật chứng” mà chưa có
sự nghiên cứu một cách tồn diện về “xử lý vật chứng”.
Qua việc phân tích tình hình nghiên cứu đề tài tác giả nhận thấy đề tài
luận văn "Xử lý vật chứng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” khơng trùng
lặp với bất kỳ cơng trình, bài viết nào đã được công bố.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu khái quát
Nghiên cứu đề tài “Xử lý vật chứng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”
để làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về xử lý vật chứng; phân tích pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam quy định về xử lý vật chứng qua các thời kỳ, trong đó
tập trung phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
2015 và chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn xử lý vật chứng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự; trên cơ sở đó, kiến nghị một số giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu khái quát trên, luận văn đặt ra những mục tiêu cụ
thề như sau: Trên cơ sở sự kế thừa các kế thừa các kết quả nghiên cứu của
một sổ cơng trình khoa học có liên quan đến đề tài luận văn, luận văn sẽ chỉ ra
những đặc trưng của khái niệm “xử lý vật chứng” trên cơ sở đó xây dựng định
nghĩa khái niệm “xử lý vật chúng” với đầy đủ những thuộc tính bản chất.
Phân tích, lập luận đưa ra cơ sở, ý nghĩa của các quy định pháp luật về xử lý
3
vật chứng trong luật tơ tụng hình sự. Phân tích các quy định của pháp luật tơ
tụng hình sự Việt Nam về xử lý vật chứng để chỉ ra một số vướng mắc, bất
cập trong thực tiễn áp dụng các quy định về xử lý vật chứng. Trên cơ sở các
vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định về xử lý vật chứng
để kiến nghị các giải pháp bảo đảm xừ lý vật chứng đúng quy định pháp luật
trong quá trình giãi quyết vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cún
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Xử lý vật chứng trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam thông qua các sách chuyên khảo, các luận án, luận
văn, các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học; quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về xử lý vật chứng và thực tiễn áp dụng các quy định
này trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự ớ Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các nội dung liên quan đến lý luận và thực tiễn xử
lý vật chứng trong phạm vi thời gian từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
đến nay và trong phạm vi không gian là tại Việt Nam.
Trong luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu về các nội dung liên quan
đến xử lý vật chứng trong luật tố tụng hình sự chứ khơng nghiên cứu về các
nội dung thu thập, bảo quản vật chứng.
5. Những đóng góp của đề tài
Đề tài đã làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về xử lý vật chứng trên
phương diện lý luận, gồm: đặc điểm của xữ lý vật chứng; khái niệm xử lý vật
chứng; cơ sở quy định xử lý vật chứng trong luật tố tụng hình sự; ý nghĩa cùa
việc quy định xử lý vật chứng trong luật tố tụng hình sự. Đã xây dựng được
khái niệm xử lý vật theo quan điểm khái quát, toàn diện nhưng cụ thể để thấy
đươc bản chất của khái niêm nàv.
4
Đê tài đã phân tích q trình phát triên của pháp luật TTHS quy định vê
xử lý vật chứng qua các giai đoạn bằng việc nghiên cứu một cách hệ thống
các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật là nguồn của Luật TTHS
gồm: Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp, BLTTHS, các
văn bản quy phạm pháp luật dưới luật... Chỉ ra một số vướng mẳc, bất cập
thực tiễn áp dụng các quy định về xử lý vật chứng trên cơ sở đó kiến nghị các
giải pháp bảo đảm xử lý vật chứng đúng quy định pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự.
6. Cư sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận
Tác giả nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sờ lý luận của Chù nghĩa Mác-Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Nhà nước và pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải
cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Ngồi ra, luận văn cịn dựa
trên cơ sở lý luận cùa khoa học luật hình sự, luật TTHS, luật dân sự và những
lý luận có tính phổ biến liên quan đến lình vực này.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận, tác giả sừ dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như sau: Phương pháp phân tích quy phạm để phân tích các quy
phạm trong các văn bản quy phạm pháp luật là nguồn của Luật TTHS gồm:
Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp, BLTTHS, các văn
bản quy phạm pháp luật dưới luật và trong các Nghị quyết của Đàng Cộng sản
Việt Nam. Phương pháp so sánh để có sự hệ thống hóa các quy định của pháp
luật qua các thời kỳ về xử lý vật chứng. Phương pháp lịch sử để làm rõ sự
xuất hiện và phát triển của xử lý vật chửng trong lịch sử tố tụng hình sự Việt
Nam, đồng thời thấy rõ những tác động của các điều kiện kinh tế, xã hội đến
các quy định về xử lý vật chứng.
5
7. Y nghĩa lý luận và thực tiên của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và thục tiễn thiết
thực, về mặt lý luận, luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý về xử
lý vật chứng, cung cấp một định nghĩa khoa học về khái niệm “xử lý vật
chứng” có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập và
nghiên cứu. về mặt thực tiễn, luận văn kiến nghị một số nội dung để hoàn thiện
pháp luật về xử lý vật chứng cũng như các giãi pháp cần thiết khác để nâng cao
chất lượng hoạt động xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự. Luận văn có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc xây dựng, sửa đổi và hướng
dẫn thi hành các quy định của pháp luật liên quan đen xử lý vật chứng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 03 chương:
Chương ỉ: Một số vấn đề lý luận về xử lý vật chứng trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam.
_
n
,
a
Chương 2: Pháp luật và thực tiên xử lý vật chứng trong tô tụng hình sự
Việt Nam.
r
Chương 3: Một sơ giải pháp đảm bảo xừ lý vật chứng đúng quy định
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ xứ LÝ VẬT CHÚNG
TRONG LUẬT TĨ TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM
1.1. Khái niệm vật chứng và xử lý vật chúng trong luật tố tụng hình
•
•
KỈ
ơ
•
ơ
•
♦
sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm vật chúng trong luật tố tụng hình sự
Vật chứng trong TTHS là một khái niệm có tính lịch sử, từ khơng được
nhắc tới, gần như khơng có vai trị đối với việc giải quyết vụ án hình sự trong
thời kỳ tố tụng tố cáo [8, tr. 30-31], cho đến khi trở thành một phương tiện
quan trọng để chứng minh tội phạm [5, tr. 222] như hiện nay, khái niệm vật
chứng đã dần được hoàn thiện cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam thời gian qua, dưới những góc độ
tiếp cận khác nhau, một số khái niệm về chứng cứ đã đưa ra như sau:
Quan điểm thứ nhất: Vật chứng là những vật (đồ vật, động vật, thực
vật, các chất rắn, lỏng, ...) mà dựa vào đó có thế xác định các sự kiện có ý
nghĩa đổi với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Những vật mang những
thơng tin xác định sự kiện đã xảy ra có liên quan đến vụ án hình sự. Việc khai
thác các thơng tin từ vật chứng khác với việc khai thác các thông tin từ lời
khai của những người tham gia TTHS (người làm chứng, người bị hại, ...).
Thông tin do người tham gia TTHS cung cấp được mã hóa dưới dạng lời nói
và chữ viết. Với những ngơn ngữ này, con người có thể hiểu được ngay về sự
việc mà các thông tin này xác định. Song việc khai thác các thông tin từ vật
chứng lại đòi hỏi sự quan sát trực quan, tỉ mỉ, có sử dụng đến các phương tiện
hỗ trợ và các thành tựu khoa học khác. Cho nên, có người gọi vật chứng là
“nhân chứng câm” [8, tr. 95-96].
Quan điểm thứ hai: Vật chứng là vật có giá trị chứng minh tội phạm,
7
người phạm tội cũng như các tình tiêt khác cân cho việc giải quyêt đúng đăn
vụ án [20, tr. 7].
Hai quan điểm này đã chỉ ra được đặc điểm quan trọng trong nội hàm
khái niệm chứng cứ - giá trị chứng minh của chứng cứ nhưng chưa chỉ ra
được đặc điểm về tính họp pháp của chứng cứ.
Quan điểm thứ ba: Vật chứng là vật thể được thu thập theo thủ tục do
pháp luật TTHS quy định, chứa đựng các thơng tin có ý nghĩa đổi với việc
giải quyết vụ án [32, tr.167]. Quan điểm thứ ba đã chỉ ra đặc điểm về tính hợp
pháp của vật chúng, tuy nhiên cũng giống như hai quan điếm trên, các quan
điểm này mở rộng phạm vi đối tượng được xem là vật chứng quá lớn “có ý
nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”, “các tình tiết khác cần
cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”. Trong một vụ án hình sự ngồi chứng
minh tội phạm và người phạm tội, còn rất nhiều những nội dung khác cần
chứng minh có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Tất các các vật thể mang
thơng tin có ý nghĩa đối với quá trình giải quyết vụ án đều được xác định là vật
chứng và phải được thu thập, bão quản và xử lý theo quy định của pháp luật về
vật chứng thì sẽ là một áp lực lớn đối với các chủ thể tiến hành tố tụng.
Trên cơ sở các quan điếm về vật chứng nêu trên, dựa trên lý luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận thức, tác giả cho rằng, vật chứng là
những vật thể chứa đựng những thơng tin có thể xác định là chứng cứ của vụ
án hình sự nếu thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ là tính khách quan, tính
liên quan và tính họp pháp.
- Tính khách quan: Vật thể là vật chứng dùng để chứng minh tội phạm
phái có thật và tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Những
dấu vết của tội phạm tồn tại khách quan và được lưu giữ ở dạng vật chất là
nguồn chứng cứ quan trọng đế chứng minh tội phạm. Tội phạm là hành vi cụ
thể của con người thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan, hoạt động tội
8
phạm hoạt động vật chât. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã chỉ ra răng phản
ánh là thuộc tính của vật chửng [8, tr. 53-54], Phản ảnh là khả năng, lưu giữ,
tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác
được hình thành trên sự tác động qua lại giữa các hệ thống vật chất. Vụ án
hình sự là một quá trình vật chất xảy ra trong hiện thực, là hiện tuợng tồn tại
khác quan trong thế giới vật chất. Do đó, vụ án hình sự được thế giới khách
quan phản ánh lại bao gồm phán ánh vật chất và phản ánh ý thức. Kết q của
q trình phản ánh vật chất chính là vật chứng - nhũng dấu vết, vật thể, các
chất ở thể rắn, lỏng, khí, ... mà con người có thể tri giác trực tiếp được hoặc
thông qua các công cụ phương tiện khoa học mà thấy được. Từ khi phản ánh
những thông tin, dấu vết mà tội phạm đế lại, vật chứng đã mang trong mình
giá trị chứng minh, khơng phụ thuộc vào việc chủ thề có trách nhiệm chứng
minh có nhận thức được giá trị chứng minh của nó hay khơng và nhận thức
đến mức độ nào. Tự thân vật chứng tồn tại một cách độc lập thông qua q
trình tác động với tội phạm, khơng phụ thuộc vào việc người phạm tội hay bất
kỳ chù thề nào khác có mong muốn nó tồn tại hay khơng.
- Tính liên quan: Vật chứng phải liên quan đến vụ án, chứng minh cho
vấn đề càn biết nhưng chưa biết trong vụ án hình sự. Trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự việc đầu tiên cần làm cũng chính là mục đích cuối cùng
mà các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng mong muốn đạt được chính là
xác định đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự [22, tr.20]. Tồn bộ
những sự kiện, tình tiết liên quan đến tội phạm xảy ra trong thực tế khách
quan là đối tượng chứng minh trong vụ án, đòi hởi các chủ thể tố tụng phải
làm rõ trong quá trình giải quyết vụ án. Để đảm bào cơ sở pháp lý cho hoạt
động chứng minh tội phạm thì mỗi nước đều phải quy định đối tượng chứng
minh trong pháp luật nước mình nhưng nội dung và phạm vi đối tượng chứng
minh trong pháp luật các nước có sự khác nhau. Mặc dù có phạm vi, cách
9
thức, mức độ khác nhau nhưng thông qua pháp luật, các quôc gia đêu đê cập
đến đối tượng chứng minh trong VAHS với những nội dung chủ yếu sau đây:
(1) Sự kiện phạm tội, (2) Hành vi phạm tội, (3) Những tình tiết chứng minh
ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự và hình phạt, (4) Những tình tiết chứng
minh cho các căn cứ chúng minh trong vụ án hình sự, (5) Những tình tiết
chứng minh trong vụ án hình sự được giải quyết theo thủ tục tố tụng đặc biệt,
(6) Những tình tiết chứng minh để giải quyết các vấn đề tố tụng trong vụ án
hình sự, (7) Những tình tiết làm căn cứ giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự và những tình tiết khác cần phải làm rõ khi giải quyết vụ án (8)
Những tình tiết trong vụ án hình sự khơng phải chứng minh [22, tr. 92]. Quá
trình tiến hành tố tụng ban đầu, những nhận thức về sự việc phạm tội cịn ít,
chưa hiểu rõ cơ chế tội phạm để lại thông tin, dấu vết trên các vật thể bên
ngoài thế giới khách quan nên chủ thề có trách nhiệm chứng minh có thế sẽ
thu giữ nhiều đối tượng vật chất có nghi ngờ liên quan đến sự việc phạm tội,
có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Các vật thể này có thể có liên quan đến
vụ án hình sự ờ mức độ nhất định nào đó, có thể là căn cứ chứng minh cho
một trong các đối tượng cần chứng minh trong vụ án hình sự đã nêu trên. Tuy
nhiên, không phải tất cả những vật thể này đều là vật chứng của vụ án, chỉ
những vật thể mang thông tin có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm
tội mới là vật chứng của vụ án. Nghĩa là, vật chứng chỉ là những vật thể
chứng minh các nội dung: sự kiện phạm tội, hành vi phạm tội và trách nhiệm
hình sự và hình phạt; các vật thể chứng minh cho các nội dung khác không
phải là vật chứng của vụ án. Nhiều quan điểm cho rằng, các vật thể mang
thơng tin có giá trị chúng minh các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải
quyết vụ án đều là vật chứng của vụ án [20, tr. 7] [32, tr. 167]. Tuy nhiên, như
đã phân tích nêu trên, việc mở rộng như vậy sẽ gây khó khăn cho việc thu
thập, bảo quản và xử lý vật chứng của các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
10
- Tính họp pháp: Khoa học luật tơ tụng hình sự đã chỉ ra răng, tính hợp
pháp của chứng cứ nói chung được thể hiện trên 02 phương diện, đó là chứng
cứ phải được xác định từ những nguồn chứng cứ và được thu thập, kiểm tra,
đánh giá theo quy định của Luật tố tụng hình sự [8, tr. 84]. Vật chứng bẳn
thân đã là một nguồn chứng cứ hợp pháp, do đó, để đảm bảo tính hợp pháp thì
vật chứng phải được thu thập, bảo quản bởi những chủ thế có thấm quyền,
bằng những biện pháp họp pháp do pháp luật quy định. Tùy thuộc từng mơ
hình TTHS, từng giai đoạn mà pháp luật quy định cụ thể về thẩm quyền, biện
pháp thu thập, bảo quản vật chứng sẽ khơng giống nhau. Tuy nhiên, dù là mơ
hình TTHS nào cũng địi hởi tính hợp pháp của chứng cứ, nghĩa là chúng phải
được thu thập bằng những biện pháp thu thập chứng cứ do luật định. Thông
thường các biện pháp đó bao gồm: khám xét, thu giữ tài liệu, đồ vật, khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thế, giám
định, định giá, ... Vật chứng là phương tiện quan trọng để chứng minh tội
phạm, giá trị chứng minh của vật chứng cao, chứa đựng các dấu vết của tội
phạm do đó việc phát hiện, thu thập, bảo quản vật chứng phải hết sức cấn
trọng, nếu mất nguồn sẽ mất đi sự kiện chứng minh. Tuyệt đối không để mất
mát, hư hỏng hay bị tiêu hủy hoặc đánh tráo. Khi thu thập vật chứng, vật
chứng phải được mô tả tỉ mỉ đặc điểm của vật đó như: màu sắc, khổi lượng,
trọng lượng, hình dáng, những dấu vết tội phạm để lại ở vật chứng, nơi tìm
thấy hoặc người cung cấp. Những vật chứng khơng được thu thập, bảo quăn
bằng những biện pháp hợp pháp trên thì khơng được coi là vật chứng đế chứng
minh tội phạm [8, tr. 178-179]. Như vậy, tính hợp pháp của vật chứng thể hiện
trên 02 phương diện: vật chứng là nguồn chứng cứ được quy định trong luật
TTHS; các biện pháp thu thập vật chứng được quy định trong luật TTHS.
Các thuộc tính nêu trên có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau trong
thể thống nhất [5, tr. 218], thiếu một trong các thuộc tính đó sẽ khơng thể là
vật chứng trong vụ án hình sự.
11
Vật chứng trong vụ án hình sự cân được phân loại theo các nhóm đê
đánh giá và xử lý phù họp. Căn cử vào đặc điểm của quá trình xuất hiện và
tham gia vào quá trình xảy ra vụ án hình sự, phân chia vật chứng thành 04
loại sau: (1) Vật chứng là vật làm công cụ, phương tiện phạm tội; (2) Vật
chứng là những vật mang dấu vết cùa tội phạm; (3) Vật chứng là những vật
được coi là đối tượng của tội phạm; (4) Vật chứng là những vật khác có giá trị
chứng minh tội phạm và người phạm tội [8, tr. 96].
Căn cứ vào giá trị chứng minh của vật chứng, có thể chia vật chứng
thành hai loại là vật chứng dùng để chứng minh tội phạm và vật chứng dùng
để chứng minh người phạm tội [8, tr. 97-98],
Căn cứ vào tính năng, tác dụng của vật chứng mà người ta chia vật
chứng thành vật chứng là vũ khí, chất độc, chất cháy, chất phóng xạ... và vật
chứng là các vật thông thường.
Căn cứ vào giá trị sử dụng của vật chứng, người ta chia thành vật
chứng có giá trị và vật chứng khơng có giá trị sử dụng.
Căn cứ vào thời gian tồn tại có giá trị sử dụng cùa vật chứng người ta
chia thành vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc dễ bị phân hủy, vật chứng có
thời gian sử dụng ngắn ...
Căn cứ vào tính chất đặc biệt của vật chúng người ta chia vật chứng
thành vật chứng là tiền vàng, kim khí quý, ... và vật chứng là các tài sản
thông dụng [8, tr. 98-99],
1.1.2. Khái niệm xử lý vật chúng trong luật tổ tụng hình sự
Vật chứng là một trong những nguồn chứng cứ được quy định trong
Luật TTHS, có ý nghĩa quan trọng đối với việc chứng minh tội phạm và
người phạm tội trong quá trình giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, việc xử lý vật
chứng cũng địi hỏi khơng làm mất đi giá trị chứng minh của chứng cứ nhung
đồng thời cũng phải bảo đảm tính nguyên vẹn, bảo đảm giá trị và giá trị sử
12
dụng của tài sản là vật chứng đôi với đời sơng xã hội, nhât là đơi với việc duy
trì, phát triển sản xuất ra của cải cho xã hội. Do vậy, khái niệm xử lý vật
chứng không chỉ thuần túy về mặt pháp lý mà còn bao gồm những nội dung
liên quan đến kinh tế xã hội, nó có nội hàm rộng hơn những khái niệm pháp
lý đơn thuần. Quá trình nghiên cứu, tác giả cho rằng, khi đề cập đến khái
niệm “xử lý vật chứng” cần tiếp cận theo quan điềm khái quát, toàn diện
nhưng cụ thể để thấy được bản chất của khái niệm này. Trên cơ sở tiếp cận
này, tác giả nêu ra những nội hàm của khái niệm “xử lý vật chứng” sau đây:
ỉ.1.2.1. Xử lý vật chứng là hoạt động tố tụng của cơ quan, người có
thâm quyền tiến hành tố tụng trong q trình giải quyết vụ án
Hoạt động tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
là nền tảng của quá trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khỏi tố
vụ án đến giai đoạn thi hành án hình sự. Khoa học pháp lý TTHS Việt Nam
quan niệm rằng: “TTHS bao gồm toàn bộ hoạt động của các chù thể tố tụng
hướng tới việc giải quyết vụ án khách quan, cơng bằng, góp phần bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người và các chủ thể khác trong xã hội, đấu trang phòng
ngừa và chống tội phạm” [5, tr. 19-20], Những hoạt động diễn ra trong các
giai đoạn tố tụng khác nhau và có mục tiêu cụ thể gắn liền với chủ thể giải
quyết vụ án ở giai đoạn tố tụng đó. Hoạt động phát hiện, thu thập, bảo quản
và xử lý vật chứng diễn ra ở tất cả các giai đoạn tố tụng, ngay cả ở giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự cũng đã có hoạt động xử lý vật chứng. Hoạt động xử lý
vật chửng là một hoạt động tố tụng có tính đặc thù. Trên cơ sở phân tích các
quy định về hoạt động tố tụng này có thể thấy, hoạt động xử lý vật chứng bao
gồm 02 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất gồm các hoạt động ban hành quyết định
xử lý vật chứng; giai đoạn thứ hai bao gồm các hoạt động để thi hành quyết
định xử lý vật chứng đã được ban hành. Hai giai đoạn này với thấm quyền,
trình tự, thù tục với các yêu cầu khác nhau nhằm những mục đích khác nhau
13
được quy định trong pháp luật TTHS mồi quốc gia nhằm đảm bảo hoạt động
xử lý đảm bảo tính khách quan, minh bạch. Do tính chất phức tạp và là hoạt
động có mức độ ảnh hưởng lớn nên việc ban hành quyết định xử lý vật chứng
thông thường phải là thẩm quyền của những chủ thế có chức vụ trong các cơ
quan tiến hành tố tụng như cấp trưởng, cấp phó; hoạt động thi hành quyết
định xử lý vật chứng được giao cho những người tiến hành tố tụng khác có
chức danh tư pháp trong các cơ quan có thẩm quyền. Trên cơ sở sự phân công
về thẩm quyền và những quy định về trình tự cho từng giai đoạn được luật
quy định cụ thế đã hạn chế tình trạng sai sót hoặc chậm trong việc xử lý vật
chứng. Bởi lẽ, vật chứng là một nguồn chứng cứ quan trọng trong việc chứng
minh tội phạm và người phạm tội nhưng khơng thể để đến thời điểm kết thúc
q trình tố tụng mới xử lý vật chứng mà việc xử lý vật chứng phải được thực
hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án tùy thuộc vào đặc điểm của vật
chứng để đảm bão các lợi ích về kinh tế, xã hội. Do đó, việc phân chia rõ ràng
thẩm quyền cũng là một cơ chế để nâng cao trách nhiệm cùa những người có
thẩm quyền và các cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành quyết định và
thi hành quyết định xử lý vật chứng.
1. ỉ.2.2. Các hình thức xử lý vật chứng
về nguyên tắc, vật hoặc tài sản bị thu giữ với tư cách là vật chứng nghĩa là những vật thể, tài sản có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm
tội - thì mới thuộc phạm vi xử lý vật chứng. Nói cách khác, các hình thức xử
lý vật chửng chỉ áp dụng đối với vật chứng, cịn những vật, tài sản khơng phải
là vật chứng đã được thu giữ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì
khơng được áp dụng các quy định về xử lý vật chứng của luật TTHS mà theo
quy định của các ngành luật khác như luật dân sự hoặc luật xử lý vi phạm
hành chính. Có quan điếm đưa cả những vật không phải là vật chứng trong vụ
án hình sự là đối tượng của việc xử lý vật chứng là không đảm bảo logic [42].
14
Việc xác định vật nào là vật chứng, vật nào không phải vật chửng đê áp dụng
đúng các quy định của pháp luật lại là vấn đề gây tranh cãi, các Cấp xét xử
cũng có quan điểm khơng giống nhau trong cùng một vụ án [25]. Hình thức
xử lý vật chứng là các cách thức mà cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng theo quy định cùa pháp luật có thể sừ dụng để giải quyết các vật
chứng đã thu thập trong quá trình giải quyết vụ án. Các hình thức xử lý vật
chứng, có thể là những hình thức xử lý triệt đế, cũng có thể chỉ là hình thức
xử lý tạm thời. Điều quan trọng nhất khi khái quát về các hình thức xử lý vật
chứng là phải xây dựng các điều kiện, phân loại làm sao để một vật chứng
trong vụ án chỉ có một hình thức xử lý duy nhất, tránh tình trạng một vật
chứng nhưng có thế áp dụng nhiều hình thức xử lý khác nhau. Với cách tiếp
cận như vậy, các hình thức xử lý vật chứng tạm thời gồm có: bán theo quy
định của pháp luật, tạm giao cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp tiếp tục
khai thác, sử dụng. Các hình thức xử lý vật chứng triệt để bao gồm: trả lại cho
chù sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, tịch thu nộp ngân sách nhà nước,
tịch thu tiêu hủy, giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử
lý. Cụ thể như sau:
(i) Trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp
Xuất phát từ thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự gặp nhiều trường
hợp, các vật chứng thu được của vụ án có the là tài sản hợp pháp của một cá
nhân, tố chức nào đó trở thành vật chứng của một vụ án hình sự trong khi chủ
sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp không hề mong muốn hoặc có lồi trong
việc những tài sàn này trở thành vật chứng của vụ án. Một trong các nguyên
tắc cơ bán của mọi nhà nước là đảm bão, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp cũa
cá nhân, tổ chức. Do đó, trả lại vật chửng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý
hợp pháp là một hình thức xử lý vật chứng phố biến. Nhà nước ghi nhận, bảo
đảm trong Hiến pháp về việc bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của mọi công
15
dân [17], Bộ luật Dân sự cũng quy định: “Không ai có thê bị tước đoạt trái
luật quyền sở hữu đối với tài sản” [18]. Như vậy, quyền sở hữu hợp phấp
tài sản là quyền cơ bản của mọi người được pháp luật bảo vệ, không ai
được xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác. Vật chứng trong vụ
án hình sự hồn tồn có thể là một tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp
hoặc quyền quản lý hợp pháp của một chủ thể. Do vậy, nếu không có căn
cứ do pháp luật quy định để chấm dứt quyền sở hữu của họ đối với tài sản
cùa họ thì phải trả lại tài sản đó.
Điều kiện để vật chứng được trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quàn lý
hợp pháp bao gồm:
Thứ nhất, những tài sản do họ sở hữu hoặc quản lý hợp pháp đã trở
thành vật chứng của vụ án do nguyên nhân trái ý muốn của họ. Họ không cố ý
hoặc không mong muốn các tài sản này trở thành vật chứng của vụ án.
Thứ hai, phải xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp
đối với vật chứng đó. Vật chứng có thể thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức,
cá nhân. Cá nhân sở hữu vật chứng có thể chính là bản thân bị can, bị cáo
trong vụ án có thể là người khác. Việc xác định chủ sở hữu của một tài sản có
trường hợp tốn rất nhiều thời gian và khơng phải lúc nào cũng có kết quả.
Khơng ít trường hợp hết thời hạn tố tụng cũng chưa xác định được chủ sớ hữu
đối với vật chứng của vụ án. Bên cạnh đó, chưa có quy định về trình tự, thủ
tục thơng báo tìm chủ sở hữu vật chửng dẫn đến việc thực hiện không thống
nhất [41]. Do vậy, điều kiện để vật chứng được trả lại cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp là phải xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý
hợp pháp tài săn đó.
Các trường hợp trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý
hợp pháp phổ biến gồm:
- Vật chứng là tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt. Các vật chứng này
16
có thê là tiên, đơ vật, phương tiện giao thơng, thường gặp trong các vụ án
Cướp tài sản, Trộm cắp tài sản, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản, Chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy, Tham ô tài sản, ...
Chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp những tài sản này có thể là cá nhân,
pháp nhân hoặc Nhà nước.
- Vật chứng là tài sản bị người phạm tội sử dụng làm công cụ, phương
tiện phạm tội nhưng chủ sở hữu hoặc người quăn lý họp pháp những tài sản
này khơng có lồi cố ý trong việc đề những tài sản này trở thành cơng cụ,
phương tiện phạm tội. Trong thực tế có những tài sản của người khác bị người
phạm tội chiếm đoạt, sử dụng trái phép làm công cụ, phương tiện phạm tội,
trờ thành vật chứng của vụ án. Chẳng hạn, người phạm tội mượn xe máy của
người khác để làm phương tiện đi lại nhưng sau đó lại sử dụng đề đi cướp giật
tài sản. Khi đó, chiếc xe máy này trở thành vật chứng trong vụ án Cướp giật
tài sản, người phạm tội cịn bị áp dụng tình tiết tăng nặng định khung là “dùng
thủ đoạn nguy hiểm”. Tuy nhiên, trong trường hợp này chù sở hữu chiếc xe
máy khơng có lỗi trong việc chiếc xe trên trở thành công cụ phạm tội, nên
phải trà lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu.
- Vật chứng là tài sản mang dấu vết của tội phạm nhưng chù sở hữu
hoặc người quản lý hợp pháp những tài sản này không có lỗi cố ý trong việc
để những tài sản này trở thành vật mang dấu vết của tội phạm. Chẳng hạn,
người phạm tội trong vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ, lái xe ô tô va chạm với người khác gây thiệt hại đủ yếu tố để khởi tố vụ án
hình sự, chiếc xe ơ tô sẽ trở thành vật chứng trong vụ án, trên xe ô tô sẽ để lại
dấu vết va chạm, tuy nhiên người phạm tội khơng có lồi cố ý trong việc gây ra
vụ tai nạn, do đó chiếc xe phải được trả lại cho chủ sở hữu.
(ii) Tịch thu vật chứng nộp vào ngân sách Nhà nước
Đây là một hình thức tước quyền sở hữu của người đang sở hữu hoặc
17
đang quản lý vật chứng. Hoạt động xử lý vật chứng là một hoạt động TTHS,
do vậy nó cũng hướng đến mục đích chung cùa hoạt động TTHS đó là phòng
chống tội phạm [8, tr. 17], Khi chứng minh được rằng tài sản do họ đang sở hữu,
đang quản lý là tài sản có được khơng có căn pháp luật, cụ thể là do hành vi
phạm tội mà có hoặc là tài sản hợp pháp của họ nhung họ có lồi trong việc quản
lý để tài sản trở thành công cụ, phương tiện phạm tội thì phải tước quyền sở hữu
cùa họ. Hình thức xử lý này vừa xóa bị điều kiện phạm tội, động cơ phạm tội,
đồng thời đảm bảo các lợi ích cho ngân sách Nhà nước. Do đó, những vật chứng
có giá trị là tài sản khơng thuộc trường hợp được trả lại và thuộc một trong
nhũng trường hợp dưới đây sẽ được tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Nhũng
trường hợp vật chúng bị tịch thu sung quỳ Nhà nước gồm có:
- Vật chứng là tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt nhưng không xác
định được chủ sở hữu. Việc xác định chủ sở hữu của tài sản khơng phải lúc
nào cũng có kết quả, trong những trường hợp đã áp dụng đầy đủ các trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định những vẫn không xác định được ai là chủ sở
hữu của tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt thì vật chứng đó sẽ được tịch
thu nộp ngân sách Nhà nước. Trường hợp này tuy giống về kết quả nhưng
khác cơ bản về bản chất với trường hợp tài sản của Nhà nước bị chiếm đoạt
sau đó được trả lại cho Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản bị chiếm đoạt.
- Vật chứng là tài sản có được do hành vi phạm tội, gồm: những tài sân
do bán, trao đối tài săn đã chiếm đoạt được ờ các tội có tính chất chiếm đoạt;
các khoản thu lợi bất chính từ các tội phạm như Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc
hoặc gá bạc, Buôn lậu, Rửa tiền, Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, ...
- Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội và chủ sở hữu hoặc người
quản lý hợp pháp những tài sản này có lỗi trong việc đề những tài sản này trở
thành công cụ, phương tiện phạm tội.
(iii) Tịch thu tiêu hủy
- Vật chứng bị tịch thu tiêu hủy nếu chúng khơng có giá trị sử dụng
18
hoặc tuy có giá trị sử dụng nhưng giá trị quy đơi thành tiên khơng đáng kê so
với chi phí bảo quản, lưu giữ, thanh lý hóa giá theo quy định cùa pháp luật.
- Vật chứng cũng bị tiêu hủy nếu là vật chứng thuộc loại mau hỏng
hoặc khó bảo quản cần phải bán theo quy định cùa pháp luật nhung không
bán được.
(iv) Giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý
Hình thức xử lý này được áp dụng đối với một số vật chứng đặc biệt
như động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm, thực vật ngoại lai, vũ
khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, vật liệu nồ, ... Đối với những vật
chứng này, việc áp dụng các hình thức xử lý vật chứng nêu trên đều không phù
hợp. Đối với động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm là những loại
động vật cần có quản lý, bảo vệ của các cơ quan quản lý chuyên môn, chuyên
ngành như các trung tâm bảo tồn, các cơ quan kiểm lâm mới đáp ứng được yêu
cầu. Thực vật ngoại lai là các nguồn gen được du nhập từ nước ngoài vào nước
ta, các nguồn gen này có thể có lợi hoặc có hại tuy nhiên đều cần có sự quản lý
nghiêm của những cơ quan có chun mơn. Đối với vũ khí quân dụng, phương
tiện kỹ thuật quân sự, vật liệu nồ, ... các loại vật chứng này không được bảo
quản ở kho vật chúng thông thường mà phải được giao cho các cơ quan, đơn vị
được phép trang bị vũ khí, vật liệu nổ, phương tiện kỹ thuật quân sự để hiện
nhiệm vụ, để các đơn vị này xử lý bằng biện pháp phù hợp.
(v) Bán theo quy định của pháp luật
Đối với những vật chứng không thuộc trường hợp có thể trả lại ngay
cho chủ sở hùn hoặc người quản lý hợp pháp và thuộc loại mau hỏng hoặc
khó bảo quản. Có thể là các loại lương thực, thực phẩm, hàng hóa gần hết hạn
sử dụng hoặc vật chứng cần phải được bào quăn theo một quy trình riêng biệt
nếu bảo quản tại kho vật chứng thông thường sẽ gặp khó khăn, khơng đảm
bảo. Trong trường hợp này, chủ thể có thẩm quyền xử lý vật chứng sẽ phổi
19
hợp với cơ quan liên quan đê bán đâu giá theo quy định của pháp luật. Sô
tiền thu được sau khi bán được nộp tại kho bạc hoặc cơ quan tài chính để
•
•
• X
•
•
•
X
tạm giữ. Thực chất việc xử lý vật chứng theo hình thức bán khơng phải là
cách xử lý triệt để, chỉ là biện pháp tạm thời nhằm tránh xảy ra thiệt hại đối
với vật chứng hoặc ảnh hưởng tới mơi trường. Sau đó, các chủ thể có thẩm
quyền xử lý vật chứng sẽ phải căn cứ vào đặc điểm cụ thể của vật chứng đã
được bán thuộc loại nào để quyết định xử lý đối với số tiền thu được từ
việc bán, có thề là tịch thu nộp ngân sách nhà nước hoặc trả lại cho chú sở
hữu, người quản lý hợp pháp.
(vi) Tạm giao vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý họp pháp
Đối với các vật chửng là kho tàng, nhà xưởng, khách sạn, nhà, đất cũng
như các phương tiện sản xuất kinh doanh thì có thể giao tài sản đó chú sở hữu
hoặc người quản lý hợp pháp tiếp tục khai thác, sử dụng, nếu xét thấy những
tài sản đó có khả năng sinh lời; nếu họ khơng có điều kiện khai thác, sử dụng
nhưng họ tìm được đối tác để khai thác, sử dụng thì có thể giao cho đối tác đó
khai thác sử dụng tài sản sau khi đã có thỏa thuận bằng văn bàn giữa chủ sở
hữu hoặc người quản lý họp pháp với đối tác nhận khai thác, sử dụng tài sản;
nếu họ khơng tìm được đối tác hoặc trong trường hợp không xác định được
chủ sờ hữu, người quản lý hợp pháp thì cơ quan đang thụ lý giải quyết vụ án
có thể giao tài sàn đó cho tổ chức, cá nhân có điều kiện khai thác, sử dụng
trên cơ sở thỏa thuận bằng văn băn giữa cơ quan đang thụ lý vụ án và cá nhân,
tổ chức nhận khai thác, sử dụng tài sản.
Tuy nhiên, các hình thức xử lý vật chứng tạm thời nêu trên chỉ là bước
trung gian, sau đó các cơ quan, người có thẩm quyền sẽ phải có một lần nữa
quyết định việc xử lý đối với các vật chứng này bằng một trong các hình thức
là trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, tịch thu nộp ngân sách
nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy mới đảm bảo tính triệt để của việc xử lý vật
chứng trong vụ án hình sự.
20